Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 06/03/2019-14:36:00 PM
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 02 và 2 tháng năm 2019 tỉnh Hưng Yên

1. Nông nghiệp và thủy sản

1.1. Nông nghiệp

Trồng trọt

Nhiệm vụ trọng tâm trong sản xuất nông nghiệp thời gian qua của các địa phương là tập trung thu hoạch nhanh gọn cây rau màu vụ đông và gieo cấy lúa vụ Xuân.

Đối với sản xuất vụ Đông: Theo tổng hợp kết quả điều tra, diện tích gieo trồng cây vụ Đông năm 2019 của tỉnh đạt 9.461 ha, giảm 1.662 ha, tương đương giảm 14,94% so với vụ Đông năm 2018. Trong đó: cây ngô 2.165 ha, giảm 1.192 ha (giảm 34,51%); khoai lang 307 ha, giảm 22 ha (giảm 6,78%); đậu tương 211 ha, giảm 99 ha (giảm 31,96%); cây lạc 124 ha, giảm 1 ha (giảm 0,96%); rau các loại 5.314 ha, giảm 981 ha (giảm 15,59%). Như vậy, diện tích gieo trồng cây vụ đông không đạt kế hoạch đề ra. Nguyên nhân chính của tình hình trên là nhân lực phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm do giá trị ngày công từ trồng cây vụ đông không cao so với các ngành sản xuất phi nông nghiệp, dẫn đến nhiều lao động ở nông thôn chưa thiết tha với sản xuất vụ đông. Một nguyên nhân khác cũng hết sức quan trọng, đó là giống, phân bón, công làm đất tăng cao, trong khi giá bán sản phẩm cây vụ đông không tăng nhiều đã ảnh hưởng đến đầu tư thâm canh và mở rộng diện tích; một phần diện tích cây hàng năm được các địa phương chuyển đổi sang cây ăn quả có giá trị kinh tế cao (cam, bưởi, ổi...).

Đến nay, các địa phương trong tỉnh đã cơ bản kết thúc thu hoạch cây vụ đông, nhất là những diện tích ở chân ruộng 2 vụ lúa để nhường đất cho gieo cấy lúa vụ xuân, một bộ phận nhỏ diện tích còn lại chủ yếu là đất bãi ven sông Hồng, những diện tích này không sử dụng vào việc gieo cấy lúa. Sản xuất vụ đông năm nay có thuận lợi về thời tiết, mặc dù trong thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây trồng gặp một số đợt rét đậm, rét hại và sâu bệnh, nhưng không ảnh hưởng lớn đến năng suất, sản lượng. Vì vậy, hầu hết các loại cây rau màu năm nay đều cho năng suất khá hơn năm trước.

Sản xuất vụ Xuân: Vụ lúa xuân năm nay, toàn tỉnh có kế hoạch gieo cấy 31.440 ha, trong đó phấn đấu gieo cấy 21.000 ha lúa chất lượng cao (chiếm 66,79% diện tích gieo trồng) bằng các giống lúa như: Bắc Thơm 7, Hương Thơm 1... và các giống lúa nếp. Cùng với đó, tăng cường mở rộng diện tích để gieo cấy các giống lúa lai chiếm khoảng 22-25% diện tích (khoảng 7-8 nghìn ha) như: Thiên ưu 8, TBR1, TH 3-3...., thực hiện cánh đồng mẫu lớn tại một số địa phương.

Để thực hiện thắng lợi kế hoạch sản xuất vụ xuân, thời gian qua, các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh đã tích cực chỉ đạo một số công việc trọng tâm: Ngành Nông nghiệp có kế hoạch cung cấp đủ lượng thóc giống, kể cả giống dự phòng cho nông dân trong tỉnh; theo chỉ đạo của Trung ương, lịch lấy nước đổ ải gieo cấy vụ đông xuân năm nay tổng cộng 16 ngày, gồm 3 đợt (đợt 1 từ 21/01-24/01; đợt 2 từ 31/01-03/02; đợt 3 từ 15/02-22/02), tập trung huy động 100% trạm bơm (kể cả trạm bơm do xã quản lý) hoạt động phục vụ công việc đổ ải khi có nguồn nước, chủ động trữ nước trong các ao, hồ, sông trục, không tháo nước ra sông ngoài gây lãng phí, ảnh hưởng việc tưới dưỡng lúa sau gieo cấy; kiểm tra, giám sát công tác đặt bả, rải bả để diệt chuột theo đúng kỹ thuật; chỉ đạo nông dân các địa phương trong tỉnh không gieo mạ và cấy lúa khi trời rét đậm, rét hại dưới 150C.

Đến ngày 25/02/2019, toàn tỉnh đã gieo, cấy được 29.838 ha lúa xuân, trong đó: cấy 21.906 ha, gieo thẳng 7.932 ha; diệt chuột đợt 1 ước tính được trên 4.027 nghìn con. Năm nay, thời tiết ấm nên tiến độ gieo cấy lúa xuân nhanh hơn so với năm trước. Nông dân các địa phương cần chăm sóc, bón thúc lần 1 đối với những diện tích lúa đã bén rễ hồi xanh tạo điều kiện thuận lợi để lúa đẻ nhánh khoẻ và tập trung, kết hợp tỉa dặm ổn định mật độ đối với lúa gieo thẳng; thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, theo dõi, phòng trừ kịp thời các đối tượng sâu bệnh hại trên những diện tích lúa đã gieo cấy.

Bên cạnh việc gieo cấy lúa xuân, nông dân các địa phương cũng tích cực gieo trồng rau màu vụ xuân. Đến nay, toàn tỉnh đã gieo trồng được 5.297 ha rau màu, trong đó: ngô 1.545 ha; lạc, đậu tương 782 ha; dược liệu, hoa cây cảnh 793 ha; rau màu khác 2.177 ha.

Chăn nuôi

Qua tổng hợp kết quả điều tra chăn nuôi 01/01/2019, so sánh với cùng kỳ năm trước: Tổng đàn gia súc, gia cầm trong tỉnh phát triển ở mức ổn định. Đàn trâu 2.721 con, tăng 0,48%; đàn bò 35.385 con, tăng 0,75%; đàn lợn phát triển ổn định so với cùng kỳ; đàn gia cầm 8.620 nghìn con, tăng 3,12%, trong đó đàn gà tăng 2,70%. Trong thời điểm này (thời điểm thu thập thông tin điều tra) tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh chưa xảy ra, giá bán tốt, công tác tiêm vắc-xin phòng, chống bệnh cho gia cầm của tỉnh được triển khai thường xuyên, đồng bộ và kịp thời.

Chiều 19/02/2019, Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã họp báo về tình hình dịch tả lợn Châu Phi và thông báo đã phát hiện các ổ dịch tại hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình. Trong đó, tỉnh Hưng Yên phát hiện 2 ổ dịch tại thôn Đào Đặng, xã Trung Nghĩa (TP Hưng Yên) và thôn Khoá Nhu 2, xã Yên Hoà (huyện Yên Mỹ). Sau khi phát hiện các ổ dịch trên, Cục Thú y đã tiến hành tiêu hủy ngay lập tức toàn bộ số lợn có xét nghiệm dương tính với bệnh dịch. Chính quyền địa phương đã lập các chốt chặn vận chuyển, buôn bán lợn sống, các sản phẩm từ thịt lợn và khử trùng toàn bộ khu vực chăn nuôi, chợ dân sinh.

2. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Hai tăng 9,16% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó: công nghiệp khai khoáng tăng 9,47%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,22%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện, nước nóng và hơi nước tăng 6,90%; cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 10,34%. Tuy nhiên tốc độ tăng Chỉ số sản xuất tháng này thấp hơn so với tốc độ tăng tháng Một (tăng 10,51%). Nguyên nhân chủ yếu do đây là tháng diễn ra Tết Nguyên đán nên số ngày được nghỉ kéo dài đã ảnh hưởng đến sản xuất chung của các doanh nghiệp.

Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng tăng so với cùng kỳ năm 2018 như: thức ăn cho gia cầm tăng 47,31%; nước khoáng không ga tăng 4,71%; quần áo các loại tăng 10,34%; cửa sổ và cửa ra vào bằng gỗ tăng 7,39%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 5,68%; sản phẩm bằng plastic tăng 10,35%; gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn 220x105x60mm tăng 25,24%; mạch điện tử tích hợp tăng 33,16%; sợi quang và các bó sợi quang, cáp sợi quang tăng 16,56%; thiết bị bảo vệ mạch điện khác dùng cho điện áp ≤ 1000V chưa được phân vào đâu tăng 5,70%; phụ tùng của xe có động cơ tăng 11,29%; điện thương phẩm tăng 6,90%.

Tính chung hai tháng đầu năm 2019, Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,89% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: Công nghiệp khai khoáng (cát) tăng 5,45%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,90%; sản xuất và phân phối điện tăng 6,86%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,47%. Một số sản phẩm công nghiệp tăng so với cùng kỳ năm 2018 như: thức ăn cho gia cầm tăng 43,66%; nước khoáng không ga tăng 5,76%; quần áo các loại tăng 8,14%; cửa sổ và cửa ra vào bằng gỗ tăng 14,85%; sơn và véc ni tan trong môi trường nước tăng 8,12%; sản phẩm bằng plastic tăng 10,63%; gạch xây bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn 220x105x60mm tăng 27,96%; mạch điện tử tích hợp tăng 27,25%; động cơ đa năng một chiều/xoay chiều có công suất >37,5W tăng 19,72%; sợi quang và các bó sợi quang, cáp sợi tăng 14,35%; phụ tùng của xe có động cơ tăng 15,74%; điện thương phẩm tăng 6,86%.

3. Hoạt động đầu tư

Vốn đầu tư ngân sách địa phương: Thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trong tháng Hai không được thuận lợi do thời gian nghỉ Tết Nguyên đán Kỷ Hợi dài ngày, các công trình, dự án mới chưa thực hiện được nhiều nên đã phần nào ảnh hưởng đến tiến độ và giá trị thực hiện của các công trình, dự án.

Ước thực hiện vốn đầu tư phát triển trong tháng Hai đạt 127.450 triệu đồng, tăng 10,44% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 61.430 triệu đồng, tăng 9,29%; vốn ngân sách cấp huyện 41.850 triệu đồng, tăng 28,75%; vốn ngân sách cấp xã 24.170 triệu đồng, giảm 9,45%.

Tính chung hai tháng đầu năm 2019, vốn đầu tư ngân sách địa phương ước đạt 307.155 triệu đồng, tăng 11,36% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 150.295 triệu đồng, tăng 10,93%; vốn ngân sách cấp huyện 99.001 triệu đồng, tăng 26,43%; vốn ngân sách cấp xã 57.859 triệu đồng, giảm 6,74%.

Hoạt động đầu tư nước ngoài: Tính đến 19/02/2019, toàn tỉnh có 425 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký hoạt động, với tổng số vốn đăng ký là 4.414.562 nghìn USD, trong đó có 3 dự án được cấp phép năm 2019 với số vốn đăng ký là 79.215 nghìn USD. Các quốc gia có số dự án, vốn đầu tư chủ yếu là: Thứ nhất là Nhật Bản có 156 dự án, vốn đăng ký là 2.930.803 nghìn USD, chiếm 66,39% tổng vốn đăng ký; thứ hai là Hàn Quốc có 128 dự án, vốn đăng ký 647.030 nghìn USD, chiếm 14,66% tổng vốn đăng ký; thứ ba là Trung Quốc có 84 dự án, vốn đăng ký 439.708 nghìn USD, chiếm 9,96% tổng số vốn đăng ký.

4. Thương mại, dịch vụ

Tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ tháng Hai ước đạt 2.815.963 triệu đồng, tăng 11,21% so với tháng cùng kỳ năm 2018. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 2.247.987 triệu đồng, tăng 9,04%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 155.096 triệu đồng, tăng 15,09%; doanh thu du lịch 550 triệu đồng, tăng 5,76%; doanh thu dịch vụ khác 412.331 triệu đồng, tăng 22,97%. Tính chung hai tháng đầu năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính 5.681.484 triệu đồng, tăng 13,15% so với cùng kỳ năm 2018.

Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa hai tháng đầu năm 2019 ước đạt 4.544.997 triệu đồng, chiếm 80,0% tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ và tăng 11,47% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: Doanh thu bán lẻ lương thực, thực phẩm tăng 12,50%; hàng may mặc tăng 0,85%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 14,86%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 144,18%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 2,17%; ô tô các loại giảm 1,68%; phương tiện đi lại (trừ ô tô, kể cả phụ tùng) giảm 2,30%; xăng, dầu các loại tăng 23,05%; đá quý, kim loại quý tăng 35,73%...

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành hai tháng đầu năm 2019 ước tính đạt 310.170 triệu đồng, chiếm 5,46% tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ và tăng 12,01% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 10.323 triệu đồng, tăng 8,66%; dịch vụ ăn uống 298.767 triệu đồng, tăng 12,15%; dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch 1.080 triệu đồng, tăng 7,14%.

Doanh thu dịch vụ khác hai tháng đầu năm 2019 ước đạt 826.317 triệu đồng, chiếm 14,54% tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ và tăng 23,90% so với cùng kỳ năm 2018.

5. Chỉ số giá tiêu dùng

Tháng Hai là tháng diễn ra Tết Nguyên đán Kỷ Hợi và nhiều lễ hội đầu xuân nên nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của người dân tăng cao hơn các tháng khác trong năm. Do vậy hầu hết giá cả các loại hàng hóa đều tăng nhẹ so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.

So với tháng trước, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Hai tăng 0,71%, trong đó: Có 8/11 nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá tăng, bao gồm: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,31%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,69%; nhóm hàng may mặc, mũ, nón, giày dép tăng 0,12%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,52%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,49%; giao thông tăng 0,94%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,78%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,09%. Có 3/11 nhóm hàng hoá, dịch vụ có chỉ số giá ổn định so với tháng trước là nhóm thuốc và dịch vụ y tế; bưu chính viễn thông và giáo dục.

So với tháng 12/2018, Chỉ số giá tiêu dùng tháng này tăng 0,77%, trong đó: hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 2,12%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,90%; hàng may mặc, mũ nón, giầy, dép giảm 0,31%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,78%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,31%; dịch vụ giao thông giảm 2,05%; bưu chính, viễn thông giảm 0,33%; văn hóa, thể thao, giải trí tăng 0,58%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,10%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế, giáo dục ổn định so với tháng 12/2018.

So với tháng cùng kỳ năm 2018, Chỉ số giá tiêu dùng Hai tăng 1,84%, trong đó: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,30%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,72%; hàng may mặc, mũ nón, giầy, dép giảm 0,05%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,68%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,66%; thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,53%; dịch vụ giao thông giảm 2,54%; dịch vụ bưu chính, viễn thông giảm 0,73%; giáo dục tăng 1,80%; văn hóa, thể thao, giải trí tăng 2,03%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,19%.

Bình quân chung hai tháng đầu năm 2019, Chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,87% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó: nhóm hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 5,53%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,89%; hàng may mặc, mũ nón, giầy, dép giảm 0,26%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 1,24%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,83%; thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,53%; dịch vụ giao thông giảm 2,49%; bưu chính, viễn thông giảm 0,72%; dịch vụ giáo dục tăng 1,80%; dịch vụ văn hóa,thể thao, giải trí tăng 2,07%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,02%.

b. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng Hai tăng 2,01% so với tháng trước và ở mức giá bình quân 3.699.000 đồng/chỉ. Chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,03% so với tháng trước, mức giá bình quân 23.260 đồng/USD.

6. Hoạt động vận tải

a. Hoạt động vận tải hành khách

Vận tải hành khách tháng Hai ước đạt 1.302 nghìn lượt người vận chuyển và 81.358 nghìn lượt người luân chuyển, lần lượt tăng 12,32% về lượt người vận chuyển và tăng 12,70% về lượt người luân chuyển so với cùng kỳ năm 2018. Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 61.749 triệu đồng, tăng 16,99% so với cùng kỳ năm 2018. Tính chung hai tháng đầu năm 2019, vận hành khách ước đạt 2.537 nghìn lượt người vận chuyển và 158.361 nghìn lượt người luân chuyển, lần lượt tăng 12,15% về lượt người vận chuyển và tăng 12,40% về lượt người luân chuyển so với cùng kỳ năm 2018; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 119.542 triệu đồng, tăng 15,97%.

b. Hoạt động vận tải hàng hóa

Vận tải hàng hoá tháng Hai ước đạt 2.191 nghìn tấn vận chuyển và 81.727 nghìn tấn luân chuyển, lần lượt tăng 8,82% về tấn hàng hóa vận chuyển và tăng 9,18% về tấn hàng hóa luân chuyển so với cùng kỳ năm 2018; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 186.662 triệu đồng, tăng 10,84%. Tính chung hai tháng đầu năm 2019, vận tải hàng hóa ước đạt 4.898 nghìn tấn vận chuyển và 179.106 nghìn tấn luân chuyển, lần lượt tăng 11,49% về tấn hàng hóa vận chuyển và tăng 11,90% về tấn hàng hóa luân chuyển so với cùng kỳ năm 2018; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 419.075 triệu đồng, tăng 13,11%.

7. Hoạt động tài chính, ngân hàng

a. Thu ngân sách nhà nước

Thu ngân sách tháng Hai ước đạt 790.737 triệu đồng, tăng 22,17% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: Thu nội địa 627.970 triệu đồng, tăng 45,61%; thuế xuất nhập khẩu 162.767 triệu đồng, giảm 24,63%. Một số khoản thu trong tháng dự tính như sau: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 108.158 triệu đồng, tăng 24,97%; thu từ khu vực ngoài quốc doanh 231.112 triệu đồng, tăng 59,14%; thu lệ phí trước bạ 15.154 triệu đồng, tăng 7,03%; thu thuế thu nhập cá nhân 69.550 triệu đồng, tăng 20,94%; các khoản thu về nhà đất 146.993 triệu đồng, tăng 98,47%...

Tính chung hai tháng đầu năm 2019, thu ngân sách nhà nước ước đạt 2.108.129 triệu đồng, tăng 19,27% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó: Thu nội địa 1.580.000 triệu đồng, tăng 22,90%; thuế xuất nhập khẩu 528.129 triệu đồng, tăng 9,76%. Một số khoản thu nội địa như sau: Thu từ DNNN Trung ương 15.000 triệu đồng, giảm 8,40%; thu từ DNNN địa phương 12.000 triệu đồng, tăng 36,50%; thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 340.000 triệu đồng, tăng 22,80%; thu từ khu vực ngoài quốc doanh 535.000 triệu đồng, tăng 27,80%; thu lệ phí trước bạ 60.000 triệu đồng, tăng 32,09%; thuế thu nhập cá nhân 160.000 triệu đồng, tăng 20,38%; thu phí, lệ phí 21.000 triệu đồng, giảm 17,97%; các khoản thu về nhà đất 366.700 triệu đồng, tăng 27,85%; các khoản thu khác 25.300 triệu đồng, tăng 30,0%.

b. Chi ngân sách nhà nước

Tính từ ngày 01/01/2019 đến ngày 19/02/2019, chi ngân sách nhà nước địa phương đạt 1.206.577 triệu đồng, đạt 13,69% kế hoạch năm. Trong đó: Chi đầu tư phát triển 443.367 triệu đồng, đạt 17,65% kế hoạch; chi thường xuyên 763.210 triệu đồng, đạt 12,12% kế hoạch. Một số lĩnh vực chi thường xuyên như sau: Chi sự nghiệp kinh tế 55.098 triệu đồng; chi giáo dục, đào tạo 309.179 triệu đồng; chi sự nghiệp y tế 33.327 triệu đồng; chi sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao 10.138 triệu đồng; chi đảm bảo xã hội 86.581 triệu đồng; chi quản lý hành chính 187.175 triệu đồng; chi khác 81.323 triệu đồng.

c. Hoạt động ngân hàng

Tính đến 31/01/2019, tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng đạt 73.830.131triệu đồng, tăng 1,24% so với thời điểm 31/12/2018. Trong đó: Nguồn vốn huy động trong dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 64.260.809 triệu đồng, tăng 0,25% và chiếm 87,04% tổng nguồn vốn.

Tổng dư nợ đối với nền kinh tế đạt 56.715.066 triệu đồng, tăng 1,49% so với thời điểm 31/12/2018. Trong đó: Dư nợ cho vay ngắn hạn 39.589.448 triệu đồng, tăng 1,43%; dư nợ cho vay trung và dài hạn 17.125.618 triệu đồng, tăng 1,65%. Dư nợ cho vay bằng nội tệ 53.934.852 triệu đồng, tăng 0,78%; dư nợ cho vay bằng ngoại tệ 2.780.214 triệu đồng, tăng 17,59%. Về chất lượng tín dụng: Nợ xấu (nhóm 3,4,5) là 1.234.410 triệu đồng (chiếm 2,18% tổng dư nợ), tăng 3,58% so với thời điểm 31/12/2018.

8. Một số hoạt động xã hội

a) Hoạt động văn hóa, thể thao

Chào năm mới Xuân Kỷ Hợi 2019, vào đêm giao thừa, tỉnh Hưng Yên đã tổ chức 7 điểm bắn pháo hoa tầm thấp tại 6 huyện, thành phố là Thành phố Hưng Yên, các huyện Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Kim Động, Phù Cừ (riêng huyện Văn Lâm có 2 điểm bắn pháo hoa là trung tâm huyện và chùa Nôm, xã Đại Đồng). Nguồn kinh phí bắn pháo hoa là nguồn xã hội hóa, ủng hộ từ các cá nhân, doanh nghiệp ở các địa phương. Cùng với hoạt động bắn pháo hoa đêm giao thừa, tại các huyện, thành phố đều diễn ra các buổi biểu diễn nghệ thuật chào mừng năm mới. Đây là hoạt động được tổ chức hằng năm nhằm tạo không khí vui tươi mừng Đảng, mừng Xuân và khơi dậy, giáo dục truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước trong nhân dân.

Trong dịp Tết Nguyên đán, các địa phương trên địa bàn tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, lễ hội đầu xuân thu hút đông đảo người dân tham gia như: Hội vật đầu xuân làng Nội Lăng, xã Thủ Sỹ; nghi thức rước nước đầu năm trong lễ hội đền Đức Thánh Cả ở Kim Động; lễ hội Đền Phù Ủng, huyện Ân Thi; Triển lãm thư pháp, hát ca trù và cho chữ đầu xuân tại Văn miếu Xích Đằng;…

Từ ngày 14 /02 đến 17/02/2019, tại Di tích lịch sử văn hóa đền Phù Ủng, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, Thư viện tỉnh Hưng Yên tổ chức gian trưng bày, giới thiệu sách báo với chủ đề: “Mừng Đảng, mừng Xuân” để phục vụ nhân dân, bạn đọc và du khách tới tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại; về những thành tựu nổi bật của đất nước, của các tỉnh, thành phố năm 2018 trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.

Ngày 08/02 (tức mùng 4 Tết), tại Bảo tàng tỉnh (thành phố Hưng Yên), Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Hưng Yên tổ chức Lễ phát động Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” - Xuân Kỷ Hợi 2019. Đến ngày 25/02/2019, toàn tỉnh đã trồng được 131.900 cây xanh, trong đó có 105.000 cây ăn quả và 26.900 cây bóng mát.

b) Chăm lo các đối tượng chính sách và người có công

Nhân dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019, Chủ tịch nước và Tỉnh ủy-HĐND-UBND-UBMTTQ tỉnh đã thăm, tặng quà cho các đối tượng là người có công với cách mạng, gia đình chính sách và hỗ trợ đối tượng xã hội. Cụ thể:

Tặng 35.319 suất quà của Chủ tịch nước với kinh phí là 7.246,4 triệu đồng cho các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng. Tặng 35.316 suất quà của Tỉnh ủy - HĐND - UBND - Ủy ban MTTQ VN tỉnh tới người có công, thân nhân người có công, gia đình quân nhân làm nhiệm vụ tại quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Nhà giàn DK1 với mức quà 500.000đ/suất (gồm 300.000đ tiền mặt và 01 túi quà); tặng quà 05 Trung tâm điều dưỡng Người có công trong và ngoài tỉnh, mức quà 3.000.000 đồng/đơn vị và thương bệnh binh đang được chăm sóc tại các Trung tâm; lãnh đạo tỉnh trực tiếp thăm và tặng quà đại diện 23 gia đình người có công trên địa bàn tỉnh, mức quà 1.500.000 đồng/suất (gồm 1.000.000 đồng tiền mặt và 01 suất quà). Tổng số tiền là 17.707,5 triệu đồng.

Tổ chức trao tặng Thiếp, quà chúc thọ của Chủ tịch nước cho người cao tuổi tròn 100 tuổi, Thiếp, quà chúc thọ của Chủ tịch UBND tỉnh cho người cao tuổi tròn 90 tuổi; thăm, tặng quà cho 25.344 người cao tuổi ở các độ tuổi 70, 75, 80, 85, 90, 91, 92, 93, 94, 95, 96, 97, 98, 99, 100 và trên 100 tuổi, tổng số tiền là 8.919,55 triệu đồng.

Hỗ trợ 9.953 hộ nghèo ăn Tết, với mức 300.000đ/hộ (trong đó 250.000 đồng trích từ ngân sách tỉnh và 50.000 trích từ Quỹ Vì người nghèo). Tổng số tiền là 2.985,9 triệu đồng.

Hỗ trợ 757 đối tượng nuôi dưỡng tập trung tại 05 Cơ sở bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh, với mức 200.000đ/người. Tổng số tiền là 151,4 triệu đồng.

Toàn tỉnh thăm, tặng quà, trợ giúp (bằng tiền và hiện vật) cho 4.902 lượt trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em nghèo với số tiền trên 1,47 tỷ đồng, chủ yếu từ nguồn Quỹ Bảo trợ trẻ em các cấp (trong đó nguồn ngân sách tỉnh là 194 triệu đồng).

Ngoài nguồn ngân sách trung ương và tỉnh như đã nêu trên, các địa phương đã trích ngân sách, vận động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tặng quà cho hộ nghèo, hộ có đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi.

c) Hoạt động y tế

Công tác giám sát dịch được thực hiện thường xuyên, trên địa bàn tỉnh không có dịch bệnh xảy ra. Bảo đảm chế độ trực dịch và báo cáo dịch theo đúng quy định. Các bệnh truyền nhiễm gây dịch nguy hiểm như: Tả, Viêm Não NBB, SD/SXH... không phát hiện trường hợp nào. Một số bệnh truyền nhiễm gây dịch khác xuất hiện lẻ tẻ tại các huyện. Phân phối vắc xin tiêm chủng mở rộng, vật tư theo kế hoạch cho y tế cơ sở triển khai tiêm chủng cho các cháu hàng tháng, trong và sau tiêm chủng không có tai biến xảy ra.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Thành lập Đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành về ATTP trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi và mùa lễ hội Xuân năm 2019. Tổ chức kiểm tra theo quyết định số 15/QĐ-ATTP ngày 08/01/2019 về việc kiểm tra an toàn thực phẩm đối với nhà ăn, bếp ăn tập thể trên địa bàn tỉnh. Kết quả: Số cơ sở được kiểm tra 20 cơ sở; số cơ sở đạt 20 cơ sở; lấy được 10 mẫu gửi labo kiểm nghiệm, đang chờ kết quả. Tiến hành kiểm tra đột xuất về an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất Thành Lộc, xử lý vi phạm hành chính đối với cơ sở với hành vi hàng hóa có nhãn (kể cả tem hoặc nhãn phụ) hoặc tài liệu kèm theo không ghi đủ hoặc ghi không đúng các nội dung bắt buộc trên nhãn hàng hóa hoặc nội dung bắt buộc phải thể hiện trên nhãn theo tính chất hàng hóa theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa. Số tiền phạt 2.500 nghìn đồng.

d) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

Từ ngày 16/01/2019 đến ngày 15/02/2019, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên không phát hiện và xử lý vụ vi phạm môi trường nào.

Từ ngày 16/01/2019 đến ngày 15/02/2019, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên xảy ra 2 vụ cháy, thiệt hại tài sản 340 triệu đồng, không có thiệt hại về người.

e) An toàn giao thông

Theo số liệu của Ban An toàn giao thông tỉnh Hưng Yên, từ ngày 16/01/2019 đến 15/02/2019, toàn tỉnh xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông, đều là tai nạn đường bộ, làm chết 10 người, làm bị thương 6 người. So với tháng trước, số vụ tai nạn giảm 6 vụ, giảm 33,33%; số người chết giảm 5 người, giảm 33,33%; số người bị thương giảm 6 người, giảm 50,0%. Riêng trong dịp Tết Nguyên đán (tính từ ngày 02-10/02/2019) trên địa bàn tỉnh cũng đã xảy ra 4 vụ tai nạn giao thông, làm chết 2 người, làm bị thương 5 người. So với cùng kỳ Tết Nguyên đán Mậu Tuất năm 2018, số vụ tai nạn giảm 2 vụ, giảm 33%; số người chết giảm 2 người, giảm 50%; số người bị thương giảm 3 người, giảm 37,5%.

Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/02/2019, toàn tỉnh đã xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông, làm chết 25 người, làm bị thương 18 người. So với cùng kỳ năm 2018, số vụ tai nạn tăng 4 vụ, tăng 15,38%; số người chết tăng 8 người, tăng 47,06%; số người bị thương tăng 1 người, tăng 5,88%

Trên đây là báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Hưng Yên tháng Hai và hai tháng đầu năm 2019./.


Cục Thống kê Hưng Yên

    Tổng số lượt xem: 1017
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)