Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 02/12/2020-15:32:00 PM
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 năm 2020 tỉnh Nghệ An

1. Sản xuất nông nghiệp

a. Trồng trọt:

Tháng 11 sản xuất nông nghiệp chủ yếu tập trung thu hoạch cây hàng năm vụ mùa 2020 và đẩy nhanh tiến độ gieo trồng các loại cây trồng vụ Đông năm 2021 cùng với việc trồng mới các loại cây lâu năm...

Sản xuất vụ Đông năm 2021, diễn ra trong điều kiện không thuận lợi với diễn biến thời tiết phức tạp và khó lường. Đặc biệt do ảnh hưởng của hoàn lưu cơn bão số 9 vào cuối tháng 10 đã gây ngập lụt đã làm hư hại 4.346,3 ha ngô, 1.132,6 ha rau đậu và 104 ha lạc, thiệt hại chủ yếu ở các huyện Thanh Chương, Diễn Châu, Yên Thành, Nghi Lộc,… Tính đến ngày 08/11/2020 tổng diện tích gieo trồng cây vụ Đông ước đạt 23.640,4 ha, đạt 52,95% kế hoạch và giảm 20,34% so với cùng vụ năm 2020. Cụ thể một số cây trồng chính như sau: Cây Ngô diện tích gieo trỉa ước đạt 10.648 ha, giảm 30,8% (- 4.740,3 ha) so với cùng vụ năm 2019 và bằng 49,53% kế hoạch; cây khoai lang với diện tích gieo trồng ước đạt 887,5 ha, giảm 19,42% (- 213,9 ha) so với cùng kỳ, chỉ đạt 44,38% so với kế hoạch; cây lạc, diện tích gieo trỉa ước đạt 1.313,2 ha, tăng 12,43% (+145,2 ha) so với cùng kỳ và đạt 87,55% kế hoạch; cây rau đậu, hoa cây cảnh, diện tích gieo trồng ước đạt 8.305,7 ha, giảm 11,47% (-1.076,3 ha) so với cùng kỳ năm trước và đạt 66,45% kế hoạch; cây cỏ voi làm thức ăn gia súc ước đạt 1.696,6 ha/4.500 ha, chỉ đạt 37,70% kế hoạch, giảm 2,29% …

Bên cạnh việc gieo trồng các loại cây vụ Đông, người dân cơ bản đã thu hoạch xong lúa mùa, diện tích 28870,1 ha, giảm 0,46% (-133,4 ha) so cùng vụ năm 2019, năng suất ước đạt 31,84 tạ/ha, sản lượng 91.923,2 tấn, giảm 0,33% (-307,9 tấn), nguyên nhân diện tích giảm do hạn hán kéo dài nên một số diện tích lúa bị thiếu nước và không gieo cấy được.

Cây ngô vụ mùa gieo cấy 4.653,2 ha, giảm 38,67% (-2.933,8 ha) so với cùng vụ năm 2019, nguyên nhân do thiếu nước không gieo cấy được ở một số địa phương như: huyện Kỳ Sơn giảm 1.036 ha, Tương Dương giảm 865 ha, Tân Kỳ giảm 606 ha, Anh Sơn giảm 195 ha,… Đến nay, những diện tích bị hư hỏng đã quá thời vụ gieo trồng nên người dân đã chuyển sang gieo trồng vụ Đông 2021 khi có thời tiết thích hợp. Năng suất đạt 36,57 tạ/ha; sản lượng đạt 17.016,2 tấn, giảm 34,50% (-8.961,6 tấn) so cùng vụ năm 2019.

b. Chăn nuôi:

Tính đến thời điểm hiện tại, tổng đàn trâu có 270.082 con, giảm 0,55% (-1.494 con) so với cùng kỳ năm 2019, tổng đàn bò có 483.297 con, tăng 2,02% (+9.565 con), trong đó: bò sữa 61.172 con, tăng 9,92% (+5.522 con).

Tổng đàn lợn đạt 902.766 con, tăng 2,61% (+22.981 con) so với cùng kỳ năm 2019. Tổng đàn lợn tăng do các hộ dân và doanh nghiệp đã tái đàn, để phục vụ nhu cầu thực phẩm cho Tết cổ truyền Tân Sửu tới. Tổng đàn gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng) ước đạt 27.165 nghìn con, tăng 7,28% (+1.843 nghìn con) so với cùng kỳ năm 2019, trong đó: đàn gà ước đạt 22.175 nghìn con chiếm 81,63% tổng đàn và tăng 6,49%. Chăn nuôi gia cầm tăng khá vì đây là loài vật dễ nuôi, chi phí đầu tư ban đầu thấp, nguồn thức ăn có thể tận dụng được, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm trên thị trường ổn định, cùng với hiện nay tình hình dịch tả lợn châu Phi đang diễn biến phức tạp và chưa dừng lại nên sản phẩm gia cầm đang được thay thế và bổ sung vào khẩu phần ăn của nhân dân.

Tình hình dịch bệnh:

Dịch tả lợn Châu Phi: Hiện đang còn 30 ổ dịch thuộc 12 huyện (789 hộ ở 104 xóm) chưa qua 21 ngày. Cụ thể như sau: huyện Nghi Lộc, có 3 ổ dịch; huyện Quế Phong có 7 ổ dịch; huyện Hưng Nguyên có 5 ổ dịch; huyện Tương Dương có 1 ổ dịch; huyện Quỳ Hợp có 1 ổ dịch; huyện Anh Sơn có 5 ổ dịch; huyện Con Cuông 1 ổ dịch; Thanh Chương có 2 ổ dịch; huyện Nghĩa Đàn có 1 ổ dịch; huyện Diễn Châu có 1 ổ dịch; huyện Đô Lương có 2 ổ dịch; huyện Yên Thành có 1 ổ dịch.

2. Sản xuất lâm nghiệp

Tháng 11 diện tích trồng rừng tập trung ước đạt 2.764 ha đưa diện tích trồng rừng tập trung 11 tháng đầu năm 2020 ước đạt 16.724 ha, tăng 0,43% (+72 ha) so với cùng kỳ năm 2019.

Sản lượng khai thác lâm sản 11 tháng đạt khá, gỗ các loại khai thác 1.198.910 m3, tăng 11,74% so với cùng kỳ năm 2019, sản lượng gỗ khai thác tăng mạnh từ rừng trồng của các dự án, hộ dân sinh đã đến kỳ thu hoạch và làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như ván ép, dăm gỗ, nguyên liệu giấy và nhu cầu xây dựng; khối lượng củi ước đạt 981.100 ste, tăng 1,01%; một số sản phẩm lâm sản khác như lá tre, nứa, nhựa thông, lá dong, măng, mộc nhĩ… 11 tháng khai thác đều tăng hơn cùng kỳ năm trước.

Số cây lâm nghiệp trồng phân tán tháng 11 ước đạt 593 nghìn cây, tăng 1,19% (+7 nghìn cây), tính chung 11 tháng ước đạt 5.379 nghìn cây, giảm 0,61%.

Tính chung từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 19 vụ cháy thiệt hại đến rừng và 27 vụ cháy không gây thiệt hại đến rừng, trong đó tổng diện tích bị cháy là 122 ha, diện tích rừng bị thiệt hại, không có khả năng phục hồi là 41,39 ha, lực lượng điều động 6.855 lượt người tham gia chữa cháy.

Tháng 11 năm 2020 lực lượng kiểm lâm cả tỉnh đã phát hiện và bắt giữ, xử lý 13 vụ vi phạm lâm luật trong đó: Vi phạm về quy định về phát triển rừng, bảo vệ rừng: 03 vụ (trong đó có 02 vụ vi phạm về phá rừng trái phép, thiệt hại 0,62 ha), vi phạm về quản lý lâm sản: 07 vụ; Vi phạm khác 03 vụ; động vật tịch thu 1 cá thể; Lâm sản tịch thu: 19 m3 gỗ các loại; Thu nộp ngân sách trong tháng: 417 triệu đồng

Tháng 11 tiếp tục tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân về công tác bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy, phòng trừ sâu bệnh, không để xảy ra tình trạng phá rừng, khai thác rừng nghiêm trọng.

3. Sản xuất thủy sản

Tháng 11 diện tích nuôi trồng thủy sản (không sử dụng lồng bè, bể, bồn) ước đạt 199 ha, tăng 1,02% (+2 ha), trong đó: diện tích nuôi cá 172 ha, diện tích nuôi tôm 23 ha, diện tích thủy sản khác 4 ha. Lũy kế 11 tháng ước đạt 21.339 ha, giảm 0,13% (-28 ha) so cùng kỳ năm 2019, trong đó: diện tích nuôi cá 18.827 ha, diện tích tôm 2.274 ha, diện tích thủy sản khác 238 ha.

Tổng sản lượng thủy sản tháng 11 ước đạt 20.632 tấn, tăng 9,08% (+1.718 tấn), trong đó: cá 17.966 tấn, tăng 9,05% (+1.491 tấn); tôm 569 tấn, tăng 9,21% (+48 tấn); thủy sản khác 2.097 tấn, tăng 9,33% (+179 tấn). Lũy kế, 11 tháng ước đạt 226.191 tấn, tăng 7,99% (+16.731 tấn), cá 188.072 tấn, tôm 9.704 tấn, thủy sản khác 28.415 tấn.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng 11 ước đạt 15.877 tấn, tăng 10,45% (+1.502 tấn). Lũy kế, 11 tháng ước đạt 171.266 tấn, tăng 9,09% (+14.275 tấn) so cùng kỳ năm 2019. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 11 ước đạt 4.755 tấn, tăng 4,76% (+216 tấn). Lũy kế, 11 tháng ước đạt 54.925 tấn, tăng 4,68% tấn (+2.456 tấn), cá 43.478 tấn, tôm 7.754 tấn, thủy sản khác 3.693 tấn.

Để đáp ứng nhu cầu nuôi thả của nhân dân, các cơ sở sản xuất giống 11 tháng đã sản xuất, phân phối 3.268 triệu con giống, tăng 4,11% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó: giống cá 613 triệu con, tôm 2.408 triệu con, thủy sản khác 247 triệu con.

4. Sản xuất công nghiệp

Tháng 11 năm 2020, chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 15,07% so với cùng kỳ năm 2019, cụ thể: công nghiệp khai khoáng tăng 4,00%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,34%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 59,28% so cùng kỳ. Ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 3,68% so với cùng kỳ.

Nhiều sản phẩm chủ yếu trong tháng có mức tăng khá trong kỳ so với năm 2019 như sau: Sữa tươi ước đạt 19.963 nghìn lít, tăng 22,20%; Thức ăn cho gia súc ước đạt 14,5 nghìn tấn, tăng 31,13%; Clanhke xi măng 703 nghìn tấn, tăng 16,92%; xi măng 686 nghìn tấn, tăng 28,03%; ống thép Hoa Sen 4 nghìn tấn, tăng 26,50%; tôn lợp 85,5 nghìn tấn, tăng 31,05%; điện sản xuất 304 triệu Kwh, tăng 75,55%; ... Tuy nhiên, trong tháng có nhiều sản phẩm giảm như: Đá xây dựng khác ước đạt 221,1 nghìn m3, giảm 7,72%; sữa chua 2.656,2 tấn, giảm 18,72%; bia đóng chai 3,0 triệu lít, giảm 25,96%; bia đóng lon 6,5 triệu lít, giảm 42,80%; vỏ bào, dăm gỗ 31,3 nghìn tấn, giảm 40,29%; bê tông tươi 33,9 nghìn m3, giảm 2,64%; …

Tính chung từ đầu năm đến cuối tháng 11 năm 2020, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 5,50% so với cùng kỳ năm 2019, cụ thể: công nghiệp khai khoáng tăng 5,64%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,19%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 11,94%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,70%. Nguyên nhân chỉ số sản xuất điện giảm do mùa khô nắng nóng kéo dài đã làm cho các hồ thủy điện thiếu nước phục vụ sản xuất điện.

Mười một tháng đầu năm một số sản phẩm chủ yếu có mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước như: Đá xây dựng khác ước đạt 2,5 triệu m3, tăng 4,79%; sữa tươi 191,3 triệu lít, tăng 5,83%; thức ăn cho gia súc 132,6 nghìn tấn, tăng 8,07%; clanhke 6,8 triệu tấn, tăng 9,34%; xi măng 6,5 triệu tấn, tăng 14,67%; ống thép hoa sen 30,1 nghìn tấn, tăng 18,59%; tôn lợp 742,6 nghìn tấn, tăng 22,35%; Cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép 1,93 triệu m2, tăng 26,35%; điện thương phẩm 3.451 triệu Kwh, tăng 8,48%; … Bên cạnh đó có nhiều sản phẩm chủ yếu giảm như: Đường RS ước đạt 95,2 nghìn tấn, giảm 9,96%; bia đóng chai 34,7 triệu lít, giảm 38,18%; bia đóng lon 75,6 triệu lít, giảm 20,23%; vỏ bào, dăm gỗ 389,9 nghìn tấn, giảm 15,43%; bê tông tươi 374 nghìn m3, giảm 0,11%; bột đá 348 nghìn tấn, giảm 8,32%; điện sản xuất 2.440,6 triệu Kwh, giảm 16,31%; … nhiều sản phẩm chủ yếu giảm mạnh, làm cho chỉ số sản xuất công nghiệp 11 tháng đầu năm tăng thấp do ngay từ đầu năm đã bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, Nghị định 100/CP, mùa khô hạn hán kéo dài gây nên tình trạng thiếu nước phục vụ sản xuất điện, …

5. Đầu tư, xây dựng

Vốn đầu tư phát triển tháng 11/2020 thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 705,7 tỷ đồng, tăng 41,30% so cùng kỳ năm 2019. Cộng dồn 11 tháng từ đầu năm ước đạt 7.066 tỷ đồng, tăng 41,30% so với cùng kỳ, trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 3.339,4 tỷ đồng, tăng 65,92%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 2.218,9 tỷ đồng, tăng 24,99% và vốn ngân sách nhà nước cấp xã 1.507,8 tỷ đồng, tăng 24,32%.

Vốn đầu tư thực hiện trong kỳ chủ yếu tập trung vào các công trình: Xây dựng nhà tưởng niệm chủ tịch Hồ Chí Minh tại khu di tích Kim Liên huyện Nam Đàn; xây dựng tuyến đê biển và trồng cây chắn sóng vùng Đông Hồi thuộc xã Quỳnh Lập; dự án bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ Thanh Chương giai đoạn 2012 - 2020; trụ sở làm việc UBND xã Diễn Thành; Đường giao thông kết nối từ khu công nghiệp Tri lễ, huyện Anh Sơn đến đường QL7(GĐ1); trường Mầm non xã Minh Sơn, huyện Đô Lương; nâng cấp, gia cố hệ thống thoát lũ và đê chống lũ huyện Yên Thành; sửa chữa, nâng cấp đê ngăn triều và chống lũ sông Thái từ Xi Phông sông Thái đến xóm 7 Quỳnh Hưng; Đường ven biển từ Nghi Sơn (Thanh Hóa) đến Cửa Lò (Nghệ An) - đoạn từ điểm giao quốc lộ 46 đến tỉnh lộ 535 (km76-km83); đường giao thông nối QL1A - Huyện Nghĩa Đàn - Thị xã Thái Hoà; đường Mường Xén - Ta Đo - Khe Kiền; phát triển đô thị loại vừa tại Việt Nam - Tiểu dự án thành phố Vinh; đường từ thị trấn huyện Thanh Chương đi vào khu tái định cư thủy điện Bản Vẽ huyện Thanh Chương; tiểu dự án 3, dự án sửa chữa, nâng cao an toàn đập WB8 tỉnh Nghệ An; cầu Cửa Hội bắc qua sông Lam; dự án hồ chứa nước bản Mồng; …

6. Thu chi ngân sách

Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh năm 2020 ước đạt 15.991 tỷ đồng, bằng 105,09% dự toán cả năm, giảm 3,72% so với năm 2019, trong đó: thu nội địa ước đạt 14.791 tỷ đồng, bằng 110,25% dự toán, giảm 0,79%. Thu ngân sách năm nay giảm nguyên nhân do các khoản thu sau giảm: Thu từ doanh nghiệp trung ương quản lý bằng 72,0% dự toán và giảm 25,16%; thu từ doanh nghiệp địa phương quản lý bằng 95,65% dự toán và giảm 12,80%; thu từ khu vực CTN-DV ngoài quốc doanh bằng 90,06% dự toán và giảm 2,70%; thu lệ phí trước bạ bằng 92,22% dự toán và giảm 15,27%; thu phí và lệ phí bằng 89,47% dự toán và giảm 4,10%; Thu từ hoạt động XNK bằng 66,67% dự toán, giảm 29,40%... Bên cạnh đó có một số khoản thu so với cùng kỳ tăng như: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng 104,17% dự toán, tăng 6,62% so với năm 2019; thuế thu nhập cá nhân bằng 100% dự toán, tăng 7,58%; thuế bảo vệ môi trường bằng 105,92% dự toán, tăng 12,52%; …

Tổng chi ngân sách năm 2020 ước đạt 29.687,2 tỷ đồng, bằng 109,47% dự toán, trong đó: chi đầu tư phát triển 8.808 tỷ đồng, bằng 133,63% dự toán; chi thường xuyên 20.429,4 tỷ đồng, bằng 101,75% dự toán. Chi thường xuyên chủ yếu tập trung chi lương và các khoản có tính chất lương, đảm bảo hoạt động có tính chất thường xuyên của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp và thực hiện chính sách an sinh xã hội cũng như phát triển kinh tế. Các khoản chi quan trọng trong chi thường xuyên đều bảo đảm như: Chi sự nghiệp kinh tế 1.991 tỷ đồng, bằng 101,43% dự toán; chi sự nghiệp giáo dục đào tạo 8.550 tỷ đồng, bằng 99,82% dự toán; chi sự nghiệp y tế 2.300 tỷ đồng, bằng 99,91%; chi đảm bảo xã hội 1.470,9 tỷ đồng, bằng 125,53% dự toán và chi quản lý hành chính 3.700,6 tỷ đồng, bằng 100,97% dự toán.

Ngành ngân hàng ở Nghệ An năm 2020 phát triển khá, tính đến ngày 31/12/2020, nguồn vốn huy động ước đạt 157.107 tỷ đồng, tăng 17,29% so cùng kỳ năm 2019, dư nợ tín dụng ước đạt 197.327 tỷ đồng, tăng 5,54%. Nợ xấu 1.880 tỷ đồng, chiếm 0,93% tổng dư nợ, tăng 4,81% so cùng kỳ năm 2019.

7. Thương mại, giá cả

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 11/2020 theo giá hiện hành ước đạt 6.653,7 tỷ đồng, tăng 19,22% so với cùng tháng năm 2019 đưa tổng mức bán lẻ hàng hóa 11 tháng đầu năm 2020 ước đạt 61.600 tỷ đồng, tăng 6,23% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó: Chia theo nhóm hàng bán lẻ thì nhóm lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất với doanh thu trong kỳ ước đạt 20.624,7 tỷ đồng (chiếm 33,48% trong tổng số), tăng 11,99%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 7.832,1 tỷ đồng, tăng 7,29%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng 4.283,9 tỷ đồng, tăng 7,29%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 8.987,8 tỷ đồng, tăng 0,51%; phương tiện đi lại (trừ ô tô) 4.461,5 tỷ đồng, tăng 5,96%; xăng dầu 5.817,4 tỷ đồng, tăng 3,57%; ...

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành tháng 11/2020 ước đạt 687,3 tỷ đồng, tăng 5,23% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung 11 tháng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành ước đạt 6.647,5 tỷ đồng, giảm 18,45%; trong đó dịch vụ lưu trú, phục vụ 3.531,7 nghìn lượt khách, giảm 42,84% (2.632,4 nghìn lượt khách ngủ qua đêm, trong đó có 19 nghìn lượt khách quốc tế) với doanh thu 714,6 tỷ đồng, giảm 44,87%; dịch vụ ăn uống 5.932,9 tỷ đồng, giảm 13,45%; dịch vụ du lịch lữ hành 74,2 tỷ đồng, giảm 51,09%.

Doanh thu hoạt động dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) tháng 11/2020 ước đạt 584,0 tỷ đồng, tăng 7,51% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung 11 tháng/2020 ước đạt 5.395,3 tỷ đồng, giảm 7,19%; trong đó: kinh doanh bất động sản 2.015,6 tỷ đồng, giảm 4,60%; dịch vụ hành chính và hỗ trợ 952,4 tỷ đồng, giảm 8,73%; dịch vụ y tế 1.078,2 tỷ đồng, tăng 7,21%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí 314,2 tỷ đồng, giảm 31,52% …

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2020 tăng 0,04% so với tháng trước, giảm 0,16% so với tháng 12 năm 2019 và tăng 1,64% so với cùng kỳ năm 2019. Trong số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có 5 nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng so với tháng trước đó là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,25%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,71%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07%; văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,20%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,07%. Có 3 nhóm hàng đứng giá là thuốc và dịch vụ y tế, bưu chính viễn thông và nhóm giáo dục. Bên cạnh đó, có 3 nhóm hàng giảm: Đồ uống và thuốc lá giảm 0,06%; Nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 0,11% và nhóm giao thông giảm 0,68%.

Bình quân chung 11 tháng đầu năm 2020 chỉ số giá tiêu dùng tăng 3,09% so với cùng kỳ năm trước, tăng mạnh nhất là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 10,35%; giáo dục tăng 3,83%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 2,63%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,46%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 1,76%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,18%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,91%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,80%. Bên cạnh đó, có nhóm hàng hóa giảm là: giao thông giảm 9,29%; Nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 0,78%; bưu chính viễn thông giảm 0,09%.

Chỉ số giá vàng tháng 11/2020 so với tháng trước tăng 0,60%, so với tháng 12/2019 tăng 29,85%, so với cùng kỳ năm trước tăng 29,67%; chỉ số đô la Mỹ tháng 11/2020 không tăng so với tháng trước, so với tháng 12/2019 giảm 0,03%, so với cùng kỳ năm trước giảm 0,11%.

8. Vận tải

Tổng doanh thu tháng 11 của ngành ước đạt 978,1 tỷ đồng, tăng 4,12% so với tháng trước và tăng 9,81% so với cùng kỳ. Đưa doanh thu 11 tháng ước đạt 9.572 tỷ đồng, tăng 3,26% so với với cùng kỳ năm trước. Ước thực hiện năm 2020 doanh thu ngành vận tải kho bãi đạt 10.589,4 tỷ đồng, tăng 3,84% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể:

Doanh thu vận chuyển vận tải hành khách tháng 11 năm 2020 ước đạt 215,2 tỷ đồng, giảm 0,61% so với tháng trước và tăng 15,22% so với cùng kỳ năm 2019; Khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 8.446,3 nghìn lượt khách, giảm 7,16% so với tháng trước và tăng 11,14% so với cùng kỳ; Khối lượng luân chuyển hành khách ước đạt 684,4 triệu lượt khách.km, giảm 8,7% so với tháng trước và tăng 11,39% so với cùng kỳ. Cộng dồn 11 tháng: Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 2.126 tỷ đồng, giảm 2,85% so với cùng kỳ; Khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 91.280 nghìn lượt khách, giảm 4,73% so với cùng kỳ; Khối lượng luân chuyển hành khách ước đạt 7.259 triệu lượt khách.km, giảm 1,95% so với cùng kỳ năm trước.

Ngành dịch vụ vận tải hành khách tháng 11 năm 2020 giảm nhẹ cả về doanh thu, vận chuyển và luân chuyển so với tháng trước là do tháng này thời tiết giao mùa, ảnh hưởng của nhiều hình thế thời tiết như không khí lạnh, các cơn bão đã ảnh hưởng và gây nên mưa lớn kéo dài trên diện rộng đã ảnh hưởng đến nhu cầu đi lại của người dân. Còn so với cùng kỳ năm trước có tăng là do sau thời gian dịch Covid-19, tình hình kinh tế dần ổn định, từng bước phục hồi. Các chương trình kích cầu du lịch, dịch vụ được quan tâm, các hãng hàng không khôi phục lại các đường bay nội địa và một số đường bay thương mại quốc tế. Mặt khác, lấy vận tải hành khách công cộng là phương thức vận tải chủ lực phục vụ nhu cầu đi lại của người dân trong tỉnh, huyện và thành thị đẩy mạnh các nhu cầu dịch vụ, tạo điều kiện cho vận tải hành khách tăng.

Ước tính năm 2020: Doanh thu vận tải hành khách đạt 2.345,3 tỷ đồng, giảm 1,48%; Khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 100,5 triệu lượt khách, giảm 3,44%; Khối lượng luân chuyển hành khách ước đạt 7.975,2 triệu lượt khách.km, giảm 0,93% so với cùng kỳ năm 2019.

Doanh thu vận chuyển vận tải hàng hóa tháng 11/2020 ước đạt 614 tỷ đồng, tăng 5,81% so với tháng trước và tăng 7,84% so với cùng kỳ; Khối lượng vận chuyển vận tải hàng hoá ước đạt 11.244,9 nghìn tấn, tăng 4,80% so với tháng trước và tăng 8,51% so với cùng kỳ; khối lượng luân chuyển vận tải hàng hóa ước đạt 333,3 triệu tấn.km, tăng 7,34% so với tháng trước và tăng 10,17% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 11 tháng năm 2020, doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 6.130 tỷ đồng, tăng 4,72% so với cùng kỳ; Khối lượng vận chuyển ước đạt 110,61 triệu tấn, tăng 6,82% so với cùng kỳ và khối lượng luân chuyển ước đạt 3.305 triệu tấn.km tăng 6,19% so với cùng kỳ năm trước.

Tháng 11 năm 2020, vận tải hàng hóa tăng nhẹ cả về doanh thu, vận chuyển và luân chuyển so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước là do các cấp, các ngành đã tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, kích cầu tiêu dùng phù hợp và đẩy mạnh phát triển mạnh thị trường trong tỉnh nên cũng đã tác động đến ngành vận tải. Mặt khác, thị trường hàng hóa và đời sống của người dân dần ổn định, các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn đã mở cửa trở lại và đang tích cực kích cầu, các hoạt động tiêu dùng, du lịch đang được triển khai quyết liệt nên tác động tích cực đến ngành vận tải nhất là vận tải hàng hóa.

Ước tính năm 2020, doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 6.776,6 tỷ đồng, tăng 5,17% so với cùng kỳ; Khối lượng vận chuyển ước đạt 122,23 triệu tấn, tăng 7,32% so với cùng kỳ và khối lượng luân chuyển ước đạt 3.641,5 triệu tấn.km tăng 6,49% so với cùng kỳ năm trước

9. Một số vấn đề xã hội

a. Dịch bệnh

Trong kỳ từ ngày 10/10/2020 đến 10/11/2020 trên địa bàn toàn tỉnh xảy ra 676 ca tiêu chảy, giảm 15,71% (-126 ca) so với cùng kỳ năm trước và tăng 26,59% (+142 ca) so với tháng trước, không có người nào bị tử vong. Cộng dồn 11 tháng xảy ra 6.763 ca, giảm 19,93% (-1.683 ca) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân số ca tiêu chảy giảm so với cùng kỳ do ngành Y tế đã phối hợp tốt với các ngành tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về công tác phòng bệnh, chữa bệnh tiêu chảy, công tác vệ sinh môi trường luôn được quan tâm, phun thuốc khử trùng tiêu độc, ăn chín uống sôi, không ăn thức ăn ôi thiu, tiết canh lòng lợn,... Tuy nhiên so với tháng trước số ca tiêu chảy tăng do thời tiết thất thường, mưa nhiều, thực phẩm bẩn không có nguồn gốc, ăn uống thiếu khoa học và ý thức giữ gìn vệ sinh chưa cao. Tiêu chảy xảy ra nhiều nhất ở các huyện: Kỳ Sơn 168 ca, Quế Phong 88 ca, Tương Dương 76 ca, thành phố Vinh 55 ca, Thanh Chương 45 ca, thị xã Hoàng Mai, Anh Sơn cùng 39 ca, ...

Sốt rét: Trong kỳ xảy ra 86 ca, giảm 68 ca so với cùng kỳ năm trước; tăng 86 ca so với tháng trước, xảy ra ở huyện Kỳ Sơn. Trong tháng không có người chết do sốt rét. Cộng dồn 11 tháng xảy ra 136 ca, giảm 16,05% (-26 ca) so với cùng kỳ năm 2019. Nguyên nhân giảm so với cùng kỳ là do người dân đã có nhận thức tốt về tác hại của bệnh sốt rét nên có ý thức trong việc bảo vệ sức khỏe.

Sốt xuất huyết: Trong kỳ xảy ra 48 ca, giảm 138 ca so với cùng kỳ và tăng 21 ca so với tháng trước, xảy ở các huyện Diễn Châu 44 ca, Nghi Lộc 4 ca. Cộng dồn 11 tháng xảy ra 517 ca, tăng 106 ca so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân do thời tiết mưa nhiều là môi trường thuận lợi cho muỗi truyền bệnh và loăng quăng phát triển, khó kiểm soát.

Số vụ ngộ độc thực phẩm theo tiêu chí của Hệ thống chỉ tiêu thống kê Quốc gia mới trong tháng không xảy ra, tính chung 11 tháng năm 2020 xảy ra 5 vụ, bằng 100% so cùng kỳ.

Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Tính đến ngày 31/10/2020 số người bị nhiễm HIV là 12.333 người, trong đó có 10.094 người trong tỉnh (chiếm 81,85%) và người ngoại tỉnh là 2.239 người (chiếm 18,15%). Căn bệnh HIV đã xảy ra trên 21/21 huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh, cụ thể ở các huyện: Quế Phong 2.025 người, thành phố Vinh 1.865 người, Tương Dương 1.108 người, Quỳ Châu 942 người, Diễn Châu 548 người, Quỳ Hợp 445 người, Đô Lương 408 người, Thanh Chương 384 người, Con Cuông 305 người, Thái Hoà 302 người, Tân Kỳ 218 người, Yên Thành 213 người, Nghĩa Đàn 209 người, Hưng Nguyên 187 người, Nam Đàn 184 người, Nghi Lộc 181 người, Quỳnh Lưu 157 người, Cửa Lò 128 người, Kỳ Sơn 111 người, Anh Sơn 95 người, Hoàng Mai 77 người. Trong số người bị nhiễm HIV có 7.150 người đã chuyển sang bệnh AIDS, trong đó người nội tỉnh có 6.388 người chiếm 89,34%; ngoại tỉnh đến có 762 người chiếm 10,66%. Số người chết do AIDS là 4.433 người, trong tỉnh có 4.245 người chiếm 95,76%; ngoài tỉnh có 188 người chiếm 4,24%.

b. Trật tự an toàn xã hội

Trong tháng 11/2020 (tính từ 10/10/2020 đến 10/11/2020) trên địa bàn tỉnh tình hình phạm pháp kinh tế diễn biến phức tạp. Buôn bán hàng cấm, hàng không rõ nguồn gốc. Trong tháng xảy ra 217 vụ, bắt giữ 233 đối tượng thu giữ 2,78 tấn lợn hơi, 1.600 con gà, 70 kg thịt chim, 67,7 kg pháo các loại, 600 kg đường, 453 hộp giấy vệ sinh, 79 bao thức ăn gia súc, 30 tai nghe điện thoại, 40 củ xạc điện thoại, 6 cá thể rùa, 35 m3 đất, cát, 6,35 m3 gỗ các loại và một số hàng hóa khác. So với tháng trước số vụ tăng 20,56% (+37 vụ), số đối tượng tăng 25,27% (+47 đối tượng). So với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 59,56% (+81 vụ), số đối tượng tăng 64,08% (+91 đối tượng).

Phạm pháp hình sự tháng 11/2020 xảy ra 102 vụ, 155 đối tượng phạm pháp hình sự. Trộm 6 xe máy, 2 dây chuyền vàng, 1 điện thoại di động và một số hàng hóa khác ước giá trị khoảng 430 triệu đồng. So với tháng trước vụ giảm 23,88% (-32 vụ), số đối tượng giảm 13,88% (-25 đối tượng). So với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 7,37% (+7 vụ), số đối tượng tăng 19,23% (+25 đối tượng).

Trong tháng đã xảy 80 vụ với 97 đối tượng buôn bán, vận chuyển tàng trữ ma tuý. Trong đó: thành phố Vinh 13 vụ 16 đối tượng, Tương Dương 11 vụ 11 đối tượng, Kỳ Sơn 9 vụ 10 đối tượng, Diễn Châu 8 vụ 8 đối tượng, Quế Phong 6 vụ 6 đối tượng và một số huyện khác. Thu 6 bánh và 16,57 gam hê rô in; 13,07 kg ma túy đá; 10.448 viên ma túy tổng hợp; 2.350 viên thuốc lắc. So với tháng trước số vụ giảm 10,11% (-9 vụ), số đối tượng giảm 14,91% (-17 đối tượng). So với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 29,03% (+18 vụ), số đối tượng tăng 34,72% (+25 đối tượng).

Trong tháng xảy ra 33 vụ với 55 đối tượng. Trong đó: Thị xã Cửa Lò 9 vụ 9 đối tượng, Kỳ Sơn 7 vụ 7 đối tượng, Diễn Châu 6 vụ 18 đối tượng, Con Cuông 6 vụ 9 đối tượng và một số huyện khác. So với tháng trước số vụ giảm 40% (-22 vụ), số đối tượng giảm 32,93% (-27 đối tượng). So với cùng kỳ số vụ tăng 3,13% (+1 vụ), số đối tượng tăng +27,91% (+12 đối tượng). Trong tháng xảy ra 1 vụ 6 đối tượng xảy ra ở huyện Diễn Châu. So với tháng trước số vụ giảm 50% (-1 vụ), số đối tượng giảm 14,28% (-11 đối tượng). So với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 1 vụ, 6 đối tượng.

Trong tháng xảy ra 40 vụ tai nạn giao thông, làm chết 15 người, bị thương 35 người, ước giá trị thiệt hại 1.941 triệu đồng. So với tháng trước tăng 14,28% (+5 vụ), số người chết tăng 50% (+5 người), số người bị thương giảm 5,4% (-2 người). So với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 33,33% (+10 vụ), số người chết tăng 66,67% (+6 người), bị thương tăng 25% (+7 người).

Trong tháng phát hiện 22 vụ đánh bạc với 100 đối tượng tham gia. Thu giữ 158,7 triệu đồng và một số tài sản khác. Tính chung 11 tháng phát hiện 379 vụ đánh bạc thu giữ 1,45 tỷ đồng và nhiều tài sản khác.

Trong tháng trên địa bàn toàn tỉnh xảy ra 02 vụ cháy, giảm 9 vụ so với tháng trước, giảm 04 vụ so với cùng kỳ năm trước (xảy tại huyện Kỳ Sơn và huyện Yên Thành), nguyên nhân do chập điện. Ước tính giá trị thiệt hại khoảng 600 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm, đã xảy ra 92 vụ (trong đó: 19 vụ cháy rừng), làm 2 người chết, 9 người bị thương, giá trị thiệt hại ước tính 27.271 triệu đồng./.


Cục Thống kê tỉnh Nghệ An

  • Tổng số lượt xem: 781
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)