Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 7/2022 ước tính đạt 1.773 tỷ đồng, tăng 0,45% so với tháng trước và tăng 19,86% so với cùng kỳ năm trước. Theo nhóm ngành hàng hoá có 7/12 nhóm ngành hàng hoá có tốc độ tăng so với tháng trước.
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Trong tháng 7, thời tiết có nhiều ngày nắng nóng nên thuận lợi cho việc thu hoạch cây trồng vụ Xuân, đồng thời, tại các địa phương đang khẩn trương làm đất và gieo trồng vụ Mùa năm 2022. Nguồn nước cơ bản đáp ứng được nhu cầu tưới để làm đất và gieo trồng. Dự kiến đến cuối tháng 7, toàn tỉnh cơ bản sẽ thu hoạch xong cây trồng vụ Xuân.
1.1. Nông nghiệp
1.1.1 Trồng trọt
- Cây lúa: Toàn tỉnh đang bước vào thời kỳ thu hoạch lúa Xuân, trong tháng ước thu hoạch được 9.228,65 ha, tăng 0,14% so với cùng kỳ; đến nay, diện tích lúa đã gặt được khoảng 9.538,65 ha, tăng 3,5% so với cùng kỳ, bằng 61,15% diện tích gieo trồng. Thời tiết trong tháng thuận lợi cho việc gieo cấy lúa Mùa năm 2022. Tính đến trung tuần tháng 7, ước gieo cấy lúa vụ Mùa đạt 17.653,54 ha, tăng 0,76% so với cùng kỳ. Diện tích làm đất vụ Mùa toàn tỉnh ước 24.245,13 ha. Hiện tại, nguồn nước tưới được đảm bảo, mạ phát triển tốt đáp ứng đủ cho diện tích gieo cấy vụ Mùa năm 2022.
- Cây ngô: Diện tích thu hoạch trong tháng ước 7.695,84 ha, tăng 0,49% so với cùng kỳ; cộng dồn là 8.483,04 ha, bằng 60,69% diện tích gieo trồng. Diện tích gieo trồng vụ Mùa ước thực hiện 664,25 ha, tăng 0,06% so với cùng kỳ. Dự kiến người dân sẽ mở rộng diện tích trồng do nhu cầu sử dụng ngô làm thức ăn chăn nuôi tăng (chăn nuôi lợn phục hồi, xu hướng nuôi nhốt trâu, bò vỗ béo ngày càng tăng).
- Cây khoai lang: Diện tích thu hoạch trong tháng ước 255,63ha, bằng 100,28% so với cùng kỳ. Năng suất thu hoạch ước 57,66 tạ/ha, tăng 0,17% so với cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch trong tháng ước 1.473,96 tấn, tăng 0,45% so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng vụ Mùa ước thực hiện 151,42 ha, tăng 0,37% so với cùng kỳ.
- Đỗ tương: Diện tích thu hoạch trong tháng ước 86,21 ha, tăng 0,72% so với cùng kỳ. Năng suất thu hoạch ước 15,94 tạ/ha, giảm 0,45% so với cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch trong tháng ước 125,15 tấn, tăng 2,59% so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng vụ Mùa ước thực hiện được 86,21 ha, tăng 0,72 so với cùng kỳ.
- Cây lạc: Diện tích thu hoạch trong tháng ước 719,64 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ. Năng suất thu hoạch ước 19,28 tạ/ha, tương đương với sản lượng thu hoạch trong tháng ước 1.387,47 tấn, tăng 0,25% so với cùng kỳ. Do sử dụng giống lạc tiến bộ kỹ thuật, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng (như giống lạc L14) cho năng suất thu hoạch cao.
- Rau các loại: Hiện nay, diện tích trồng rau an toàn ngày càng mở rộng, mang lại hiệu quả kinh tế cao vì thị trường rau sạch đáp ứng được nhu cầu của người tiêu thụ, giá bán ổn định. Một số Hợp tác xã trồng rau an toàn hình thành và phát triển ở các huyện: Cao Lộc, thành phố Lạng Sơn. Diện tích thu hoạch trong tháng ước 509,63 ha, tăng 0,29% so với cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch trong tháng ước 6.518,46 tấn, tăng 0,05% so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng vụ Mùa ước thực hiện 1.165,42 ha, tăng 0,05% so với cùng kỳ.
1.1.2 Chăn nuôi
Đàn trâu tiếp tục giảm dần do nhu cầu sử dụng sức kéo bằng gia súc giảm và môi trường chăn thả bị thu hẹp, một số hộ bán trâu để lấy vốn đầu tư vào trồng rừng. Ước tính số trâu hiện có 63.258 con, giảm 6,26%; số trâu xuất chuồng là 1.375 con, giảm 3,51% so với cùng kỳ; sản lượng xuất chuồng đạt 364,88 tấn.
Ước tính số bò hiện có 28.186 con, giảm 15,82% so với cùng kỳ năm trước; số con xuất chuồng là 398 con, tương đương với sản lượng thịt hơi xuất chuồng 86,87 tấn, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, do thực hiện mô hình chăn nuôi bò năng suất cao theo hướng nhốt chuồng, vỗ béo.
Tổng đàn lợn, số con hiện có dự ước 166.543 con, tăng 43,76% so với cùng kỳ năm trước, tổng đàn lợn tăng do dịch bệnh được kiểm soát tốt, giá bán sản phẩm ổn định, người chăn nuôi có lãi; mặt khác, để đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng thịt lợn vào dịp lễ, tết trong thời gian tới nên người chăn nuôi đã chủ động tái đàn, mở rộng quy mô sản xuất.
Ước tổng đàn gia cầm hiện có 4.595,86 nghìn con, giảm 7,26% so với cùng kỳ; trong đó, tổng đàn gà là 4.201,21 nghìn con, giảm 3,25% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng của gia cầm là 1.340,68 tấn; trong đó, sản lượng gà hơi đạt 1.312,43 tấn. Sản lượng trứng gia cầm đạt 5.278,18 nghìn quả; trong đó, số lượng trứng gà đạt 4.399,25 nghìn quả.
1.2. Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới tập trung trong tháng ước thực hiện 1.822,97 ha, tăng 4,69% so với cùng kỳ năm trước do trồng rừng mang lại hiệu quả kinh tế cao và có thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định. Số cây trồng phân tán ước 1.305 nghìn cây, tăng 13,48% so với cùng kỳ năm trước. Ước khai thác củi các loại đạt 130.702,12 ste, giảm 0,48% so cùng kỳ. Cộng dồn từ đầu năm khai thác đạt 834.061,62 ste, tăng 0,16% so cùng kỳ năm trước.
1.3. Thủy sản
Trong những năm vừa qua diện tích nuôi trồng thủy sản tương đối ổn định, đối tượng nuôi trồng thủy sản phong phú, môi trường nuôi không bị ô nhiễm và không có dịch bệnh xảy ra. Trung tâm Khuyến nông tỉnh thực hiện sản xuất và cung ứng cá giống đảm bảo chất lượng cho nông dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh. Trong tháng cung ứng được 156.074 con cá giống; lũy kế từ đầu năm đến nay đã cung ứng được 379.894 con cá giống các loại (mè, trôi, trắm, chép, chim, trê,…).
2. Sản xuất công nghiệp
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2022
2.1.1. So với tháng trước
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7 giảm 1,01% so với tháng trước. Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 6,24%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,89%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 0,63%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 0,61%.
Ngành công nghiệp khai khoáng, ngành khai thác than cứng và than non (sản phẩm than) giảm 0,07%; khai khoáng khác (sản phẩm đá xây dựng khác) giảm 12,77%, từ đầu tháng lượng tồn sản phẩm còn khá lớn, doanh nghiệp tập trung chủ yếu tiêu thụ sản phẩm tồn kho, bên cạnh đó do thời tiết thay đổi thất thường ảnh hưởng đến hoạt động khai thác ngoài trời.
Sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được đánh giá diễn ra khá sôi động, nhất là khu vực cá thể và tập trung ở lĩnh vực chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ với sản phẩm chính là ván bóc; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (sản phẩm cửa hoa, cửa sắt), sản xuất giường, tủ, bàn, ghế; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 11,67% (chủ yếu tăng ở sản phẩm bật lửa ga: tăng 23,11%). Sản phẩm chủ lực của tỉnh: Clanhke và xi măng Portland đen giảm so với tháng trước do doanh nghiệp dừng lò để bảo dưỡng.
Ngành sản xuất và phân phối điện hoạt động ổn định với sản lượng điện sản xuất tăng 0,57%, điện thương phẩm tăng 1% so với tháng trước.
Ngành xử lý và cung cấp nước đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu nước sinh hoạt của dân cư; hoạt động thoát nước và xử lý nước thải tăng 10,93% so với tháng trước.
2.1.2. So với cùng kỳ
So với cùng kỳ năm trước, sản xuất công nghiệp tháng 7 năm 2022 tăng 9,76%. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 16,52%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,33%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 5,87%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 4,97%.
Ngành công nghiệp khai khoáng tăng chủ yếu hoạt động khai thác than (tăng 32,56%), do cùng kỳ năm trước Công ty Nhiệt điện Na Dương dừng lò để bảo dưỡng nên sản lượng than khai thác để phục vụ cho sản xuất điện đạt thấp; hoạt động khai thác đá tăng 1,62% so với cùng kỳ, do các điểm mỏ khai thác khoáng sản tập trung vào khai thác, chế biến sâu các loại khoáng sản, nâng cấp, đồng bộ máy móc tạo giá trị sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng thông thường và sản xuất xi măng tại mỏ đá vôi Đồng Bành, mỏ đá vôi Ba Nàng,….
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,33% so với cùng kỳ, trong đó hoạt động chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ có chỉ số sản xuất tăng 32,33%, với lợi thế kinh tế đồi rừng phát triển, nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa phương, các cơ sở kinh doanh cá thể hoạt động chế biến ván bóc tăng cao, bên cạnh đó sản phẩm ván ép do nhu cầu đặt hàng của đối tác tăng nên chỉ số sản xuất cũng tăng khá. Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan so với cùng kỳ tăng trên 300%, từ đầu năm doanh nghiệp hoạt động gia công sản phẩm cho các doanh nghiệp trong nước. Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 37,84%, tăng chủ yếu các sản phẩm gia công cơ khí như hoạt động hàn xì, sản xuất cửa hoa, cửa sắt trong dân cư. Sản xuất đồ uống tăng 57%, trong đó tăng cao ở sản phẩm rượu có độ cồn từ 25o trở lên, một số doanh nghiệp lớn sản xuất trong ngành này ký kết được đơn hàng tiêu thụ ổn định; các nhà hàng, các quán ăn đã mở cửa trở lại dẫn đến nhu cầu tiêu thụ tăng. Sản phẩm in, sao chép các loại bản ghi tăng 48,42%, do cùng kỳ năm 2021 các doanh nghiệp vừa phòng, chống dịch bệnh Covid-19, vừa sản xuất khiến chi phí tăng cao, tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng nguyên vật liệu đầu vào vật tư chính như giấy. Sản phẩm muối công nghiệp tăng 57,98%, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, trong tháng do nhu cầu nhập khẩu sản phẩm để làm chế phẩm công nghiệp từ phía đối tác tăng, với lượng đơn hàng ổn định, doanh nghiệp chủ động về nguồn vốn.
Một số ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ, chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động dựa theo đơn đặt hàng, cụ thể: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu (sản phẩm máy bơm) giảm 20,63% do giá cả nguyên vật liệu tăng cao, nhập khẩu linh kiện khó khăn.
Ngành công nghiệp điện, sự tăng, giảm sản lượng phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc. Sản lượng điện sản xuất tháng 7/2022 tăng 11,48%; điện thương phẩm giảm 18,79% so với cùng kỳ do đặc điểm thời tiết năm nay chưa có đợt nắng nóng kéo dài nên nhu cầu sử dụng điện giảm so với cùng kỳ năm trước.
So với cùng kỳ năm trước, ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 2,94%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 6,94%.
2.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2022 so với cùng kỳ
Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2022 tăng 7,94% so với cùng kỳ. Cụ thể, ngành khai khoáng tăng 6,20%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,74%; sản xuất và phân phối điện tăng 4,21%; cung cấp nước, xử lý rác thải tăng 3,79%.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 7 tháng năm 2022 tăng cao so với năm trước và đóng góp lớn vào mức tăng chung của toàn ngành: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 175,77%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 51,51%; sản xuất đồ uống tăng 35,75%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 36,36%; chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng 41,91%; in và sao chép các loại bản ghi tăng 64,42%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 52,01%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 40,27%; sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 54,86%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh như: Xi măng ước đạt 759,75 nghìn tấn, giảm 9,26% so với cùng kỳ năm trước; điện sản xuất ước đạt 502,66 triệu Kwh, tăng 6,43% so với cùng kỳ; than ước đạt 356,06 nghìn tấn, tăng 5,53% so với cùng kỳ.
2.3. Chỉ số sử dụng lao động
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 7/2022 tăng 0,26% so với tháng trước và giảm 3,31% so với cùng kỳ. Cụ thể, so với cùng kỳ ngành khai khoáng chỉ số sử dụng lao động giảm 0,48%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 5,16%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 1,29%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,5%, cùng với quá trình cổ phần hóa, Công ty cổ phần cấp thoát nước Lạng Sơn cắt giảm lao động. Bình quân 7 tháng đầu năm 2022 chỉ số sử dụng lao động giảm 4,44% so với cùng kỳ năm trước.
3. Đầu tư, xây dựng
Trong tháng, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai hoàn thành hồ sơ phê duyệt dự án sau khi được phê duyệt chủ trương đầu tư: Dự án thành phần 2 (đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng) tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn; Dự án Nâng cấp Quốc lộ 4B đoạn KM18-KM80) đảm bảo dự kiến khởi công cuối năm 2022. Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thi công, giải phóng mặt bằng các công trình, dự án, nhất là dự án trọng điểm của tỉnh, dự án có tính chất kết nối liên vùng như: Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn Km3+700-Km18); Dự án nút giao cao tốc vào Khu công nghiệp Hữu Lũng; Dự án khu tái định cư dân cư xã Hồ Sơn, xã Hòa Thắng, huyện Hữu Lũng,... Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành hồ sơ nghiệm thu thanh toán 05 dự án ODA. Tập trung tháo gỡ, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành hồ sơ phê duyệt dự án, công tác lựa chọn nhà thầu đảm bảo khởi công xây dựng 100% các dự án khởi công mới trong quý III/2022.
Dự ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 7/2022 thực hiện được 264,4 tỷ đồng, đạt 7,67% so với kế hoạch năm 2022, tăng 0,89% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 158 tỷ đồng, giảm 2,29%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 106,4 tỷ đồng, tăng 6,0%.
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh 7 tháng đầu năm 2022 ước thực hiện 1.299,2 tỷ đồng, giảm 15,58% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 800,2 tỷ đồng, giảm 14,74%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 499 tỷ đồng, giảm 16,89%.
* Tiến độ thực hiện một số dự án trên địa bàn tỉnh:
- Dự án sửa chữa và nâng cao an toàn đập (WB8) có tổng mức đầu tư 196,8 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 7/2022 ước thực hiện được 121,3 tỷ đồng, đạt 61,64% so với kế hoạch.
- Dự án Đường đến trung tâm xã Tân Yên (huyện Tràng Định) có tổng mức đầu tư 432,1 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 7/2022 ước thực hiện được 378 tỷ đồng, đạt 87,48% so với kế hoạch.
- Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn km3+700 - km18): Công trình có tổng mức đầu tư 988,2 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 7/2022 ước thực hiện được 544,6 tỷ đồng, đạt 55,11% kế hoạch.
- Dự án Hạ tầng cơ bản phát triển các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn (4 hợp phần), công trình có tổng mức đầu tư 1.377,6 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 7/2022 ước thực hiện được 499,3 tỷ đồng, đạt 36,24% kế hoạch.
4. Tài chính, ngân hàng
4.1. Tài chính[1]
- Về thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện tháng 7 năm 2022 là 612 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa là 272 tỷ đồng, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 340 tỷ đồng. Lũy kế ước thực hiện 7 tháng năm 2022 là 4.090,9 tỷ đồng, đạt 52,1% so với dự toán, bằng 61,8% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Thu nội địa là 1.478,9 tỷ đồng, đạt 62,9% dự toán, bằng 85% so với cùng kỳ năm 2021; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 2.610,2 tỷ đồng, đạt 47,5% so với dự toán giao, bằng 53,5% so với cùng kỳ năm 2021.
Ước thu nội địa 7 tháng năm 2022 giảm 15% so với cùng kỳ, nguyên nhân do tiếp tục triển khai các văn bản quy định của Trung ương nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19: giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ; giảm thuế bảo vệ môi trường theo Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 ngày 23/3/2022, Nghị quyết số 20/2022/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; gia hạn thời gian nộp thuế GTGT, thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2022 theo Nghị định số 34/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ. Số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu ước thực hiện 7 tháng giảm so với cùng kỳ năm 2021, nguyên nhân do trong điều kiện tình hình dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, phía Trung Quốc tiếp tục tăng cường thực hiện nghiêm ngặt công tác phòng chống dịch, tuy nhiên năng lực thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu đã tăng so với tháng trước, chuẩn bị các điều kiện đảm bảo khôi phục thông quan tại cửa khẩu Cốc Nam. Đồng thời, việc giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% đối với các loại hàng hóa nhập khẩu ảnh hưởng mạnh đến thu ngân sách. Hơn nữa, hàng hóa nhập khẩu qua các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh chiếm tỷ lệ lớn là sơ mi rơ móoc, các loại xe chuyên dùng, hàng hóa tiêu dùng, nội thất, hóa chất, nguyên liệu sản xuất, hoa quả đều thuộc dòng hàng được cắt giảm thuế quan theo lộ trình Hiệp định thương mại ASEAN – Trung Quốc và có thuế suất thuế nhập khẩu thấp (0% - 5%).
- Về chi ngân sách địa phương
Chi ngân sách địa phương được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo đúng theo tiêu chuẩn, định mức. Đối với chi đầu tư phát triển và các chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ khác: công tác giải ngân, thanh toán các nguồn vốn, tạm ứng theo hợp đồng được khẩn trương, kiểm soát chặt chẽ, đúng chế độ, chính sách, đơn giá, định mức theo quy định hiện hành. Tình hình giải ngân vốn đầu tư thấp hơn so với cùng kỳ do nguồn thu sử dụng đất phụ thuộc vào tiến độ thực hiện thu thực tế; giá cả một số hàng hóa, nguyên vật liệu trên thị trường biến động mạnh, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện hợp đồng xây lắp..
Tổng chi ngân sách địa phương tháng 7 năm 2022 ước thực hiện 891,8 tỷ đồng, lũy kế tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 7 tháng đầu năm đạt là 4.979 tỷ đồng, đạt 40,4% dự toán giao đầu năm (nếu không tính Chương trình MTQG đạt 45,3% dự toán giao), giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Chi trong cân đối ngân sách địa phương là 4.586 tỷ đồng, đạt 47,5% dự toán giao và tăng 1,4% so cùng kỳ năm 2021 (Chi đầu tư phát triển là 492,6 tỷ đồng, đạt 38,9% dự toán, giảm 25,4% so với cùng kỳ năm 2021; Chi thường xuyên là 4.032 tỷ đồng, đạt 49,8% dự toán, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2021); Chi các chương trình mục tiêu quốc gia và một số chương trình, dự án, nhiệm vụ khác là 393 tỷ đồng đạt 14,9% dự toán, giảm 21,6% so với cùng kỳ.
4.2. Ngân hàng[2]
Chính sách điều hành tín dụng trên địa bàn được thực hiện theo hướng mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với chuyển dịch nền kinh tế. Khả năng thanh khoản của các ngân hàng được đảm bảo, đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho nền kinh tế và chi trả cho khách hàng, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Ước thực hiện đến 31/7/2022: Tổng huy động vốn ước đạt 34.963 tỷ đồng, tăng 4,5% so với 31/12/2021. Dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn ước đạt 38.627 tỷ đồng, tăng 2,9% so với 31/12/2021.
5. Thương mại và dịch vụ
5.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa trong tháng 7/2022 trên địa bàn tỉnh nhìn chung diễn ra tương đối thuận lợi. Lượng xe hàng hóa xuất, nhập khẩu trung bình trong tháng 7 tăng hơn 20% so với tháng 6, đạt khoảng trên 700 – 800 xe/ngày; xuất khẩu trên 400 xe/ngày, nhập khẩu trên 350 xe/ngày (tăng gần 30%); lượng xe hàng chờ xuất khẩu tại các bến, bãi trên địa bàn tỉnh trung bình khoảng hơn 900 xe/ngày. Kim ngạch xuất, khẩu trong tháng 7/2022 ước đạt 290 triệu USD, lũy kế 7 tháng ước đạt 1.490 triệu USD, đạt 27,1% kế hoạch, giảm 36,3% so với cùng kỳ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu trong tháng ước đạt 110 triệu USD, lũy kế 7 tháng ước đạt 955 triệu USD, đạt 28,4% kế hoạch, giảm 38,4% so với cùng kỳ; kim ngạch xuất khẩu hàng địa phương trong tháng ước đạt 13 triệu USD, lũy kế 7 tháng đạt 71 triệu USD, đạt 50% kế hoạch, tăng 1,4% so với cùng kỳ[3].
5.2. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Nhu cầu mua sắm hàng hoá thiết yếu phục vụ cho đời sống sinh hoạt hằng ngày của nhân dân tại các chợ, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, đại lý, siêu thị trên địa bàn tỉnh có mức tăng khá, đặc biệt là các mặt hàng điện lạnh, thiết bị làm mát như điều hoà, tủ lạnh, quạt điện… đã cung ứng số lượng tương đối lớn cho người tiêu dùng trong những ngày nắng nóng; bên cạnh đó các đại lý cũng đã áp dụng nhiều chương trình khuyến mãi giảm giá các sản phẩm để kích cầu tiêu dùng. Riêng giá các mặt hàng sắt, thép hiện nay đang có dấu hiệu tăng do giá nguyên liệu đầu vào trên thế giới tăng đã ảnh hưởng đến giá sắt thép trong nước tăng theo, từ đó doanh thu các hoạt động thương mại trong tháng 7/2022 dự ước tăng hơn so với tháng trước và cùng kỳ, cụ thể:
Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 7/2022 ước tính đạt 1.773 tỷ đồng, tăng 0,45% so với tháng trước và tăng 19,86% so với cùng kỳ năm trước. Theo nhóm ngành hàng hoá có 7/12 nhóm ngành hàng hoá có tốc độ tăng so với tháng trước, lần lượt: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 0,76%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 3,04%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 3,37%; nhóm xăng, dầu tăng 1,21%; nhiên liệu khác tăng 1,39%; nhóm hàng hoá khác tăng 1,05%; doanh thu sửa chữa ô tô, mô tô xe máy tăng 4,48%. Các nhóm ngành hàng hóa khác còn lại giảm nhẹ và ở mức ổn định, không có hiện tượng biến động về tăng giá cũng như khan hiếm mặt hàng. Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hoá 7 tháng năm 2022 đạt 12.467,2 tỷ đồng, tăng 11,64% so với cùng kỳ năm trước.
5.3. Dịch vụ
5.3.1. Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
Hoạt động du lịch diễn ra sôi động, các tour du lịch trong nước liên tục có những ưu đãi, khuyến mãi với các gói du lịch trong tuần để kích cầu khách du lịch. Doanh thu dịch vụ lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ tháng 7/2022 ước đạt 1,3 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 6,36%, so với cùng kỳ tăng 148,37%. Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 7/2022 dự ước doanh thu đạt 180 tỷ đồng, tăng 2,87% so với tháng trước và tăng 50,83% so với cùng kỳ. Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 10,4 tỷ đồng, tăng 2% so với tháng trước và tăng 48,35% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 169,6 tỷ đồng, tăng 2,93% so với tháng trước và tăng 50,99% so với cùng kỳ.
Dự ước 7 tháng năm 2022, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 1.225 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 29,68%. Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã và đang được đầu tư phát triển mạnh các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.
5.3.2. Doanh thu dịch vụ khác
Hiện nay các dịch vụ như: karaoke, quán bar, xông hơi, masage, điểm truy cập game… đã hoạt động ổn định và doanh thu có mức tăng cao so với tháng trước và so với cùng kỳ. Các hoạt động dịch vụ kinh doanh bất động sản, dịch vụ hành chính và hỗ trợ trong tháng 7/2022 tăng hơn so với tháng trước là do đang vào mùa cao điểm thi công các dự án, công trình xây dựng trọng điểm do đó nhu cầu sử dụng các dịch vụ hỗ trợ hành chính, dịch vụ thuê máy móc công trình có xu hướng tăng tác động đến doanh thu hoạt động dịch vụ tăng hơn so với tháng trước. Ngoài ra dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội cũng tăng so với tháng trước do ảnh hưởng của thời tiết nắng, nóng phát sinh nhiều bệnh cho người già và trẻ em do vậy nhu cầu về các dịch vụ y tế tăng.
Doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 7/2022 dự ước đạt 42,9 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,03%, so với cùng kỳ tăng 20,5%. Một số nhóm dịch vụ có mức tăng khá như: Nhóm kinh doanh bất động sản tăng 1,11% so với tháng trước và tăng 18,93% so với cùng kỳ; nhóm hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 6,23% so với tháng trước và tăng 14,7% so với cùng kỳ; nhóm hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,8% so với tháng trước và tăng 15,69% so với cùng kỳ…. Dự ước 7 tháng năm 2022, doanh thu dịch vụ khác đạt 300 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 10,87%. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng đang được chú trọng đầu tư và phát triển thu hút khách du lịch từ mọi miền đến thăm quan và du lịch, nghỉ dưỡng; các cơ sở hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống cũng được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ đáp ứng được nhu cầu của người dân.
5.4. Vận tải
Với việc thích ứng, linh hoạt với dịch bệnh Covid-19 như hiện nay, hoạt động của ngành vận tải đã có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ, phục vụ tốt hơn nhu cầu đi lại và kinh doanh buôn bán của người dân trên địa bàn tỉnh. Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện khai báo trực tuyến và xử lý trên nền tảng cửa khẩu số nhằm giảm bớt thời gian, công sức và khối lượng công việc của cơ quan quản lý tại cửa khẩu; đồng thời giảm bớt thời gian đi lại và giảm chi phí phát sinh cho doanh nghiệp.
Tổng doanh thu toàn ngành vận tải tháng 7/2022 ước đạt 150,4 tỷ đồng, tăng 30,27% so với cùng kỳ (do cùng kỳ năm trước chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19 phải thực hiện các biện pháp cách ly xã hội, nên các hoạt động vận tải gặp nhiều khó khăn).
Doanh thu vận tải hành khách đạt 17,6 tỷ đồng, tăng 92,95%. Khối lượng hành khách vận chuyển tăng 56,55%; hành khách luân chuyển tăng 67,84% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hóa đạt 82,6 tỷ đồng, tăng 39,82%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng 8,24%; hàng hoá luân chuyển tăng 81,85% so với cùng kỳ. Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 49,8 tỷ đồng, tăng 6,17%; hoạt động bưu chính, chuyển phát đạt 0,3 tỷ đồng, tăng 6,35% so với cùng kỳ năm 2021.
Tổng doanh thu 7 tháng ước đạt 1.033,5 tỷ đồng, tăng 12,02% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hành khách đạt 130,3 tỷ đồng tăng 22,6%. Khối lượng hành khách vận chuyển tăng 11,47%; hành khách luân chuyển tăng 17,05% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hoá đạt 617 tỷ đồng, tăng 11,16%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng 22,01%; hàng hoá luân chuyển tăng 18,83% so với cùng kỳ. Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 283,9 tỷ đồng tăng 9,53%; dịch vụ chuyển phát đạt 2,2 tỷ đồng tăng 9,42% so với cùng kỳ.
Nguyên nhân doanh thu ngành vận tải tăng so với cùng kỳ năm 2021: Chủ yếu tăng ở khối lượng hành khách vận chuyển, do tình hình dịch Covid-19 trong nước được kiểm soát tốt, nhu cầu đi lại của người dân tăng, đặc biệt tháng 7/2022 bước vào mùa du lịch, nhu cầu tham quan, du lịch tăng cao, lưu lượng khách vận chuyển tăng. Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước tăng cao hơn so với năm 2021 do hiện nay các hoạt động sản xuất kinh doanh trở lại bình thường. Bên canh đó trong tháng 7 bước vào vụ thu hoạch nông sản các loại cây ăn quả do vậy khối lượng hàng hoá tăng cao hơn so với cùng kỳ.
6. Chỉ số giá
6.1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung toàn tỉnh tháng 7/2022 tăng 0,83% so với tháng trước, tăng 1,83% so với cùng kỳ năm trước:
Trong 11 nhóm mặt hàng chính, có 8 nhóm hàng tăng, 2 nhóm hàng giảm và 01 nhóm hàng không thay đổi so với tháng trước. Chỉ số giá của một số nhóm ngành chủ yếu:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,76%:
+ Chủ yếu tăng ở mặt hàng thực phẩm, so với tháng trước tăng 3,72%. Trong đó, giá thịt gia súc tăng 10,50%, riêng giá thịt lợn tăng 12,69% là do giá thức ăn chăn nuôi tiếp tục tăng đã đẩy giá bán thịt lợn lên theo; mặt khác, thời gian qua, giá xăng, dầu tăng kéo theo giá sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tăng cao, trong đó có mặt hàng thực phẩm. Đây là nguyên nhân chính khiến giá các loại thịt bán lẻ đến tay người tiêu dùng tăng cao. Giá thịt lợn tăng cao kéo theo giá dầu mỡ ăn tăng 3,84%. Giá thịt gia cầm tăng 0,48%, giá trứng các loại tăng 0,97%; giá rau tươi, khô và chế biến tăng 2,34%. Nguyên nhân tăng do nguồn hàng cung ứng ít, nhu cầu dịch vụ ăn uống và tiêu dùng của người dân trong tháng tăng cao, các mặt hàng thực phẩm cung cấp cho các nhà hàng, quán ăn tăng.
+ Nhóm lương thực giảm 0,25%: Chỉ số giá nhóm lương thực giảm chủ yếu ở mặt hàng gạo tẻ thường, bún phở, bánh đa … do nguồn cung dồi dào, giá nguyên liệu đầu vào giảm nhẹ.
+ Ăn uống ngoài gia đình tăng 0,94%: Trong tháng 7/2022, do thời tiết nắng nóng vào dịp mùa hè, nhu cầu ăn uống và giải khát của người dân tăng hơn so với tháng trước.
- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,53%. Một số mặt hàng trong nhóm có sự biến động tăng, giảm như: Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,96%, giá dịch vụ sửa chữa nhà cửa tăng 1,40% do giá một số VLXD tăng ở chi phí vận chuyển; điện sinh hoạt tăng 2,65%, do vào mùa hè nhu cầu sử dụng điện tăng; giá gas giảm 2,17% so với tháng trước.
- Nhóm giao thông giảm 2,95%: Chỉ số giá nhóm nhiên liệu giảm 2,95% so với tháng trước, do trong tháng có 3 lần điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào các ngày 01/7, 11/7 và 21/7.
Ngày 01/7: Sau khi thực hiện việc trích lập, không chi sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, giá bán các mặt hàng xăng, dầu tiêu dùng phổ biến trên thị trường: Xăng E5RON92: không cao hơn 30.819 đồng/lít (giảm 411 đồng/lít); Xăng RON95-III: không cao hơn 32.763 đồng/lít (giảm 110 đồng/lít); Dầu điezen 0.05S: không cao hơn 29.615 đồng/lít (giảm 804 đồng/lít); Dầu hỏa: không cao hơn 28.353 đồng/lít (giảm 832 đồng/kg); Dầu mazut 180CST 3.5S: không cao hơn 19.722 đồng/kg (giảm 1.013 đồng/lít).
Từ 11/7/2022, giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu: Xăng E5RON92 không cao hơn 27.788 đồng/lít (giảm 3.103 đồng/lít); Xăng RON95-III không cao hơn 29.675 đồng/lít (giảm 3.088 đồng/lít); Dầu diesel 0.05S không cao hơn 26.593 đồng/lít (giảm 3.022 đồng/lít); Dầu hỏa không cao hơn 26.345 đồng/lít (giảm 2.008 đồng/lít); Dầu mazut 180CST 3.5S không cao hơn 17.712 đồng/kg (giảm 2.010 đồng/kg).
Từ 15h ngày 21/7/2022, điều chỉnh giá bán các mặt hàng xăng, dầu tiêu dùng phổ biến trên thị trường: Xăng E5RON92 không cao hơn 25.073 đồng/lít (giảm 2.715 đồng/lít); Xăng RON95-III không cao hơn 26.070 đồng/lít (giảm 3.605 đồng/lít); Dầu diesel 0.05S không cao hơn 24.858 đồng/lít (giảm 1.735 đồng/lít); Dầu hỏa không cao hơn 25.246 đồng/lít (giảm 1.099 đồng/lít); Dầu mazut 180CST 3.5S không cao hơn 16.548 đồng/kg (giảm 1.164 đồng/kg).
* Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 năm 2022 so với cùng kỳ năm trước
CPI chung toàn tỉnh tháng 7/2022 tăng 1,83% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của một số nhóm hàng sau: Nhóm lương thực tăng 2,81%; Ăn uống ngoài gia đình tăng 2,33%; Đồ uống và thuốc lá tăng 0,77%; Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,40%; Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,88%; Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,99%; Nhóm giao thông tăng 14,1%; Nhóm giáo dục tăng 0,86%; Nhóm văn hóa giải trí và du lịch tăng 1,61%; Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,50%. Nhóm hàng có chỉ số giá giảm, gồm: Thực phẩm giảm 1,57%; Bưu chính, viễn thông giảm 0,41%.
6.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
- Chỉ số giá vàng: Trong tháng 7/2022, giá vàng thế giới biến động mạnh hơn các tháng trước, thị trường vàng trong nước giao dịch điều chỉnh giá giảm, giảm theo giá thị trường thế giới. Giá vàng trong nước so với tháng trước giảm 1,68%, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,35%, so với năm gốc năm 2019 tăng 38,35%. Bình quân 7 tháng năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 3,16% so với bình quân cùng kỳ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ: So với tháng trước giảm 0,56%, so với cùng kỳ năm trước giảm 1,19%, so với năm gốc năm 2019 giảm 0,04%. Bình quân 7 tháng năm 2022 giá chỉ số giá đô la Mỹ giảm 2,06% so với bình quân cùng kỳ.
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giải quyết việc làm và Bảo hiểm xã hội[4]
Tư vấn về việc làm, học nghề, chính sách pháp luật lao động cho 5.638 lượt người lũy kế từ đầu năm 16.235 lượt người; số người đăng ký tìm việc làm: 937 người; số người được giới thiệu việc làm: 937 người, số người nhận được việc làm là 409 người, lũy kế từ đầu năm 835 người. Số người nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp 430 người, lũy kế từ đầu năm là 3.325 người; Số người có quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng là 528 người, lũy kế từ đầu năm là 2.911 người với tổng số tiền chi trả trợ cấp là 7,1 tỷ đồng, lũy kế từ đầu năm là 38,6 tỷ đồng.
Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 3.782 người có công và thân nhân với kinh phí 6,7 tỷ triệu đồng, lũy kế chi trả trợ cấp cho 26.607 lượt người có công, kinh phí gần 50 tỷ đồng. Tiếp nhận, giải quyết hồ sơ người có công với cách mạng và thân nhân; người hoạt động kháng chiến tháng là 181 hồ sơ. Lũy kế tiếp nhận và giải quyết hồ sơ người có công với cách mạng và thân nhân: 906 hồ sơ. Tổ chức các hoạt động nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ; thắp nến tri ân các anh hùng liệt sĩ tại các nghĩa trang liệt sĩ trên địa bàn toàn tỉnh; thực hiện chuyển quà tặng của Chủ tịch nước cho 7.179 người có công và thân nhân, kinh phí 2,2 tỷ đồng, tặng quà cho 7.225 người có công và thân nhân, kinh phí 8 tỷ đồng.
7.2. Hoạt động y tế và sức khỏe cộng đồng[5]
Trong tháng 7, tỉnh Lạng Sơn tiếp tục triển khai các biện pháp phòng chống dịch Covid-19; chủ động thực hiện chiến lược “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Thiết lập “vùng xanh” đảm bảo phòng, chống dịch Covid-19 phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa khu vực các cửa khẩu: Hữu Nghị, Tân Thanh và Chi Ma. Tiếp tục tăng cường triển khai tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ đủ 5 đến dưới 12 tuổi và đối tượng có nguy cơ (trên 18 tuổi) trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn năm 2022; triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 liều nhắc lại lần 2 (mũi 4) năm 2022 và duy trì thường xuyên tiêm vét cho các trường hợp chưa tiêm văc xin phòng Covid-19. Đảm bảo y tế kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2022 .
7.2.1. Công tác y tế dự phòng
* Công tác phòng chống dịch Covid-19 tính đến 15h00 ngày 24/5/2022
Đánh giá cấp độ dịch của tỉnh Lạng Sơn theo Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ và Quyết định số 218/QĐ-BYT ngày 27/01/2022 của Bộ Y tế (đánh giá ngày 09/5/2022 đến nay): toàn tỉnh có 200/200 xã, phường, thị trấn: Cấp 1 “Vùng xanh” chiếm 100%. Tính từ đầu năm 2022 đến nay, toàn tỉnh ghi nhận 154.530 F0. Lũy kế từ ngày 06/5/2021 đến nay: 156.460 F0; đã khỏi bệnh 156.290 ca; tử vong 98 ca. Hiện còn điều trị 72 F0 (100% điều trị tại tỉnh), trong đó: 17 người bệnh điều trị tại các cơ sở y tế, 55 người bệnh đang điều trị tại nhà/08 huyện, thành phố.
Tình hình tiêm chủng: Lũy kế tổng số liều vắc xin đã tiếp nhận 1.882.376 liều; đã tiêm: 1.845.984 liều. Từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,89%; tỷ lệ tiêm 2 mũi đạt 99,86%; tỷ lệ tiêm mũi nhắc lại (mũi 3) đạt 89,86%; tỷ lệ tiêm mũi nhắc lại lần 2 (mũi 4) đạt 60,3%/tổng số 161.077 người dự kiến tiêm. (Lạng Sơn nằm trong top 14 tỉnh trên toàn quốc có tỷ lệ tiêm mũi 3 trên 80%). Trẻ em từ 12-17 tuổi: Tỷ lệ mũi 1 đạt 99,7% trên tổng số 69.808 trẻ cần tiêm; tỷ lệ mũi 2 đạt 96% trên tổng số 69.808 trẻ cần tiêm; tình hình triển khai tiêm liều nhắc lại (mũi 3) được 26.648 liều/69.808 trẻ dự kiến tiêm, đạt 38,2%. Trẻ từ đủ 5 tuổi đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ mũi 1 đạt 74,2% trên tổng số 96.316 trẻ dự kiến tiêm; tỷ lệ mũi 2 đạt 37,9% trên tổng số 96.316 trẻ dự kiến tiêm.
* Công tác phòng, chống dịch bệnh khác
Công tác phòng chống các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác tiếp tục được kiểm soát; không để dịch lớn xảy ra. Trong tháng có 04 bệnh có số mắc, tử vong tăng và 08 bệnh có số mắc giảm hoặc tương đương so với cùng kỳ[6]. Số liệu cộng dồn (tính từ ngày 01/01/2022 – 30/6/2022) so với cùng kỳ năm 2021 có 04 bệnh có số mắc tăng và 12 bệnh có số mắc giảm hoặc tương đương). Các ca bệnh phân bố rải rác, không có yếu tố dịch tễ gây dịch
7.2.2. Công tác khám chữa bệnh
Các đơn vị khám, chữa bệnh tổ chức trực 04 cấp, đảm bảo trực 24/24 giờ; đảm bảo cơ số thuốc, dịch truyền, vật tư, hoá chất, hậu cần, bố trí đủ cơ số giường bệnh, phương tiện cấp cứu và cấp cứu ngoại viện để sẵn sàng đáp ứng kịp thời các tình huống có thể xảy ra. Sẵn sàng đảm bảo các điều kiện để tiếp nhận và điều trị bệnh nhân Covid-19. Kết quả khám và chữa bệnh công lập cả 3 tuyến trong tháng 7: Khám được 114.865 lượt; điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã cho 12.195 lượt; điều trị ngoại trú cho 11.206 lượt. Cộng dồn 7 tháng: Khám được 725.245 lượt, đạt 50% kế hoạch năm; điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã cho 83.225 lượt, đạt 56% kế hoạch năm; điều trị ngoại trú cho 112.775 lượt, đạt 238% kế hoạch năm. Khám chữa bệnh ngoài công lập: Trong tháng khám được 26.404 lượt, trong đó số khám bảo hiểm y tế 20.511 lượt; chuyển viện 3.080 lượt; khám sức khỏe 1.754 lượt. Cộng dồn 7 tháng khám được 129.561 lượt, trong đó khám bảo hiểm y tế 90.017 lượt; Chuyển viện 5.623 lượt; khám sức khỏe 7.971 lượt .
7.3. Hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch[7]
Tiếp tục thực hiện tốt nghiệp vụ thư viện; bàn giao sách do các nhà xuất bản biếu tặng về cơ sở. Mở cửa Nhà trưng bày Bảo tàng và phòng triển lãm chuyên đề, phục vụ đón tiếp 126 lượt khách tham quan, học tập.
Chiếu phim và tuyên truyền đạt 135 buổi đến 30 lượt xã, 135 lượt thôn, lượt phục vụ trên 11.000 lượt người nghe, xem 810 lượt nội dung tuyên truyền. Thực hiện tốt công tác chiếu phim tại Rạp Đông Kinh với tổng số 09 phim, 56 xuất chiếu, doanh thu đạt 24 triệu đồng, 398 lượt người xem. Chiếu phim và tuyên truyền cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, các phim truyện như: Bản lĩnh chiến binh; Khi người ta yêu; Cô bé rơm vàng; Bà của Đỗ Đỏ… Phim phóng sự tài liệu: Đồng khởi tự cứu mình; Vững tin một lòng theo Đảng; Chí khí người cộng sản Việt Nam - Trọng trách niềm tin và khát vọng; Những hạt giống đỏ..; Phóng sự chuyên đề: Phòng chống hàng giả, hàng nhái; Phòng, chống ma túy; An toàn giao thông…
Tổ chức biểu diễn các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ chuyên môn đã xây dựng các chương trình Nghệ thuật phục vụ các sự kiện của tỉnh. Biên tập 03 bài Tuyên truyền: Tháng hành động vì trẻ em và Ngày gia đình Việt Nam (28/6); Triển khai công tác tuyên truyền trọng tâm tháng 6 năm 2022 và Kỷ niệm 75 năm ngày thương binh liệt sĩ, tuyên truyền phổ biến rộng rãi tại cơ sở. Trang trí, tuyên truyền, cổ động trực quan trên đường phố, treo băng zôn, khẩu hiểu, cờ phướn lắp đặt cụm pano, biểu tượng nghệ thuật phục vụ các nhiệm vụ chính trị của tỉnh; tuyên truyền bằng xe loa, lưu động trên các đường phố, khu vực đông dân cư, trung tâm…
Tổ chức thành công Giải Vô địch Bóng bàn tỉnh Lạng Sơn năm 2022; tổ chức Lễ khai mạc hè, ngày Olympic trẻ em và phát động toàn dân rèn luyện môn bơi phòng, chống đuối nước các huyện, thành phố năm 2022. thực hiện tốt công tác đào tạo, huấn luyện vận động viên tham gia các giải thể thao khu vực và toàn quốc. Phối hợp Tổng cục TDTT đăng cai giải Vô địch Wushu trẻ quốc gia năm 2022 tại Lạng Sơn. Đảm bảo công tác phòng, chống dịch bệnh cho các vận động viên trong các buổi tập luyện, sinh hoạt, và thời gian diễn ra Giải vô địch Wushu.
Tổng lượng khách tháng 7/2022 đạt 490.250 lượt khách. Trong đó: Khách quốc tế đạt 2.580 lượt khách, khách trong nước đạt 487.670 lượt khách, doanh thu ước đạt 254 tỷ đồng. Lũy kế 7 tháng năm 2022 đạt 2.756.430 lượt khách, tăng 387,2 % so với cùng kỳ, đạt 43,6% so với kế hoạch năm 2022. Trong đó: Khách quốc tế đạt 7.300 lượt khách, giảm 59,4% so với cùng kỳ; khách trong nước đạt 2.538.910 lượt khách, tăng 252,4% so với cùng kỳ. Doanh thu ước đạt 1.135 tỷ đồng, tăng 184,1% so với cùng kỳ.
7.4. Giáo dục
Triển khai, thực hiện đẩy đủ, kịp thời công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Giới thiệu tiếp xúc, xem xét, tạo điều kiện cho 03 học sinh có cha/mẹ mất vì Covid-19, có hoàn cảnh khó khăn. Tổ chức tốt kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022. Tổ chức thanh tra công tác thi Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022 tại một số điểm thi; Thanh tra công tác chấm thi Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2022- 2023. Hướng dẫn xét tuyển và phúc khảo kì thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2022–2023. Tập huấn phương pháp, kỹ năng dạy lớp có nhiều trình độ đáp ứng Chương trình giáo dục phổ thông 2018 cấp tiểu học, chuẩn bị cho năm học 2022 -2023. Chuẩn bị các công tác tổ chức Giải bơi học sinh phổ thông tỉnh Lạng Sơn năm 2022. Triển khai Chương trình “Tôi yêu Việt Nam” trong cấp học giáo dục mầm non tỉnh Lạng Sơn năm học 2022 -2023. Tăng cường các hoạt động phối hợp quản lý, giáo dục và đảm bảo an toàn cho học sinh, sinh viên trong dịp hè 2022.
7.5. Trật tự - An toàn giao thông[8]
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tổ chức thực hiện các đợt cao điểm trấn áp các loại tội phạm, phòng, chống tệ nạn xã hội; kiểm tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi sai phạm về pháo, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trái phép. Trong tháng xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 03 người, bị thương 01 người; lũy kế 7 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh đã sảy ra 19 vụ tai nạn giao thông, làm chết 18 người, bị thương 08 người.
7.6. Môi trường
Trong tháng 7, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn không có vụ vi phạm môi trường được phát hiện, giảm 01 vụ so với cùng kỳ tháng 7 năm 2021. Lũy kế từ đầu năm 2022 có 02 vụ vi phạm môi trường được phát hiện, tổng số tiền xử phạt 90 triệu đồng. Trong tháng 7 trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy cửa hàng kinh doanh tạp hóa tại xã Hòa Sơn, huyện Hữu Lũng. Nguyên nhân vụ hỏa hoạn bước đầu được xác định là do chập hệ thống điện. Vụ cháy không gây thiệt hại về người, tuy nhiên đã thiêu rụi toàn bộ hàng hóa, tủ lạnh và một số phương tiện để trong cửa hàng, thiệt hại khoảng 500 triệu đồng.
7.7. Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng 7, tỉnh Lạng Sơn sảy ra mưa dông gây thiệt hại tài sản Nhà nước, Nhân dân, cụ thể: 22 nhà bị tốc mái tại xã Điềm He, huyện Văn Quan; nhà văn hóa thôn Thống Nhất, xã Khánh Khê mái bị hư hỏng nặng, tường nứt; 01 người bị thương.
[1] Nguồn: Sở Tài chính
[2] Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Lạng Sơn
[3] Nguồn: Sở Công Thương
[4] Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
[5] Nguồn: Sở Y tế.
[6] Sốt xuất huyết: 01 ca (tăng 01 ca); Tay chân miệng 17 ca (tăng 17ca); Tiêu chảy 230 ca (tăng 50 ca); Viêm gan Virut khác 06 ca (tăng 01 ca); Uốn ván khác 0 ca (giảm 01 ca); Viêm não virut khác 0 ca (giảm 03 ca); Bệnh do vi rut Adeno 10 ca (giảm 26 ca); Cúm 466 ca (giảm 07 ca); Lỵ Amip 03 ca (tương đương cùng kỳ 2021); Lỵ trực trùng 0 ca (giảm 05 ca); Quai bị 05 ca (giảm 08 ca); Thủy đậu 26 ca (giảm 12 ca).
[7] Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
[8] Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh.
File đính kèm: SolieuT7tinhLangSon.pdf
Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn