Kim ngạch xuất khẩu trong tháng 8/2022 ước đạt 200 triệu USD, lũy kế 8 tháng ước đạt 1.675 triệu USD, đạt 30,5% kế hoạch, giảm 37,5% so với cùng kỳ.
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong tháng 8, thời tiết có nhiều nắng nóng nên thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp trên địa bàn: Chủ yếu là thu hoạch cây trồng vụ Xuân, thu hoạch đến đâu người dân làm đất đến đó để gieo trồng vụ Mùa cho kịp thời vụ. Dự kiến đến hết tháng 8, toàn tỉnh sẽ thu hoạch xong diện tích cây trồng vụ Xuân.
1.1. Nông nghiệp
1.1.1 Trồng trọt
- Cây lúa: Toàn tỉnh đã thu hoạch xong lúa Xuân, trong tháng ước thu hoạch được 6.369,46 ha, tăng 2,56% so với cùng kỳ; đến nay diện tích thu hoạch được hoảng 15.598,11 ha, tăng 3,59% so với cùng kỳ. Năng suất lúa thu hoạch đạt 51,62 tạ/ha, giảm 0,19% so với cùng kỳ, do ảnh hưởng của đợt mưa lớn kéo dài hồi đầu tháng 5 gây ngập úng khu vực ven sông, suối làm năng suất lúa giảm. Sản lượng lúa thu hoạch trong tháng ước đạt 32.918,27 tấn, tăng 2,72 % so với cùng kỳ. Tính đến trung tuần tháng 8, tranh thủ thời tiết thuận lợi người dân tích cực xuống đồng gieo cấy lúa Mùa năm 2022, diện tích gieo cấy lúa Mùa ước đạt 14.453,54 ha, tăng 0,61% so với cùng kỳ.
- Cây ngô: Diện tích thu hoạch trong tháng ước đạt 5.821,53 ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ; cộng dồn từ đầu năm ước 14.304,57 ha, tăng 0,42% so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng ước thực hiện trong tháng là 3.694,25 ha, tăng 0,45% so với cùng kỳ. Dự kiến người dân sẽ mở rộng diện tích trồng do nhu cầu sử dụng ngô làm thức ăn chăn nuôi tăng.
- Cây khoai lang: Diện tích thu hoạch trong tháng ước 174,25 ha, tăng 0,39% so với cùng kỳ. Năng suất thu hoạch ước 58,62 tạ/ha, tăng 0,21% so với cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch trong tháng ước 1.021,45 tấn, tăng 0,6% so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng ước thực hiện 247,38 ha, tăng 0,32% so với cùng kỳ.
- Cây lạc: Diện tích thu hoạch trong tháng ước 335,71 ha, giảm 0,16% so với cùng kỳ. Năng suất thu hoạch ước 19,26 tạ/ha, tương đương sản lượng thu hoạch trong tháng ước 646,58 tấn, giảm 0,21% so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng ước thực hiện được 955 ha, tăng 0,02% so với cùng kỳ.
1.1.2 Chăn nuôi
Đàn trâu tiếp tục giảm dần do nhu cầu sử dụng sức kéo bằng gia súc giảm và môi trường chăn thả bị thu hẹp, một số hộ bán trâu để lấy vốn đầu tư vào trồng rừng. Ước tính số trâu hiện có 63.250 con, giảm 5,95% so với cùng kỳ; số con xuất chuồng là 1.235 con, giảm 11,97% so với cùng kỳ; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 333,45 tấn, giảm 8,59% so với cùng kỳ.
Ước tính số đầu con bò hiện có 28.225 con, giảm 15,72% so với cùng kỳ; số con xuất chuồng là 470 con tương đương với sản lượng thịt hơi xuất chuồng 111,99 tấn, tăng 10,57% so với cùng kỳ năm trước, do thực hiện mô hình chăn nuôi bò năng suất cao. Tỉnh đã có nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ người dân về nguồn vốn, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi của các ngành, các cấp và chính quyền địa phương. Nhiều mô hình phát triển chăn nuôi bò thịt, kết hợp xử lý chất thải làm phân bón hữu cơ rất có hiệu quả.
Tổng đàn lợn, số con hiện có ước 173.542 con, tăng 56,98% so với cùng kỳ năm trước; Tình hình dịch bệnh tả lợn châu Phi trên địa bàn tỉnh cơ bản được khống chế, việc kiểm soát dịch bệnh ngày càng chủ động, các cơ sở chăn nuôi tiếp tục tăng đàn và tái đàn, nhiều mô hình chăn nuôi an toàn sinh học được duy trì và phát triển. Tập trung đẩy mạnh tái đàn ở các doanh nghiệp, hợp tác xã, các trang trại và hộ chăn nuôi có quy mô lớn, đủ điều kiện áp dụng chăn nuôi an toàn sinh học và kiểm soát tốt dịch bệnh, nhằm đảm bảo nguồn cung thịt lợn, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Sản lượng tiêu thụ trong tháng tăng so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn gia cầm phát triển ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Ước tổng đàn gia cầm hiện có 5.633,58 nghìn con, giảm 5,74% so với cùng kỳ. Do lượng cung thịt lợn cơ bản đã đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường nên nhu cầu tiêu thụ thịt gia cầm giảm. Ước tổng đàn gà đạt 4.152,29 nghìn con, giảm 2,22% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng là 1.540,68 tấn. Sản lượng trứng gia cầm là 5.165,29 nghìn quả, hiện nay người chăn nuôi sử dụng giống gà siêu trứng cho năng suất cao, giá trứng gà ta ở mức 40-50 nghìn đồng/10 quả, giá trứng gà công nghiệp ở mức 20-25 nghìn đồng/10 quả.
1.2. Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới tập trung trong tháng ước thực hiện 359 ha, tăng 0,13% so với cùng kỳ năm trước. Trồng rừng mang lại hiệu quả kinh tế cao, sản phẩm gỗ có thị trường tiêu thụ ổn định. Số cây trồng phân tán ước 30,8 nghìn cây tăng 0,33% so với cùng kỳ năm trước.
1.3. Thủy sản
Trong tháng diện tích nuôi trồng thủy sản tương đối ổn định, đối tượng nuôi trồng thủy sản phong phú, môi trường nuôi không bị ô nhiễm và không có dịch bệnh xảy ra. Trung tâm Khuyến nông tiếp tục thực hiện cung ứng cá giống đảm bảo chất lượng cho nông dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh, cung ứng được 102.300 con cá giống. Lũy kế từ đầu năm đến nay đã cung ứng được trên 660.000 con cá giống các loại (mè, trôi, trắm, chép,…).
2. Sản xuất công nghiệp
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2022
2.1.1. So với tháng trước
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8 giảm 15,63% so với tháng trước. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng giảm 32,36%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,13%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 41,06%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 1%.
Dự ước tháng 8, chỉ số sản xuất ngành khai thác than cứng và than non giảm 56,05% do nhu cầu từ Công ty Nhiệt điện Na Dương giảm; khai khoáng khác giảm 5,05%.
Trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo: Chế biến thực phẩm tăng 10,18%, tăng chủ yếu ở sản phẩm trà nguyên chất (tăng 100%, theo báo cáo của doanh nghiệp sản lượng chè thu hoạch của Nông trường Chè Thái Bình trong tháng 8 tăng, đáp ứng về nguyên liệu cho nhà máy hoạt động liên tục trong tháng); sản xuất da và các sản phẩm có liên quan dự ước tăng 8,84%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) tăng 15,51% (tăng chủ yếu ở các sản phẩm: gỗ lạng có độ dày không quá 6mm tăng 5,96%, ván ép từ gỗ và các vật liệu tương tự tăng 36,36%); xi măng Porland đen tăng 2,48%; sản phẩm bật lửa ga dùng 1 lần tăng 26,49%....
Ngành sản xuất và phân phối điện có chỉ số bằng 58,94%, trong đó sản lượng điện sản xuất giảm 48,52%, chủ yếu giảm từ hoạt động nhiệt điện do trong tháng 8, Công ty Nhiệt điện Na Dương điều tiết sản xuất, luân phiên sửa chữa, bảo dưỡng 2 lò nhiệt điện nên dự kiến chỉ đạt 50% công suất, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến giảm sản lượng than khai thác trong tháng 8 so với tháng trước; điện thương phẩm tăng 0,4% so với tháng trước.
Ngành xử lý và cung cấp nước, cung cấp đủ nhu cầu nước sinh hoạt của dân cư, so với tháng trước tăng 1%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải bằng 99,27% so với tháng trước, giảm 0,73%.
2.1.2. So với cùng kỳ
So với cùng kỳ, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2022 tăng 0,39%. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 16,91%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,9%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 15,41%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 1,82%.
Ngành công nghiệp khai khoáng: Hoạt động khai thác than tăng 4,5%; hoạt động khai thác đá tăng 24,81% do trong tháng 8/2022, trên địa bàn tỉnh triển khai nhiều dự án xây dựng cơ bản, cùng với việc tu sửa, nâng cấp và mở rộng một số công trình giao thông, nên nhu cầu sử dụng đá trong xây dựng tăng.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Chỉ số tăng khá so với cùng kỳ do một số sản phẩm chủ yếu của tỉnh có mức tăng cao như sản phẩm sản phẩm chè tăng 21,33%; sản phẩm in, sao chép bản ghi các loại tăng 35,14%; sản phẩm colophan tăng 12,5%; sản phẩm rượu trắng có nồng độ cồn 25o trở lên tăng 59,42%; sản phẩm ván ép từ gỗ và các vật liệu tương tự tăng 130,77%,... doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ, đơn hàng ký kết tiêu thụ ổn định. Đối với sản phẩm chủ lực của tỉnh (sản phẩm xi măng Portland đen) tăng 34% so với cùng kỳ năm trước, do doanh nghiệp ký kết được nhiều hợp đồng tiêu thụ sản phẩm phục vụ cho hoạt động xây dựng cơ bản.
Một số ngành sản xuất có chỉ số giảm như: ngành sản xuất trang phục giảm 4,46%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất giảm 33,46%; sản phẩm bóng thể thao giảm 16,67%;....nguyên nhân chủ yếu do đơn hàng giảm, lượng hàng tồn đầu tháng còn lớn, doanh nghiệp giảm sản lượng sản xuất.
Ngành sản xuất và phân phối điện: Ngành công nghiệp điện, sự tăng giảm sản lượng phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực. Sản lượng điện sản xuất tháng 8/2022 giảm 20,05%; điện thương phẩm tăng 2,64% so với cùng kỳ.
Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải ước tăng 1,82%, cụ thể: Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 0,56%; thoát nước và xử lý nước thải tăng 10,8%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 2,51%.
2.2. Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng năm 2022 so với cùng kỳ
Dự ước tháng 8 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 7,25%.
Trong ngành công nghiệp khai thác, sản phẩm than sạch của Công ty Than Na Dương tăng 5,42%, dự báo nhu cầu than tiêu thụ các tháng cuối năm tăng, vì vậy để đảm bảo đủ than cho sản xuất, doanh nghiệp cần tiếp tục chủ động, linh hoạt trong điều hành, tập trung sản xuất. Đá khai thác tăng 9,38%, riêng sản phẩm đá xây dựng, do thời tiết khô ráo thuận tiện cho hoạt động khai thác đá và từ đầu năm nhiều công trình dân dụng, đường giao thông được triển khai làm mới trên nhiều tuyến đường.
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,18%: Ngành chế biến thực phẩm tăng 56,61%, trong đó, sản phẩm rượu trắng có nồng độ cồn 25o trở lên tăng 87,19%, nguyên nhân là do cùng kỳ năm trước, trên địa bàn tỉnh phải thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid – 19, nhiều hoạt động dịch vụ không thiết yếu như nhà hàng, quán ăn phải đóng cửa; sang năm 2022 tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh đã được kiểm soát, các hoạt động sản xuất, kinh doanh diễn ra sôi động đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 239,63%; chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng 44,42%, chủ yếu nhờ cơ hội và triển vọng phát triển, mở rộng thị trường từ hiệu ứng của các Hiệp định thương mại tự do mang lại; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 40,64%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 14,66%; sản phẩm colophan tăng 22,42%. Một số ngành có chỉ số sản xuất giảm: sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 10,43%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 48,62%; sản xuất kim loại giảm 5,11% so với cùng kỳ.
Trong sản xuất và phân phối điện: Sản lượng điện sản xuất tăng 5,31%; điện thương phẩm giảm 3,6% so với cùng kỳ.
Ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Nước uống tăng 2,55%; dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế tăng 4,1%.
2.3. Chỉ số sử dụng lao động
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 8/2022 tăng 0,09% so với tháng trước và giảm 4% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành khai khoáng chỉ số sử dụng lao động giảm 0,84% so với cùng kỳ, cho thấy ngành công nghiệp khai khoáng việc ứng dụng khoa học công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại trong sản xuất ngày càng cao; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,56% do một số doanh nghiệp tăng năng suất lao động; ngành sản xuất, phân phối điện giảm 1,51%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,01% so với cùng kỳ.
Bình quân 8 tháng năm 2022, chỉ số sử dụng lao động giảm 4,42% so với cùng kỳ năm trước. Trong ngành công nghiệp, chia theo loại hình kinh doanh, doanh nghiệp Nhà nước tháng 8 giảm 22,31%, 8 tháng năm 2022 giảm 24,2% so với cùng kỳ; riêng chỉ số lao động của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tháng 8 và 8 tháng so với cùng kỳ năm trước tăng cao (tháng 8 tăng 24,51%, 8 tháng tăng 14,33%) chủ yếu do sự thay đổi lao động từ Công ty cổ phần Kim loại màu Bắc Bộ so với cùng kỳ.
3. Đầu tư, xây dựng
Các chủ đầu tư xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công các dự án theo từng tháng, quý, năm đảm bảo tiến độ giải ngân theo Quyết định số 143/QĐ-UBND ngày 18/01/2022 của UBND tỉnh. Một số chủ đầu tư đã chủ động lập hồ sơ dự án trình thẩm định, phê duyệt dự án; tổ chức lựa chọn nhà thầu, giám sát tiến độ thi công của nhà thầu xây dựng. Cơ quan được giao lập đề xuất dự án chủ động lập hồ sơ trình thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư. Các cơ quan quản lý tài chính, xây dựng, kế hoạch các cấp tổ chức kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện dự án, hướng dẫn đôn đốc giải ngân vốn, thực hiện quyết toán dự án theo quy định. Tiến độ thực hiện dự án cơ bản theo tiến độ được phê duyệt, một số dự án chậm do thực hiện thủ tục điều chỉnh bổ sung, giải phóng mặt bằng ,... Công tác giải ngân, thanh toán các nguồn vốn, tạm ứng theo hợp đồng được kiểm soát chặt chẽ, đúng chế độ, chính sách, đơn giá, định mức Nhà nước ban hành.
Dự ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 8/2022 thực hiện được 250,9 tỷ đồng, giảm 13,09% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 139,4 tỷ đồng, giảm 36,61%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 111,5 tỷ đồng, tăng 62,07% . Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh 8 tháng đầu năm 2022 ước thực hiện 1.553,6 tỷ đồng, giảm 14,99% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 939,7 tỷ đồng, giảm 18,88%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 613,9 tỷ đồng, giảm 8,26 %.
* Tiến độ thực hiện một số dự án trên địa bàn tỉnh:
- Dự án sửa chữa và nâng cao an toàn đập (WB8) có tổng mức đầu tư 196,8 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 8/2022 ước thực hiện được 124,5 tỷ đồng, đạt 63,26% so với kế hoạch.
- Dự án Đường đến trung tâm xã Tân Yên (huyện Tràng Định) có tổng mức đầu tư 432,1 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 8/2022 ước thực hiện được 374 tỷ đồng, đạt 86,55% so với kế hoạch.
- Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn km3+700 - km18): Công trình có tổng mức đầu tư 988,2 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 8/2022 ước thực hiện được 554,7 tỷ đồng, đạt 55,57% kế hoạch.
- Dự án Hạ tầng cơ bản phát triển các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn (4 hợp phần), công trình có tổng mức đầu tư 1.377,6 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 8/2022 ước thực hiện được 504,4 tỷ đồng, đạt 36,61% kế hoạch.
4. Tài chính, ngân hàng
4.1. Tài chính[1]
- Về thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện tháng 8 năm 2022 là 485,6 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa là 155,6 tỷ đồng, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 330 tỷ đồng. Lũy kế ước thực hiện 8 tháng năm 2022 là 4.802 tỷ đồng, đạt 62% so với dự toán Trung ương giao, đạt 61,2% so với dự toán tỉnh giao, bằng 65,8% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Thu nội địa là 1.901,7 tỷ đồng, đạt 84,5% so với dự toán Trung ương giao, đạt 80,9% dự toán tỉnh giao, bằng 93,1% so với cùng kỳ năm 2021; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 2.898,5 tỷ đồng, đạt 52,7% so với dự toán giao, bằng 55,2% so với cùng kỳ năm 2021; Các khoản huy động, đóng góp là 1,8 tỷ đồng.
- Về chi ngân sách địa phương
Chi ngân sách địa phương được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo đúng theo tiêu chuẩn, định mức. Đối với chi đầu tư phát triển và các chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ khác: công tác giải ngân, thanh toán các nguồn vốn, tạm ứng theo hợp đồng được khẩn trương, kiểm soát chặt chẽ, đúng chế độ, chính sách, đơn giá, định mức theo quy định hiện hành. Tình hình giải ngân vốn đầu tư thấp hơn so với cùng kỳ do nguồn thu sử dụng đất phụ thuộc vào tiến độ thực hiện thu thực tế; giá cả một số hàng hóa, nguyên vật liệu trên thị trường biến động mạnh, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện hợp đồng xây lắp..
Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện tháng 8 năm 2022 là 1.233 tỷ đồng, lũy kế tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 8 tháng đầu năm 2022 là 6.047,7 tỷ đồng, đạt 49,8% dự toán giao đầu năm, bằng 105% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Chi trong cân đối ngân sách địa phương là 5.444,7, tỷ đồng, đạt 56,3% dự toán giao đầu năm và đạt 104,9% so cùng kỳ năm 2021, Chi các chương trình mục tiêu quốc gia và một số chương trình, dự án, nhiệm vụ khác là 603 tỷ đồng đạt 24,3% dự toán, bằng 105,9% so với cùng kỳ năm 2021.
4.2. Ngân hàng[2]
Chính sách điều hành tín dụng trên địa bàn được thực hiện theo hướng mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với chuyển dịch nền kinh tế. Khả năng thanh khoản của các ngân hàng được đảm bảo, đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho nền kinh tế và chi trả cho khách hàng, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Ước thực hiện đến 31/8/2022: Tổng huy động vốn ước đạt 34.715 tỷ đồng, tăng 3,9% so với 31/12/2021. Dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn ước đạt 38.587 tỷ đồng, tăng 2,8% so với 31/12/2021.
5. Thương mại và dịch vụ
5.1. Xuất nhập khẩu hàng hóa
Triển khai thực hiện thí điểm hình thức giao nhận gắp, cẩu container đối với mặt hàng linh kiện điện tử tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị từ ngày 03/8 đến hết 03/9/2022. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh COVID-19 tại các địa phương biên giới Trung Quốc đang diễn ra khá phức tạp, phía Bạn đã tăng mức độ phòng chống dịch và kiểm soát nghiêm ngặt đội lái xe chuyên trách, do vậy lượng xe xuất nhập khẩu và kim ngạch giảm, trung bình đạt khoảng 500 xe XNK/ngày (giảm 21%), trong đó xuất khoảng 190 xe/ngày (giảm 23%), nhập 310 xe/ngày (giảm 20,1%)
Kim ngạch xuất khẩu trong tháng 8/2022 ước đạt 200 triệu USD, lũy kế 8 tháng ước đạt 1.675 triệu USD, đạt 30,5% kế hoạch, giảm 37,5% so với cùng kỳ. Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu trong tháng ước đạt 70 triệu USD, lũy kế 8 tháng ước đạt 600 triệu USD, đạt 28% kế hoạch, giảm 31,8% so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu trong tháng ước đạt 130 triệu USD, lũy kế 8 tháng ước đạt 1.075 triệu USD, đạt 32% kế hoạch, giảm 40,3% so với cùng kỳ. Kim ngạch hàng xuất khẩu hàng địa phương trong tháng ước đạt 13 triệu USD, lũy kế 8 tháng đạt 84 triệu USD, đạt 59,2% kế hoạch, tăng 5% so với cùng kỳ.
5.2. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động thương mại và cung ứng hàng hóa diễn ra trên thị trường ổn định, các mặt hàng thiết yếu đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Giá các mặt hàng sắt, thép, vật liệu xây dựng vẫn đang ở mức cao, do giá nguyên liệu đầu vào trên thế giới tăng đã ảnh hưởng đến giá sắt, thép trong nước tăng theo, doanh thu các hoạt động thương mại trong tháng 8/2022 dự ước tăng hơn so với tháng trước và cùng kỳ, cụ thể:
Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 8/2022 ước tính đạt 1.784,8 tỷ đồng, tăng 0,84% so với tháng trước và tăng 19,22% so với cùng kỳ năm trước. Xét doanh thu theo nhóm ngành hàng hoá thì có 8/12 nhóm ngành hàng hoá có tốc độ tăng so với tháng trước, lần lượt: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 1,14%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 2,38%; nhóm vật phẩm văn hóa giá dục tăng 2,66%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 1,98%; nhóm ô tô con tăng 0,28%; phương tiện đi lại tăng 1,52%; nhóm hàng hoá khác tăng 1,38%; doanh thu sửa chữa ô tô, mô tô xe máy tăng 0,72%. 04 nhóm hàng hóa khác còn lại giảm nhẹ ở mức ổn định không có hiện tượng biến động về giá cũng như khan hiếm mặt hàng, cụ thể: Hàng may mặc giảm 1,9%; xăng, dầu các loại giảm 0,34%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) giảm 5,09%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 4,31% so với tháng trước. Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hoá 8 tháng năm 2022 đạt 14.249 tỷ đồng, tăng 12,51% so với cùng kỳ năm trước.
5.3. Dịch vụ
5.3.1. Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
Hoạt động du lịch nước ngoài có mức tăng khá so với cùng kỳ do dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát tốt, các tour du lịch trong nước liên tục có những ưu đãi, khuyến mãi với các gói du lịch để kích cầu khách du lịch. Doanh hu dịch vụ lữ hành tháng 8/2022 ước đạt 1,3 tỉ đồng, so với tháng trước tăng 0,12%; so với cùng kỳ tăng 92,79%. Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 8/2022 dự ước doanh thu đạt 180 tỷ đồng, tăng 0,46% so với tháng trước và tăng 44,55% so với cùng kỳ năm trước: Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 10,4 tỷ đồng, giảm 0,18% so với tháng trước và tăng 42,27% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 169,6 tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 44,69% so với cùng kỳ năm trước.
Dự ước 8 tháng năm 2022, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 1.404,2 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 31,33%, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã và đang được đầu tư phát triển mạnh các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Doanh thu dịch vụ lữ hành do các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thực hiện, ước đạt 8,7 tỷ đồng, tăng 39,69% so với cùng kỳ năm trước.
5.3.2. Doanh thu dịch vụ khác
Các hoạt động dịch vụ kinh doanh bất động sản, dịch vụ hành chính và hỗ trợ trong tháng 8/2022 tăng hơn so với tháng trước là do đang vào mùa cao điểm thi công các dự án, công trình xây dựng trọng điểm do đó nhu cầu sử dụng các dịch vụ hỗ trợ hành chính, dịch vụ thuê máy móc công trình có xu hướng tăng tác động đến doanh thu hoạt động dịch vụ tăng hơn so với tháng trước. Ngoài ra, dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội cũng tăng so với tháng trước do ảnh hưởng của thời tiết thay đổi, mưa nhiều hơn so với tháng trước phát sinh nhiều bệnh cho người già và trẻ em, do vậy nhu cầu về các dịch vụ y tế tăng.
Lũy kế 8 tháng năm 2022, doanh thu dịch vụ khác ước đạt 342,5 tỷ đồng, tăng 12,28% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng đang được chú trọng đầu tư và phát triển, thu hút khách du lịch đến thăm quan và du lịch, nghỉ dưỡng; các cơ sở hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống cũng được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ đáp ứng được nhu cầu của người dân.
5.4. Vận tải
Tổng doanh thu toàn ngành vận tải tháng 8/2022 ước đạt 148,9 tỷ đồng, tăng 22,81% so với cùng kỳ (do cùng kỳ năm trước chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh phải thực hiện các biện pháp cách ly xã hội, nên các hoạt động vận tải gặp rất nhiều khó khăn).
- Doanh thu vận tải hành khách đạt 17,7 tỷ đồng, tăng 66,84%. Khối lượng hành khách vận chuyển tăng 20,46%; hành khách luân chuyển tăng 53 % so với cùng kỳ.
- Doanh thu vận tải hàng hóa đạt 85,6 tỷ đồng, tăng 29,55%. Khối lượng hàng hoá vận chuyển tăng 33,89%; hàng hoá luân chuyển tăng 69,27% so với cùng kỳ.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 45,7 tỷ đồng, tăng 2,41%; hoạt động bưu chính, chuyển phát đạt 0,2 tỷ đồng, giảm 8% so với cùng kỳ năm 2021.
Tổng doanh thu cộng dồn 8 tháng ước đạt 1.183,6 tỷ đồng, tăng 13,38% so với cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu vận tải hành khách đạt 148,1 tỷ đồng tăng 26,68%, doanh thu vận tải hàng hoá đạt 706 tỷ đồng, tăng 13,67%, doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 329,4 tỷ đồng tăng 7,71%; dịch vụ chuyển phát đạt 2,3 tỷ đồng tăng 3,43% so với cùng kỳ
Nguyên nhân doanh thu ngành vận tải tăng so với cùng kỳ năm 2021: tăng đều ở cả vận tải hành khách và vận tải hàng hoá, do tình hình dịch Covid-19 trong nước được kiểm soát tốt, nhu cầu đi lại của người dân tăng, đặc biệt các tháng hè (tháng 6, 7, 8), nhu cầu tham quan, du lịch tăng cao, nên lưu lượng khách tăng. Vận tải hàng hoá cũng tăng hơn, khối lượng vận chuyển hàng hóa ước tăng cao hơn so với năm 2021, do hiện nay các hoạt động sản xuất kinh doanh đã trở lại bình thường; bên canh đó, trong tháng 7, tháng 8 bước vào vụ thu hoạch nông sản các loại cây ăn quả, do vậy khối lượng hàng hoá tăng cao hơn so với cùng kỳ.
6. Chỉ số giá
6.1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung toàn tỉnh tháng 8/2022 tăng 1,26% so với tháng trước, tăng 3,15% so với cùng kỳ năm trước:
Trong 11 nhóm mặt hàng chính, có 8 nhóm hàng tăng, 2 nhóm hàng giảm và 01 nhóm hàng không thay đổi so với tháng trước. Chỉ số giá của một số nhóm ngành chủ yếu:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,91%:
+ Chủ yếu tăng ở mặt hàng thực phẩm, so với tháng trước tăng 4,87 %. Trong đó, giá thịt gia súc tăng 10,12%, riêng giá thịt lợn tăng 11,55% là do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao đã đẩy giá bán thịt lợn lên theo; mặt khác thời gian qua giá xăng, dầu có điều chỉnh giảm nhưng giá sản phẩm hàng hóa, dịch vụ hầu như vẫn giữ nguyên chưa có chiều hướng giảm, đây là nguyên nhân chính khiến giá các loại thịt bán lẻ đến tay người tiêu dùng vẫn cao. Giá thịt lợn tăng cao kéo theo: giá dầu mỡ ăn tăng 13,07%; giá thịt gia cầm tăng 3,98%, giá trứng các loại tăng 4,12%; giá rau tươi, khô và chế biến tăng 2,11%. Nguyên nhân tăng do nguồn hàng cung ứng ít, nhu cầu dịch vụ ăn uống và tiêu dùng của người dân trong tháng tăng cao, các mặt hàng thực phẩm cung cấp cho các nhà hàng, quán ăn tăng.
+ Nhóm lương thực tăng 1,39%: Chỉ số giá nhóm lương thực tăng chủ yếu ở mặt hàng gạo và các loại lương thực chế biến như bún phở, bánh đa… do giá nguyên liệu đầu vào tăng nhẹ.
+ Ăn uống ngoài gia đình tăng 1,81%
- May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 1,39%: Tăng do như cầu mua sắm cho học sinh chuẩn bị vào năm học mới.
- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,58%: Chỉ số giá của một số mặt hàng trong nhóm có sự biến động tăng, giảm như sau: Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 4,69%, giá dịch vụ sửa chữa nhà cửa tăng 5,09% do giá một số VLXD tăng ở chi phí vận chuyển. Giá gas và các loại chất đốt khác giảm.
- Nhóm thiết bị đồ dùng gia đình tăng 0,46%: Chủ yếu ở giá các sản phẩm như: máy điều hoà tăng 3,37%, máy giặt tăng 4,25%.
- Nhóm giao thông giảm 5,62%:
+ Chỉ số giá nhóm nhiên liệu giảm 14,34% so với tháng trước: Do trong tháng có 3 lần điều chỉnh giảm giá xăng, dầu vào các ngày 01/8, 11/8 và 22/8.
Ngày 01/8: Sau khi thực hiện việc trích lập, không chi sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, giá bán các mặt hàng xăng, dầu tiêu dùng phổ biến trên thị trường: Xăng E5RON92: không quá 25.073 đồng/lít (giảm 444 đồng/lít); Xăng RON95-III: không quá 26.070 đồng/lít (giảm 462 đồng/lít); Dầu điezen 0.05S: không quá 24.858 đồng/lít (giảm 950 đồng/lít); Dầu hỏa: không quá 25.246 đồng/ lít (giảm 713 đồng/lít); Dầu mazut 180CST 3.5S: không quá 16.548 đồng/kg (giữ nguyên so với giá bán lẻ hiện hành).
Ngày 11/8: Xăng E5RON92: Không cao hơn 24.629 đồng/lít; Xăng RON95-III: Không cao hơn 26.608/lít; Dầu diesel 0.05S: Không cao hơn 23.908 đồng/lít; Dầu hỏa: Không cao hơn 24.533 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: Không cao hơn 16.548 đồng/kg.
Ngày 22/8 giá bán các mặt hàng xăng, dầu tiêu dùng phổ biến trên thị trường từ 15h ngày 22/8/2022: Xăng E5RON92: Không cao hơn 23.725 đồng/lít (giữ nguyên so với giá bán lẻ hiện hành); Xăng RON95-III: Không cao hơn 24.669 đồng/lít (giữ nguyên so với giá bán lẻ hiện hành); Dầu diesel 0.05S: Không cao hơn 23.759 đồng/lít (tăng 851 đồng/lít); Dầu hỏa: Không cao hơn 24.056 đồng/lít (tăng 736 đồng/lít); Dầu mazut 180CST 3.5S: Không cao hơn 16.548 đồng/kg (giữ nguyên so với giá bán lẻ hiện hành).
* Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 năm 2022 so với cùng kỳ năm trước
CPI chung toàn tỉnh tháng 8/2022 tăng 3,15% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của một số nhóm hàng sau: (1) Nhóm Lương thực tăng 4,34%; (2) Ăn uống ngoài gia đình tăng 4,17%; (3) Đồ uống và thuốc lá tăng 0,81%; (4) May mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,93%; (5) Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,12%; (6) Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,53%; (7) Giao thông tăng 6,84%; (8) Giáo dục tăng 1,21%; (9) Văn hóa giải trí và du lịch tăng 9,55%; (10) Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,62%.
Nhóm hàng có chỉ số giá giảm, gồm: (1) Thuốc và dịch vụ y tế giảm 0.01%, (2) Bưu chính, viễn thông giảm 0,17%.
6.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
- Chỉ số giá vàng: Trong tháng 8/2022, giá vàng thế giới biến động mạnh hơn các tháng trước, thị trường vàng trong nước giao dịch điều chỉnh giá giảm, giảm theo giá thị trường thế giới. Giá vàng trong nước so với tháng trước giảm 0,9%, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,01%, so với năm gốc năm 2019 tăng 37,11%. Bình quân 8 tháng năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 3,27% so với bình quân cùng kỳ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ: So với tháng trước tăng 0,34%, so với cùng kỳ năm trước tăng 0,55%, so với năm gốc năm 2019 tăng 1,29%. Bình quân 8 tháng năm 2022 giá chỉ số giá đô la Mỹ giảm 1,62% so với bình quân cùng kỳ.
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giải quyết việc làm và Bảo hiểm xã hội[3]
Tư vấn về việc làm, học nghề, chính sách pháp luật lao động cho 2.510 lượt người lũy kế từ đầu năm 18.745 lượt người; số người đăng ký tìm việc làm: 27 người; số người được giới thiệu việc làm: 26 người, số người nhận được việc làm là 24 người, lũy kế từ đầu năm 859 người. Số người nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp 449 người, lũy kế từ đầu năm là 3.874 người; Số người có quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng là 339 người, lũy kế từ đầu năm là 3.250 người với tổng số tiền chi trả trợ cấp là 4.751 triệu đồng, lũy kế từ đầu năm là 43.708 triệu đồng.
Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 3.793 người có công và thân nhân với kinh phí 6.692 triệu đồng, lũy kế chi trả trợ cấp cho 30.400 lượt người có công, kinh phí: 56.647,4 triệu đồng. Tiếp nhận, giải quyết hồ sơ người có công
với cách mạng và thân nhân; người hoạt động kháng chiến là 100 hồ sơ. Lũy kế tiếp nhận và giải quyết là 1.006 hồ sơ.
7.2. Hoạt động y tế và sức khỏe cộng đồng[4]
Tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch COVID-19, đẩy mạnh tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 cho các đối tượng theo tiến độ, đặc biệt là các đối tượng tiêm mũi 3, mũi 4. Đảm bảo y tế “vùng xanh” phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa khu vực các cửa khẩu theo Phương án số 25/PA-UBND ngày 24/5/2022 của UBND tỉnh.
Chỉ đạo tăng cường giám sát dịch bệnh, đặc biệt các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, dịch bệnh theo mùa như sốt xuất huyết, tay chân miệng, đậu mùa khỉ,... đẩy mạnh thực hiện các hoạt động duy trì hiệu quả Chương trình mục tiêu y tế - dân số.
Tiếp tục nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và thái độ chăm sóc phục vụ bệnh nhân; giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy chế chuyên môn; đảm bảo chế độ thường trực cấp cứu 24/24 giờ. Thực hiện Đề án “Khám chữa bệnh từ xa” tại 14/14 bệnh viện theo kế hoạch.
7.2.1. Công tác y tế dự phòng
* Công tác phòng chống dịch Covid-19 tính đến 15h00 ngày 23/8/2022
Đánh giá cấp độ dịch của tỉnh Lạng Sơn theo Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ và Quyết định số 218/QĐ-BYT ngày 27/01/2022 của Bộ Y tế (đánh giá ngày 09/5/2022 đến nay): toàn tỉnh có
200/200 xã, phường, thị trấn: Cấp 1 “Vùng xanh” chiếm 100%.
Lũy kế từ ngày 06/5/2021 đến nay: 157.095 F0 (trong đó 171 ca mắc lần 02 được báo cáo); đã khỏi bệnh 156.706 ca; tử vong 98 ca. Hiện còn điều trị 291 F0 (286 ca điều trị tại tỉnh, 05 ca điều trị ngoại tỉnh), trong đó: 111 người bệnh điều trị tại các cơ sở y tế, 175 người bệnh đang điều trị tại nhà/10 huyện, thành phố.
Tình hình tiêm chủng: Lũy kế tổng số liều vắc xin đã tiếp nhận 1.993.536 liều; đã tiêm: 1.954.460 liều. Từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 102,15%; tỷ lệ tiêm 2 mũi đạt 100,57%; tỷ lệ tiêm mũi nhắc lại (mũi 3) đạt 90,20%; tỷ lệ tiêm mũi nhắc lại lần 2 (mũi 4) đạt 92,64%/tổng số 161.077 người dự kiến tiêm. Trẻ em từ 12-17 tuổi: Tỷ lệ mũi 1 đạt 100,82%; tỷ lệ mũi 2 đạt 97,9%; Tỷ lệ tiêm liều nhắc lại (mũi 3) đạt 59,40%. Trẻ từ đủ 5 tuổi đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ mũi 1 đạt 91,31%; tỷ lệ mũi 2 đạt 56,14%.
* Công tác phòng, chống dịch bệnh khác
Công tác phòng chống các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác tiếp tục được kiểm soát, không để dịch lớn xảy ra. Trong tháng có 08 bệnh có số mắc, tử vong tăng[5] và 05 bệnh có số mắc giảm[6] hoặc tương đương so với cùng kỳ. Số liệu cộng dồn (tính từ ngày 01/01/2022 – 31/7/2022) so với cùng kỳ năm 2021 có 04 bệnh có số mắc tăng[7] và 13 bệnh có số mắc giảm[8] hoặc tương đương). Các ca bệnh phân bố rải rác, không có yếu tố dịch tễ gây dịch.
7.2.2. Công tác khám chữa bệnh
Công tác đảm bảo ATVSTP được duy trì thực hiện tốt. Trong tháng tổ chức tập huấn kiến thức về ATTP cho các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm và tập huấn tuyên truyền kiến thức về vệ sinh ATTP cho hội viên chi hội phụ nữ thôn, bản, tổ dân phố... Tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật An toàn thực phẩm và các biện pháp phòng ngừa ngộ độc thực phẩm[9].
7.3. Hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch[10]
Thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn tốt công tác tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện quan trọng đất nước và của tỉnh; hướng dẫn và tổ chức thực hiện tốt công tác tuyên truyền tháng.
Chiếu phim và tuyên truyền đạt 136 buổi đến 24 lượt xã, 136 lượt thôn, lượt phục vụ trên 11.000 lượt người nghe, xem 816 lượt nội dung tuyên truyền. Thực hiện tốt công tác chiếu phim tại Rạp Đông Kinh với tổng số 08 phim, 41 xuất chiếu, doanh thu đạt 24,6 triệu đồng, 438 lượt người xem.
Chỉ đạo, đôn đốc Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT tỉnh về công tác đào tạo, huấn luyện vận động viên tham gia các giải thể thao khu vực và toàn quốc.
Tổng lượng khách tháng 8/2022 đạt 160.050 lượt khách Trong đó: Khách quốc tế đạt 5.250 lượt khách, khách trong nước đạt 145.800 lượt khách; Doanh thu ước đạt 145,5 tỷ đồng, lũy kế 8 tháng năm 2022 đạt 2.916.480 lượt khách, tăng 266,6 % so với cùng kỳ, đạt 84,3% so với kế hoạch năm 2022.
Thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn Trung tâm Thông tin xúc tiến Du Lịch tỉnh, phòng VHTT các huyện, TP chủ động phối hợp thực hiện các nội dung nhiệm vụ trọng tâm, kế hoạch chương trình đã được phê duyệt từ đầu năm. Tăng cường tuyên truyền quảng bá du lịch trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước, qua các nền tảng mạng xã hội như facebook, zalo…; công bố các sản phẩm du lịch mới; khảo sát điểm đến; tổ chức, thực hiện và thàm gia các chương trình sự kiện, hội chợ, hội thảo, triển lãm[11]…
7.4. Giáo dục
Triển khai, thực hiện đẩy đủ, kịp thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Sở GDĐT và của các cấp, các ngành về công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Tăng cường truyền thông về tiêm vắc xin phòng Covid-19; phòng, chống sốt xuất huyết, các dịch bệnh truyền nhiễm khác. Triển khai kế hoạch giai đoạn II của Chương trình “01 triệu sáng kiến - nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch Covid-19”. Tặng danh hiệu thi đua đối với các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu trong thực hiện phong trào thi đua "Đổi mới, sáng tạo trong quản lý, giảng dạy và học tập" năm học 2021-2022; tặng danh hiệu thi đua cho các tập thể, cá nhân thuộc Sở GDĐT năm học 2021-2022. Đánh giá, chấm điểm thi đua Sở GDĐT trên CSDL ngành. Thanh tra phúc khảo bài thi Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022.
7.5. Trật tự - An toàn giao thông[12]
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tổ chức thực hiện các đợt cao điểm trấn áp các loại tội phạm, phòng, chống tệ nạn xã hội; kiểm tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi sai phạm về pháo, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trái phép. Triển khai đồng bộ, quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, vi phạm pháp luật trên lĩnh vực hình sự, ma túy, kinh tế, môi trường. Trong tháng xảy ra 03 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 03 người, bị thương 01 người; lũy kế 8 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh đã sảy ra 22 vụ tai nạn giao thông, làm chết 21 người, bị thương 09 người.
7.6. Môi trường
Trong tháng 8, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn không có vụ vi phạm môi trường được phát hiện, vì vậy không có vụ vi phạm cần phải xử lý và tiến hành xử phạt; so với tháng 8 năm 2021 cũng không có vụ vi phạm môi trường được phát hiện. Lũy kế từ đầu năm 2022 có 02 vụ vi phạm môi trường được phát hiện, tổng số tiền xử phạt 90 triệu đồng. Trong tháng 8 trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy, nổ. Luỹ kế 8 tháng đầu năm 2022 có 06 vụ cháy, nổ; 01 người chết; 03 người bị thương; giá trị tài sản thiệt hại ước tính 1.550 triệu đồng.
7.7. Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng, trên khu vực tỉnh Lạng Sơn có mưa dông, nắng nóng trên diện rộng, tuy nhiên không xẩy ra ngập, úng, cháy rừng, hỏa hoạn, thiệt hại đến tài sản của Nhân dân. So với tháng 8 năm 2021 giảm 350 triệu đồng thiệt hại do thiện tai gây ra (tháng 8/2021 có sảy ra lốc, sét làm chết 14 con gia súc, thiệt hại 350 triệu đồng).
[1] Nguồn: Sở Tài chính
[2] Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Lạng Sơn
[3] Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội
[4] Nguồn: Sở Y tế
[5] Sốt xuất huyết 04 ca (tăng 04 ca); Bệnh do vi rut Adeno 20 ca (tăng 18 ca); Cúm 1.067 (tăng 754 ca); Lỵ trực trùng 11 ca (tăng 11 ca); Quai bị 06 ca (tăng 06 ca); Thủy đậu 12 ca (tăng 04 ca); Tiêu chảy 203 ca (tăng 64 ca); Viêm gan Virut khác 10 ca (tăng 09 ca).
[6] Tay chân miệng 01 ca (tương đương cùng kỳ 2021); Viêm gan Virut B 0 ca (giảm 01 ca); Viêm não virut khác 01ca (giảm 01ca); Xoắn khuẩn vàng da 0 ca (giảm 01 ca); Lỵ Amip 03ca (giảm 03 ca).
[7] Sốt xuất huyết 06 ca (tăng 06 ca); Tay chân miệng 30 ca (tăng 22 ca); Sốt rét 01 ca (tăng 01 ca); Viêm gan Virut khác 47 ca (tăng 37 ca).
[8] Sởi 0 ca (giảm 01ca); Uốn ván khác 0 ca (giảm 01 ca); Viêm gan Virut B 0 ca (giảm 06 ca); Viêm gan virut C 0 ca (giảm 01 ca); Viêm não virut khác 01 ca (giảm 04 ca); Xoắn khuẩn vàng da Leptospira 0 ca (giảm 01); Bệnh do virut Adeno 63 ca (giảm 84 ca); Cúm 3.775 ca (giảm 231 ca); Lỵ Amip 18 ca (giảm 08 ca); Lỵ trực trùng 20 ca (giảm 02 ca); Quai bị 13 ca (giảm 89 ca); Thủy đậu 101 ca (giảm 219 ca); Tiêu chảy 1.254 ca (giảm 469 ca).
[9] Cộng dồn 8 tháng: Tổ chức tập huấn kiến thức về an toàn thực phẩm cho các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm được 08 đợt, với tổng số 88 người. Tổ chức 10 lớp tập huấn tuyên truyền kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm cho hội viên chi hội phụ nữ thôn, bản, tổ dân phố, ... với tổng số 500 người tham gia. Viết 12 tin bài tuyên truyền về an toàn thực phẩm gửi bản tin Y tế và đăng trên trang website của Chi cục.
[10] Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
[11] Hội chợ VITM Hà Nội 2022; trưng bày không gian giới thiệu văn hóa du lịch và sản vật địa phương tại Hà Nội trong khuôn khổ chương trình du lịch qua những miền di sản Việt Bắc năm 2022; Lễ hội Bánh dân gian Nam Bộ lần thứ IX tại thành phố Cần Thơ năm 2022; Ngày hội du lịch thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 18 năm 2022 từ ngày 14-17/5/2022; Chương trình Mùa du lịch Thái Nguyên 2022; Liên hoan ẩm thực Hạ Long - Quảng Ninh năm 2022...) Tham gia đoàn học tập kinh nghiệm mô hình du lịch cộng đồng tại Sơn La, chuẩn bị các điều kiện tham gia Lễ khai mạc Chương trình du lịch “Qua những miền Di sản Việt Bắc” năm 2022 tổ chức tại Hà Giang; tham gia các hoạt động tại Lễ hội Kỳ Hòa, Lạng Sơn 2022.
[12] Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh.
File đính kèm: SolieuT8tinhLangSon.pdf
Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn