1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong những tháng đầu năm 2023 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi. Sản xuất nông nghiệp với nhiệm vụ trọng tâm là tập trung gieo trồng và chăm sóc cây trồng vụ đông xuân, đảm bảo tiến độ gieo trồng các loại cây hàng năm khác. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tạo chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Công tác phòng chống dịch bệnh ở đàn gia súc, gia cầm được giám sát chặt chẽ. Sản xuất lâm nghiệp duy trì ổn định; công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng tiếp tục được quan tâm.
1.1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
Ước đến thời điểm 15/4/2023, tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ đông xuân trên địa bàn tỉnh ước đạt 9.994 ha, tăng 1,89% (+ 186 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể DTGT một số loại cây trồng so với cùng kỳ năm trước như sau:
- Cây lúa DTGT: 7.291 ha, tăng 0,18% (+ 13,4 ha).
- Cây ngô DTGT: 732 ha, tăng 0,97% (+7,8 ha).
- Cây lạc DTGT: 28 ha, giảm 6,67% (-2,1 ha). Giảm diện tích không trồng trên đất tái canh cà phê.
- Khoai lang DTGT: 38 ha, tăng 1,06% (+0,4 ha).
- Rau các loại DTGT: 1.350 ha, tăng 7,31% (+ 91,9 ha).
- Đậu các loại DTGT: 98 ha, tăng 7,69% (+7,3 ha).
Diện tích rau, đậu các loại tăng là do nhu cầu thị trường tăng nên người dân tăng diện tích gieo trồng.
Tháng 4, thời tiết khô hanh, ít mưa, nắng nóng tăng đã làm cho lượng nước ở các sông, suối, ao, hồ giảm. Các công trình hồ, đập thủy lợi cung cấp nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mức nước cũng giảm dần. Vì vậy, các sở ngành đã kịp thời hướng dẫn các địa phương chú trọng đảm bảo nguồn nước tưới tiêu để không ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng, đặc biệt cây lúa. Bên cạnh đó, thời tiết nắng nóng cũng gây ra một số loài sâu bệnh hại phát triển nhanh chóng, như: bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá, rầy nâu,... nhờ sự chỉ đạo kịp thời của ngành Nông nghiệp mà các ổ bệnh được xử lý nhanh chóng.
Cây lâu năm: Tổng diện tích hiện có trên địa bàn tỉnh có đến ngày 15/4/2023 là 122.524 ha, tăng 5,55% so với cùng kỳ năm trước. Trên địa bàn tỉnh Kon Tum, cây trồng chủ lực, trọng điểm là cây cao su, cây cà phê, ... Diện tích cây ăn quả trên địa bàn không nhiều, chiếm tỷ trọng thấp trong nhóm cây lâu năm. Khí hậu, thổ nhưỡng ở đây không phù hợp để phát triển các loại cây ăn quả với quy mô lớn. Vì vậy, diện tích được trồng với quy mô nhỏ và rải rác ở các khu vườn hộ dân, sản lượng thu hoạch chủ yếu dùng để phục vụ nhu cầu cuộc sống hàng ngày. Cụ thể một số cây trồng chủ yếu như sau:
Cây cao su diện tích ước tính 77.541 ha, tăng 0,91% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích cao su tăng do người dân trồng tái canh trên một số diện tích thanh lý của những năm trước.
Cây cà phê diện tích ước tính 29.127 ha, tăng 0,49% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích cà phê tăng do giá cà phê những năm gần đây tương đối ổn định nên người dân quan tâm đầu tư mở rộng.
Cây ăn quả diện tích khoảng 9.595 ha, tăng 52,59% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: cây Mắc ca khoảng 2.314 ha; Sâm Ngọc linh có khoảng 1.784 ha; Cây dược liệu khác khoảng 1.781 ha.
b) Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh ước tính đến thời điểm 30/4/2023 so với cùng kỳ năm trước như sau:
- Tổng đàn trâu 23.953 con, giảm 0,1% (-234 con). Số con xuất chuồng là 950 con, tăng 2,3% (+21 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 252 tấn, tăng 2,4% (+6 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng đàn bò 84.920 con, tăng 0,8% (+705 con). Số con xuất chuồng là 10.518 con, tăng 2,2% (+228 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 1.842 tấn, tăng 2,2% (+40 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng đàn lợn 157.820 con, tăng 3,5% (+5.267 con). Số con xuất chuồng là 86.615 con, tăng 3,9% (+3.276 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 6.847 tấn, tăng 4,2% (+274 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng đàn gia cầm 1.828.000 con, tăng 4,3% (+75.860 con). Trong đó: đàn gà 1.692.000 con, tăng 4,5% (+72.876 con). Tổng đàn tăng do giá cả ổn định, nên người dân tăng đàn. Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 2.034 tấn, tăng 5,5% (+106 tấn) so với năm trước. Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 1.777 tấn, tăng 6,1% (+102 tấn). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng do nhu cầu tăng.
1.2. Lâm nghiệp
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đang là mùa khô, công tác phòng cháy chữa cháy rừng trên địa bàn tỉnh được các ngành chức năng tăng cường chỉ đạo công tác bảo vệ rừng trong thời gian mùa khô. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức cho người dân địa phương về phòng cháy chữa cháy rừng được tăng cường. Tính đến ngày 15/4/2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 4 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 2,18 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
- Công tác trồng rừng: Hiện nay đang là thời điểm mùa khô ở Tây Nguyên nên công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh chưa tiến hành.
- Công tác khai thác lâm sản: ước tính đến ngày 30/4/2023, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 40.545 m3, tăng 1,1% (+446 m3) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng củi khai thác ước đạt 84.368 ster, tăng 1,2% (+968 ster) so với cùng kỳ năm trước.
1.3. Thuỷ sản
Hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích nuôi thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi ao hồ từ quảng canh cải tiến sang thâm canh, bán thâm canh, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.
- Ước tính đến 30/4/2023, diện tích nuôi trồng thủy sản là 841 ha, tăng 8,4 % (+65,2 ha) so với cùng kỳ năm trước.
- Sản lượng thủy sản ước tính đạt 1.987 tấn, tăng 7,7% (+142 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 1.294 tấn, tăng 7,21% (+87 tấn) so với năm trước.
Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 693 tấn, tăng 8,62% (+55 tấn) so với năm trước.
Nhìn chung sản lượng thủy sản trong kỳ tăng do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với năm trước, bên cạnh đó cùng với khai thác đánh bắt của các hộ trên các hồ thủy lợi, thủy điện, sông suối tăng.
2. Sản xuất công nghiệp
Hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh trong 4 tháng đầu năm 2023 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước. Hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng, tuy nhiên hiện tại một số doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bắt đầu gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu, đơn hàng sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm do ảnh hưởng chung của tình hình trong nước và quốc tế nên chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại so các tháng trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 10,33% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 17,81%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,64%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,49%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,41%.
2.1. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP)
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4 năm 2023 ước tính tăng 7,57% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng cao nhất ở ngành công nghiệp khai khoáng (tăng 13,95%) hiện tại nhiều công trình xây dựng đã triển khai, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,67%; đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ số sản xuất tăng không cao chủ yếu do ảnh hưởng chung của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, nhất là các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng xuất khẩu như quần áo, sản phẩm từ cao su, sản xuất bàn ghế...; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,87% do năm nay thời tiết trên địa bàn tỉnh tương đối thuận lợi, mùa mưa kết thúc chậm hơn, mặt dù hiện tại đang trong thời gian cao điểm của mùa khô nhưng lượng nước trên các hồ chứa vẫn đảm bảo cho các nhà máy hoạt động ổn định; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,49%.
So với tháng trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 4 ước tính giảm 7,29%; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 8,29%, chủ yếu giảm ở ngành chế biến thực phẩm. Nguyên nhân hiện tại đã cuối vụ thu hoạch nguyên liệu sắn, nguồn nguyên liệu giảm mạnh dẫn đến sản lượng tinh bột sắn giảm; ngành sản xuất, phân phối điện giảm 7,12%, hiện tại trên địa bàn tỉnh đang là cao điểm mùa khô, lượng nước trên các hồ chứa bắt đầu giảm nên ngành điện phải điều tiết sản lượng điện sản xuất để duy trì sản xuất trong mùa khô; các ngành sản xuất khác hoạt động ổn định so tháng trước.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 10,33% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 17,81%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,64%; ngành sản xuất và phân phối điện, tăng 11,49%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,61%.
Chỉ số sản xuất 4 tháng đầu năm 2023 của một số ngành trọng điểm cấp II đa số tăng so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác (+17,81%); Sản xuất chế biến thực phẩm (+10,33%); Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan (+13,51%); In, sao chép bản ghi các loại (+14,45%); Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất (+8,05%); Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác (+6,76%); Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) (+7,35%); Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế (+10,10%); Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí (+11,49%); Khai thác, xử lý và cung cấp nước (+7,09%). Ở chiều ngược lại, ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất giảm: Sản xuất trang phục (-4,87%); Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện (-6,35%); Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic (-3,04%).
2.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp
Ước tính một số sản phẩm sản xuất tháng 4 năm 2023 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 34.457 m3, tăng 15,48%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 21.100 tấn, giảm 0,83%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 17,37 triệu viên, tăng 0,58%; điện sản xuất 196,6 triệu Kwh, tăng 8,57%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022 một số sản phẩm chủ yếu có sản lượng tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất đạt 944 triệu Kwh (+11,58%); Đá xây dựng khác đạt 140.271 m3 (+18,58%); Tinh bột sắn đạt 104.570 tấn (+8,9%); Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 67 triệu trang (+14,45%); Cồn béo công nghiệp đạt 3.044 tấn (+7,94%); Phân vi sinh đạt 410 tấn (+9,04%); Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 55,38 triệu viên (+9,11%); Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 111 nghìn viên (+26,94%); Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 7.880 tấn (+2,05%); Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 71.935 chiếc (+11,58%); Bàn bằng gỗ các loại đạt 28.520 chiếc (+6,28%)... Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng giảm so với cùng kỳ năm trước: Đường RE đạt 7.132 tấn (-0,78%); Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 472 ngàn cái (-12,30%); Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 9.013 m3 (-6,35%).
2.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng Tư năm 2023 ước tính giảm 0,67% so với tháng trước và tăng 4,79% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 3,47% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tăng 17,01%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 3,02%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng tăng 14,51%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,34%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 5,14%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,91% so với cùng kỳ năm trước.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]
Trong tháng 4 năm 2023 (tính đến ngày 18/4/2023) toàn tỉnh có 33 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký gần 138 tỷ đồng, tăng 6,45% về số doanh nghiệp và giảm 84,25% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Có 07 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 05 doanh nghiệp đã giải thể; 09 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023 (tính đến ngày 18/4/2023) có 89 doanh nghiệp thành lập mới, đạt 24,72% kế hoạch và giảm 28,8% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 515,83 tỷ đồng, đạt 7,07% kế hoạch và giảm 74,65% so với cùng kỳ. Có 37 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 54,3% so với cùng kỳ năm trước; 16 doanh nghiệp đã giải thể, tăng 60% so với cùng kỳ năm trước; 108 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, giảm 5,26% so với cùng kỳ năm trước.
4. Vốn đầu tư
Công tác phân bổ và đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo triển khai quyết liệt ngay từ đầu năm gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, hiệu quả. Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tư được các Sở, ban, ngành và địa phương tập trung triển khai, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công đặc biệt là các dự án chuyển tiếp. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn ước đạt 1.005,68 tỷ đồng, tăng 68,13% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh trong tháng 4 năm 2023 ước đạt 275,38 tỷ đồng, tăng 70,17% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 194,9 tỷ đồng, chiếm 70,78%; Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện là 80,48 tỷ đồng, chiếm 29,22% trong tổng số nguồn vốn.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2023 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn ước đạt 1.005,68 tỷ đồng, tăng 68,13% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm:
Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 713,24 tỷ đồng, chiếm 70,92% trong tổng số nguồn vốn, tăng 59,17% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh là 275,51 tỷ đồng; nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 403,44 tỷ đồng; nguồn vốn ODA 5,01 tỷ đồng; nguồn vốn Xổ số kiến thiết là 12,23 tỷ đồng; nguồn vốn khác là 17 tỷ đồng.
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 292,44 tỷ đồng, chiếm 29,08% trong tổng số nguồn vốn, tăng 94,92% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh, trong đó: vốn cân đối ngân sách huyện đạt 121,61 tỷ đồng; nguồn vốn hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 170,83 tỷ đồng.
Nhìn chung trong 4 tháng đầu năm 2023 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2022 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2023 đang được các đơn vị triển khai các khâu chuẩn bị thực hiện dự án. Cụ thể một số dự án trọng điểm như: Đường giao thông tiếp nối tỉnh lộ 674 đi đường tuần tra BG xã Mo Ray, huyện Sa Thầy; Đường trục chính phía Tây TP Kon Tum; Cầu số 2 qua sông Đăk Bla (từ phường Trường Chinh đi khu dân cư thôn Kon Jo Ri, xã Đăk Rơ Wa) TP Kon Tum; Đường bao khu dân cư phía namTP Kon Tum (đoạn đường Hồ Chí Minh đến cầu treo KonKlo); Dự án hồ chứa nước Đăk Pokei ...
5. Hoạt động ngân hàng[2]
- Hoạt động huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn ước đến ngày 30/4/2023 đạt 20.450 tỷ đồng, tăng 0,6% (+123 tỷ đồng) so với tháng trước, tăng 2,9% (+575 tỷ đồng) so với cuối năm 2022, tuy nhiên mức tăng trưởng nguốn vồn huy động vẫn thấp hơn so với cùng kỳ năm trước (+4,9%). Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 2.020 tỷ đồng, chiếm 9,9% tổng nguồn vốn huy động, tăng 0,3% (+6 tỷ đồng) so với tháng trước, giảm 0,9% (-17 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2022. Mức lãi suất huy động các kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống vẫn được duy trì ở mức cao so với năm 2022, nên khách hàng có xu hướng chọn gửi tiền ở các kỳ hạn ngắn để linh hoạt trong chi tiêu, tiêu dùng.
- Hoạt động tín dụng: Tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn ước đến ngày 30/4/2023 đạt 43.350 tỷ đồng, tăng 0,8% (+345 tỷ đồng) so với tháng trước, tăng 1,0% (+423 tỷ đồng) so với cuối năm 2022. Trong đó:
Dư nợ phân theo kỳ hạn:
+ Dư nợ ngắn hạn ước đạt 26.400 tỷ đồng, chiếm 60,9% tổng dư nợ, tăng 1,1% (+285 tỷ đồng) so với tháng trước, tăng 0,3% (+ 85 tỷ đồng) so với đầu năm;
+ Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 16.950 tỷ đồng, chiếm 39,1% tổng dư nợ, tăng 0,4% (+61 tỷ đồng) so với tháng trước, tăng 2,0% (+338 tỷ đồng) so với đầu năm.
6. Thương mại, dịch vụ
Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh 4 tháng đầu năm 2023 đạt quy mô cao hơn so với cùng kỳ và đang dần bắt kịp tốc độ tăng cùng kỳ của các năm trước khi xảy ra dịch bệnh Covid-19, so với cùng kỳ năm trước tình hình thị trường hàng hóa tương đối ổn định, nhu cầu hàng may mặc, trang thiết bị gia đình trong giai đoạn chuyển mùa, lưu thông hàng hóa trên thị trường thuận lợi. Các hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh tăng mạnh trong 4 tháng đầu năm 2023 do nhân dịp chào mừng kỷ niệm 110 năm Ngày thành lập tỉnh Kon Tum, trên địa bàn tỉnh đã diễn ra nhiều sự kiện với quy mô lớn, hoành tráng đã thu hút sự tham gia của đông đảo người dân và du khách gần xa. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 16,41% so với cùng kỳ năm trước.
6.1. Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 4 năm 2023 đạt 2.835,8 tỷ đồng, tăng 0,56% so với tháng trước và tăng 17,46% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.385,49 tỷ đồng, chiếm 84,12% trong tổng số, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 15,08% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 292,6 tỷ đồng, chiếm 10,32% trong tổng số, tăng 1,47% so với tháng trước và tăng 33,77% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 157,7 tỷ đồng, chiếm 5,56% trong tổng số, tăng 1,31% so với tháng trước và tăng 28,57% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2023 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 11.348,15 tỷ đồng, tăng 16,41% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa 4 tháng đầu năm ước đạt 9.540,01 tỷ đồng, chiếm 84,07% trong tổng số, tăng 15,05% so với cùng kỳ năm trước. Tất cả các nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm (+14,75%); hàng may mặc (+8,15%); đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình (+14,49%); Vật phẩm văn hóa, giáo dục (+15,75%); Gỗ và vật liệu xây dựng (+12,92%); Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) (+15,12%); Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) (+21,64%); Xăng, dầu các loại (+16,28%); Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) (+8,88%); Hàng hoá khác (+19,43%); Đá quý, kim loại quý và sản phẩm (+16,69%); Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác (+18,26%).
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch 4 tháng đầu năm ước đạt 1.123,09 tỷ đồng, chiếm 9,9% trong tổng số, tăng 25,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 64,68 tỷ đồng, tăng 40,79%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 1.057,53 tỷ đồng, tăng 24,72%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 0,885 tỷ đồng, tăng 24,02% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ khác 4 tháng đầu năm ước đạt 685,04 tỷ đồng, chiếm 6,04% trong tổng số tăng 21,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: dịch vụ giáo dục và đào tạo (+12,47%); dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội (+19,68%); dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí (+36,12%); dịch vụ hành chính và dịch vụ hổ trợ (+17,34%); dịch vụ khác (+14,28%)...
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ trên địa bàn trong 4 tháng đầu năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước là do: Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh đạt quy mô cao hơn và đang dần bắt kịp tốc độ tăng cùng kỳ của các năm trước khi xảy ra dịch bệnh Covid-19, so với cùng kỳ năm trước tình hình thị trường hàng hóa tương đối ổn định, nhu cầu hàng may mặc, trang thiết bị gia đình trong giai đoạn chuyển mùa. Nguồn cung hàng hóa cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng, giá hàng hóa không có biến động lớn, thị trường tương đối bình ổn. Lưu thông hàng hóa trên thị trường thuận lợi; Một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại đã tăng cường triển khai các chương trình khuyến mại đối với một số mặt hàng, thay đổi mẫu mã và nâng cao chất lượng hàng hóa nhằm kích thích lượng tiêu dùng cũng như sức mua của người dân; Giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng. Mặt khác, trong năm 2023 tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành trên địa bàn tỉnh hoạt động tương đối ổn định, thu nhập của người dân trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định và chi tiêu cho đời sống theo đó cũng ổn định đã làm cho doanh thu tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Các hoạt động du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng mạnh trong 4 tháng đầu năm 2023 là do nhân dịp chào mừng kỷ niệm 110 năm Ngày thành lập tỉnh Kon Tum, trên địa bàn tỉnh đã diễn ra nhiều sự kiện với quy mô lớn, hoành tráng đã thu hút sự tham gia của đông đảo người dân và du khách gần xa như: “Phiên chợ Sâm Ngọc linh, các dược liệu khác gắn với du lịch”, tổ chức Giải dù lượn Kon Tum mở rộng “Khám Phá đại ngàn - Sa Thầy 2023”, liên hoan sắc màu thổ cẩm và ra mắt làng du lịch cộng đồng Kon Jơ Dri và các chương trình chào mừng kỷ niệm 110 năm Ngày thành lập tỉnh Kon Tum và thành phố Kon Tum lên đô thị loại II …
6.2. Hoạt động vận tải, kho bãi
Tháng Tư hoạt động vận chuyển hành khách tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, chủ yếu là trong tháng có nhiều Lễ hội trên toàn quốc và dịp nghỉ lễ 30/4, 1/5 và Giỗ Tổ Hùng Vương dài ngày nên nhu cầu đi du lịch và về thăm quê tăng mạnh sau thời gian dài ảnh hưởng dịch COVID-19. Hoạt động vận chuyển hàng hóa tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, tháng 4 trên địa bàn tỉnh là tháng mùa khô nên hoạt động vận chuyển hàng hóa thuận lợi và các cơ sở kinh doanh vận tải tăng cường đầu tư thêm nhiều xe có tải trọng lớn. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023 tăng 14,41% về lượng khách vận chuyển và tăng 6,11% lượng hàng hóa vận chuyển so với cùng kỳ năm trước.
(1) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 4 năm 2023
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 4 năm 2023 đạt 223.184 triệu đồng, tăng 12,04% so với tháng trước và tăng 24,25% so cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 66.542 triệu đồng (so với tháng trước tăng 19,28%), so với cùng kỳ năm trước tăng 49,4%; Vận chuyển ước đạt 926 nghìn lượt khách, tăng 19,33%; Luân chuyển ước đạt 119.889 nghìn lượt khách.km, tăng 16,12%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 155.427 triệu đồng (so với tháng trước tăng 9,24%), so với cùng kỳ năm trước tăng 15,82%; Vận chuyển ước đạt 1.532 nghìn tấn, tăng 6,22%; Luân chuyển ước đạt 76.477 nghìn tấn.km, tăng 6,07%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 1.215 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 36,86%.
(2) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính 4 tháng đầu năm 2023
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính 4 tháng đầu năm 2023 đạt 799.136 triệu đồng, tăng 14,35% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 225.627 triệu đồng, tăng 31,87%; Vận chuyển ước đạt 3.686 nghìn lượt khách, tăng 14,41%; Luân chuyển ước đạt 472.057 nghìn lượt khách.km, tăng 13,45%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 569.098 triệu đồng, tăng 8,52%; Vận chuyển ước đạt 6.014 nghìn tấn, tăng 6,11%; Luân chuyển ước đạt 298.415 nghìn tấn.km, tăng 5,87%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 4.411 triệu đồng, tăng 32,03%.
7. Giá cả thị trường
7.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 năm 2023 giảm 0,67% so với tháng trước; tăng 4,91% so với cùng tháng năm trước; tăng 0,18% so với tháng 12 năm trước, tăng 10,78% so với kỳ gốc 2019; CPI bình quân 4 tháng năm 2023 so với cùng kỳ năm trước tăng 5,98%.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, so với tháng trước có 04 nhóm tăng là nhóm May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,04%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,07%; nhóm Giao thông tăng 0,27%; nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,08%. Có 07 nhóm giảm là nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,2%; nhóm Đồ uống và thuốc lá giảm 1,19%; nhóm Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 1,09%; nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,1%; nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,05%; nhóm Giáo dục giảm 0,22%; nhóm Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,94%.
Cụ thể chỉ số các nhóm hàng so với tháng trước như sau:
- Chỉ số nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,2%, trong đó:
+ Nhóm lương thực: Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,02%, riêng chỉ số nhóm gạo giảm 0,26%, trong đó gạo tẻ thường giảm 0,37%, nguyên nhân là do trên địa bàn bắt đầu thu hoạch lúa vụ Đông xuân, riêng gạo tẻ ngon tăng 0,8%, gạo nếp tăng 0,08%. Nhóm bột mì và ngũ cốc khác tăng 1,31%, trong đó khoai tăng 0,82%, ngô tăng 6,26% là do nhu cầu tiêu dùng tăng nên làm giá tăng theo. Nhóm lương thực chế biến tăng 0,41%, trong đó bánh mỳ tăng 2,03%.
+ Nhóm thực phẩm: Chỉ số nhóm thực phẩm giảm 1,84%, cụ thể: nhóm thịt gia súc tươi sống giảm 0,34%, trong đó thịt lợn giảm 0,39%, thịt bò giảm 0,13%, nguyên nhân là do nguồn cung tăng nên làm cho giá giảm. Nhóm thịt gia cầm tăng 0,12%, trong đó thịt gia cầm khác tăng 1,4%. Nhóm thịt chế biến giảm 0,47%, trong đó thịt quay, giò chả giảm 0,56%. Nhóm trứng các loại giảm 1,66%, trong đó trứng tươi các loại giảm 1,7%. Nhóm dầu, mỡ ăn và chất béo khác giảm 0,33%, trong đó dầu thực vật giảm 0,66%.
Nhóm thủy sản tươi sống giảm 4,95% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh giảm 4,65%, tôm tươi hoặc ướp lạnh giảm 7,51%, nguyên nhân chủ yếu là do lượng cung dồi dào và nhu cầu tiêu dùng giảm nên làm cho giá giảm.
Nhóm rau tươi, khô và chế biến giảm 9,7%, trong đó bắp cải giảm 11,13% (giảm 1.000 đến 2.000 đồng/kg), cà chua giảm 15,65% (giảm 2.000 đến 3.500 đồng/kg), rau muống giảm 10,39% (giảm 1.000 đồng/kg), khoai tây giảm 11,37%, rau dạng quả, củ giảm 13,64%, đỗ quả tươi giảm 18,46%, rau chế biến các loại giảm 7,51%, rau tươi khác giảm 6,85%, rau gia vị tươi khô các loại giảm 8,36%. Nguyên nhân chủ yếu là các sản phẩm trên đang mùa thu hoạch và thời tiết thuận lợi cho việc gieo trồng các loại rau trên nên có năng suất cao và lượng cung cho thị trường tăng mạnh do đó làm cho giá giảm mạnh theo quy luật cung cầu.
Nhóm quả tươi, chế biến tăng 0,41%, trong đó chuối tăng 0,47%, quả có múi tăng 0,51%, táo tăng 0,95%, xoài tăng 0,94%, nguyên nhân là do nhu cầu tiệu dùng tăng làm cho giá tăng theo.
Nhóm đồ gia vị tăng 0,23%, trong đó mì chính (bột ngọt) tăng 0,67%; Nhóm đường mật tăng 0,67%, trong đó đường tăng 1,18%. Nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,22%, trong đó sữa tươi tăng 0,68%, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng tăng.
- Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 1,19%, là do nhóm rượu bia giảm 2,55%, trong đó bia các loại giảm 3,79%, rượu các loại giảm 0,54%. Nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh nên làm cho giá giảm theo.
- Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,04%, trong đó nhóm vải các loại tăng 0,62%, nhóm mũ nón tăng 1,21%, trong đó mũ bải hiểm xe máy tăng 2,03%. Nguyên nhân là do nên nhu cầu mua sắm tăng làm cho giá tăng theo.
- Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 1,09%, tác động chính là do nhóm gas và các loại chất đốt khác giảm 9,63%, trong đó giá gas giảm 13,37%, giảm 62.000 đồng/bình 12 kg từ ngày 01/4/2023; giá dầu hỏa qua ba đợt điều chỉnh giá xăng, dầu vào các ngày 03, 11, 21 tháng 4/2023, tính bình quân giảm 3,83%. Điện sinh hoạt giảm 1,98%; nước sinh hoạt giảm 1,7% là do nhu cầu tiêu dùng giảm nên làm cho giá bình quân giảm. Riêng vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,53%, trong đó vật liệu bảo dưỡng nhà ở chính tăng 0,93%, tăng chủ yếu là các mặt hàng sắt, thép và cát sỏi.
- Chỉ số nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,1%, giảm chủ yếu là do nhóm đồ dùng nấu ăn giảm 0,95%; nhóm giường tủ, bàn, ghế giảm 0,79%; nhóm đồ nhựa và cao su giảm 0,44%, nguyên nhân là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi để kích cầu.
- Chỉ số nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,07%, là do thuốc các loại tăng 0,37%, trong đó thuốc chống nhiễm, điều trị ký sinh trùng tăng 0,72%, thuốc tác động vào hệ nội tiết tăng 1,78%, thuốc tác động trên đường hô hấp tăng 1,63%, vitamin và khoáng chất tăng 1,81%.
- Chỉ số nhóm giao thông tăng 0,27%, nguyên nhân chủ yếu là do nhóm nhiên liệu tăng 1,0%, do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu các ngày 03, 11, 21 tháng 4/2023, tính bình quân so với tháng trước thì chỉ số giá xăng tăng 1,11%, riêng dầu diezel giảm 1,93%.
- Chỉ số nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,05%, là do thiết bị điện thoại giảm 0,15%, trong đó máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 2,28%, phụ kiện máy điện thoại di động thông minh giảm 0,58%, nguyên nhân là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động để kích cầu.
- Chỉ số nhóm Giáo dục giảm 0,22%, là do nhóm văn phòng phẩm giảm 0,95%, trong đó sách giáo khoa giảm 1,58%, bút viết các loại giảm 1,13%, văn phòng phẩm và đồ dùng học tập khác giảm 0,21%.
- Chỉ số nhóm Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,94% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 1,08%, trong đó ti vi màu giảm 2,09%, đầu DVD giảm 2,49%; nhóm thiết bị dụng cụ thể thao giảm 0,46%, trong đó thiết bị thể dục thể thao giảm 1,59%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi.
- Chỉ số nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,08% là do đồ dùng cá nhân tăng 0,94%, trong đó dụng cụ cá nhân không dùng điện tăng 1,41%, đồ trang sức tăng 0,24% là tăng theo giá vàng; về hỉ tăng 2%, trong đó dịch vụ về hỉ tăng 3,01%.
7.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh
Giá vàng biến động theo giá vàng thế giới và trong nước với xu hướng tăng so với tháng trước, giá vàng 9999 trên địa bàn tỉnh tháng 4/2023 được bán với giá bình quân khoảng 6.369.000 đồng/chỉ, tăng 0,24% so với tháng trước; tỷ giá USD/VND bình quân giao dịch ở mức 23.686 đồng/USD, giảm 0,86%.
Chỉ số giá vàng tháng Tư năm 2023 tăng 0,24% so với tháng trước; giảm 3,24% so với cùng kỳ năm trước; giảm 0,14% so với tháng 12 năm trước; bình quân 4 tháng tăng 2,77% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng Tư năm 2023 giảm 0,86% so với tháng trước; tăng 2,55% so với cùng kỳ năm trước; giảm 2,36% so với tháng 12 năm trước; bình quân 4 tháng tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước.
8. Một số tình hình xã hội
8.1. Về y tế
8.1.1. Tình hình dịch bệnh trong tháng
Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19): Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới, giảm 01 ca so với tháng trước, giảm 19.936 ca so với cùng kỳ năm trước. Lũy tích từ đầu năm đến 31/3/2023, không có tử vong, ghi nhận 01 ca mắc, giảm 26.478 ca so với cùng kỳ năm trước. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh chưa ghi nhận trường hợp mắc biến thể mới của SARS-CoV-2.
Tay - Chân - Miệng: Trong tháng, ghi nhận 01 ca mắc mới tại huyện Đăk Tô, bằng so với tháng trước và tăng 01 ca so với cùng kỳ năm trước. Lũy tích đến 31/3/2023, không có tử vong, ghi nhận 02 ca mắc (Đăk Tô 01 ca, Đăk Glei 01 ca), giảm 01 ca so với cùng kỳ năm trước.
Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 32 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 09 ca, Kon Rẫy 06 ca, Đăk Glei 04 ca, Tu Mơ Rông 12 ca, Kon Plông 01 ca), tăng 18 ca so với tháng trước và tăng 19 ca so với cùng kỳ năm trước. Lũy tích đến 31/3/2023, không có tử vong, ghi nhận 57 ca mắc, bằng so với cùng kỳ năm trước.
Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 06 ca mắc mới tại huyện Kon Plông, tăng 03 ca so với tháng trước và tăng 03 ca so với cùng kỳ năm trước. Lũy tích đến 31/3/2023, không có tử vong, ghi nhận 10 ca mắc (Tu Mơ Rông 02 ca, Kon Rẫy 02 ca, Kon Plông 06 ca), giảm 02 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 01 ổ dịch mới tại huyện Ngọc Hồi. Lũy tích đến 31/3/2023, ghi nhận 04 ổ dịch (Kon Rẫy 01, Ngọc Hồi 02, Đăk Glei 01). Trong tháng, ghi nhận 03 ca mắc mới (Ngọc Hồi 01 ca, Đăk Glei 01 ca, Tu Mơ Rông 01 ca), tăng 02 ca so với tháng trước và tăng 01 ca so với cùng kỳ năm trước. Lũy tích đến 31/3/2023, không có tử vong, ghi nhận 06 ca mắc, giảm 09 ca so với cùng kỳ năm trước.
Bệnh viêm gan vi rút A: Trong tháng, ghi nhận 01 ca mắc mới tại huyện Đăk Hà, bằng so với tháng trước và tăng 01 ca so với cùng kỳ năm trước. Lũy tích đến 31/3/2023, không có tử vong, ghi nhận 02 ca mắc (Đăk Hà 01 ca, Sa Thầy 01 ca), tăng 02 ca so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý I năm 2023, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...), Hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV), Đậu mùa khỉ, Cúm A(H1N1), Bệnh do vi rút Zika, Viêm não Nhật Bản, Bạch hầu, Dại, Ho gà, Sởi, sốt rét…
Phòng chống lao, phong: Tổng số bệnh nhân lao đăng ký điều trị 52 người, trong đó lao phổi AFB (+) 45 người, lao phổi AFB (-) 01 người, ngoài phổi 06 người. Không phát hiện bệnh nhân phong mới; tổng số bệnh nhân phong đang quản lý 151 người; quản lý và điều trị bệnh nhân phong tại khu điều trị phong Đăk Kia (là trại viên) đang quản lý 52 người.
8.1.2. Tiêm chủng mở rộng
Sở Y tế đã ban hành Công văn về việc khẩn trương, tăng cường rà soát, cập nhật dữ liệu tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19[3]. Triển khai các đợt tiêm vắc xin phòng Covid-19 liều nhắc lại cho người từ 12 tuổi trở lên và tiêm liều cơ bản cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi, kết quả đến 31/3/2023:
- Nhóm đối tượng từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,59%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 98,62%; tỷ lệ tiêm liều bổ sung đạt 96,68%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 1 đạt 92,24%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 2 đạt 100%.
- Nhóm đối tượng từ 12 đến 17 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,89%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 97,23%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại đạt 94,02%.
- Nhóm đối tượng từ 5 đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 96,74%.
8.1.3. Phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng, ghi nhận 02 ca nhiễm HIV mới; không có bệnh nhân HIV chuyển sang giai đoạn AIDS; không có bệnh nhân tử vong. Lũy tích đến ngày 31/3/2023, tổng số nhiễm HIV/AIDS 565 người, trong đó tử vong 202 người và còn sống 363 người (quản lý được 206 người); tổng số nhiễm HIV chuyển sang giai đoạn AIDS 302/363 người. Tổng số bệnh nhân đang được điều trị ARV 168 người (09 trẻ em), đang điều trị dự phòng lao bằng Isoniazid 07 người. Số bệnh nhân đang điều trị Methadone 42 người, số lượt uống thuốc 1.304 lượt.
8.1.4. Truyền thông, giáo dục sức khỏe: Sở Y tế phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh thực hiện 01 phóng sự (tuyên truyền ngành Y tế chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống bệnh lao). Thực hiện 12 buổi truyền thông nhóm/nói chuyện chuyền đề về phòng, chống bệnh lao. In và treo 12 băng tuyên truyền phòng, chống bệnh lao nhân Ngày Thế giới phòng, chống lao 24/3/2023. Sản xuất 5 thông điệp tuyên truyền phòng chống sốt xuất huyết, phòng chống lao, phòng chống ngộ độc thực phẩm, phòng chống dại, liên cầu lợn trên người. Tổ chức 02 lớp tập huấn hướng dẫn truyền thông cho các trung tâm y tế huyện/thành phố về phòng, chống bệnh liên cầu lợn trên người và bệnh cúm mùa, Marburg. Tuyên truyền chủ đề trọng tâm tháng 3/2023: Ngày Thế giới phòng chống lao (24/3); Phòng, chống sốt xuất huyết Dengue; Phòng, chống các bệnh cúm mùa, bệnh dại, Marburg, liên cầu lợn; Phòng, chống ngộ độc thực phẩm.
8.1.5. An toàn vệ sinh thực phẩm: Ban Chỉ đạo liên ngành an toàn thực phẩm đã ban hành Kế hoạch triển khai “Tháng hành động vì an toàn thực phẩm” năm 2023 trên địa bàn tỉnh Kon Tum[4]. Giám sát chất lượng thực phẩm và tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với nhà hàng, dịch vụ nấu ăn, dịch vụ tiệc cưới. Truyền thông về an toàn thực phẩm tại thôn 14B, xã Đăk Pék, huyện Đăk Glei với 1.215 hộ/2.968 người tham dự. Tổ chức phát loa tuyên truyền bằng xe lưu động truyền thông bảo đảm an toàn thực phẩm tại thôn, phát thông điệp 1.400 lần với các nội dung: Tuyên truyền phòng chống ngộ độc rượu, nấm. Cấp phát 1.200 tờ rơi, tờ gấp, áp phích. Tuyên truyền trên sóng truyền hình 01 lần, trên sóng tuyền thanh 01 lần. Cấp 37 Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm (cấp mới: 29 cơ sở, cấp lại: 08 cơ sở). Tiếp nhận bản tự công bố của 12 sản phẩm.
Kiểm tra đối với các cơ sở sản xuất nước uống đóng bình, đóng chai; nước đá dùng liền năm 2023: Số cơ sở đạt yêu cầu là 118/119 cơ sở được kiểm tra, chiếm tỷ lệ 99,2%. Xử phạt vi phạm hành chính 01 cơ sở với tổng số tiền 4 triệu đồng (cơ sở không có giầy, dép sử dụng riêng trong khu vực sản xuất thực phẩm). Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm có công văn gửi Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh để thông báo đến người tiêu dùng thực phẩm về cơ sở sản xuất thực phẩm không tuân thủ đầy đủ các quy định về bảo đảm an toàn thực phẩm. Kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn thực phẩm đối với các trường học có tổ chức bếp ăn tập thể trên địa bàn tỉnh Kon Tum đợt 02 năm học 2022 – 2023; kết quả: Tổng số bếp ăn tập thể trường học được kiểm tra là 45, 100% bếp ăn tập thể trường học bảo đảm các điều kiện về an toàn thực phẩm.
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng, xảy ra 03 trường hợp ngộ độc thực phẩm do ăn uống không bảo đảm vệ sinh.
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Công văn về việc tăng cường công tác phòng, chống dịch Covid-19[5].
8.2. Về giáo dục
Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non; tiếp tục duy trì và đẩy mạnh phối hợp thực hiện các hoạt động của Chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm, giai đoạn 2021-2025” bảo đảm chất lượng, hiệu quả. Ngày 08-09/4/2023 tại trường Mầm non THSP Kon Tum, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội thi “Kiến thức và thực hành dinh dưỡng cho trẻ mầm non” tỉnh Kon Tum năm học 2022-2023. Tham gia hội thi có 42 đội đến từ 10 huyện, thành phố và trường Mầm non THSP Kon Tum, các đội sẽ trải qua 2 phần thi là kiến thức và thực hành.
Sáng ngày 09/4/2023 Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum đã phối hợp với Hội hữu nghị Việt-Lào-Campuchia và Sở Ngoại vụ tỉnh Kon Tum tổ chức Ngày hội Tết cổ truyền Bunpimay (Lào) và tết Chol Chnam Thmay (Campuchia) năm 2023 cho tất cả sinh viên, lưu học sinh đang học tập và rèn luyện tại nhà trường, với chủ đề “Sắc màu văn hóa Đông Dương”. Ngày hội, nhằm tạo môi trường giao lưu, tìm hiểu văn hóa, đất nước, con người của ba nước Đông Dương và thắt chặt tình đoàn kết, hữu nghị giữa ba nước Campuchia-Lào-Việt Nam.
Ngày 14/4/2023 tại trường PTTH DTNT Tỉnh, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn, tổ chức Chương trình tư vấn tuyển sinh, đăng ký vào Học viện Hải Quân và trao học bổng “Thắp sáng ước mơ” năm 2023. Tham dự chương trình có hơn 400 em học sinh lớp 12 trên địa bàn thành phố Kon Tum.
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Công văn về việc triển khai công tác nuôi dưỡng và đảm bảo an toàn cho trẻ em tại các cơ sở giáo dục mầm non[6]; Công văn về kế hoạch tuyển sinh các cấp học mầm non, phổ thông năm học 2023 - 2024[7]; Quyết định Về việc công nhận huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục, xóa mù chữ năm 2022[8].
8.3. Về văn hóa, thể dục thể thao
Chiều 09/4/2023, thành phố Kon Tum tổ chức Bế mạc Giải cầu lông thành phố Kon Tum mở rộng năm 2023. Sau 3 ngày tranh tài sôi nổi, hấp dẫn của 220 vận động viên đến từ 27 đơn vị trong và ngoài tỉnh. Giải cầu lông thành phố Kon Tum mở rộng năm 2023 nằm trong chuỗi hoạt động chào mừng 14 năm Ngày thành lập thành phố Kon Tum (10/4/2009-10/4/2023); đây cũng là dịp để quảng bá hình ảnh cảnh quan thiên nhiên, văn hóa và con người của thành phố Kon Tum tới bạn bè, du khách gần xa.
Sáng 13/4/2023, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức Khai mạc sự kiện “Hành trình học tập và trải nghiệm nhằm thúc đẩy tiếp cận tiếng Việt và trao đổi văn hóa cho học sinh vùng DTTS tỉnh Kon Tum”. Với chủ đề “Ngày hội- sách cho tôi, cho bạn”, các em tham gia sự kiện được học tập và trải nghiệm thông qua các hoạt động như: Giới thiệu truyện cổ các DTTS tỉnh Kon Tum, nghe kể chuyện theo sách, múa xoang, trải nghiệm nghệ thuật dân gian “nặn tò he”; tham gia Trại đọc và trải nghiệm thực tế tại Bảo tàng Kon Tum, Khu di tích lịch sử Ngục Kon Tum, Nhà thờ Gỗ …Sự kiện nhằm tuyên truyền về văn hóa, ngôn ngữ của đồng bào DTTS tại chỗ; tăng cường tiếng Việt cho học sinh DTTS, xây dựng môi trường văn hóa đọc, phát triển thư viện nhà trường gắn với các tư liệu và hình ảnh để nâng cao hiệu quả dạy học tiếng Việt; giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm để phát triển toàn diện.
Ngày 16/4/2023, tại Trung tâm Văn hóa- Thể thao Thanh thiếu niên tỉnh, Tổng cục Thể dục Thể thao (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Kon Tum tổ chức Bế mạc Giải Vô địch Karate miền Trung- Tây Nguyên lần thứ IX, năm 2023. Giải Vô địch Karate miền Trung-Tây Nguyên lần thứ IX diễn ra trong 3 ngày (từ ngày 14- 16/4) thu hút sự tham gia của gần 300 vận động viên đến từ 17 đoàn của các tỉnh, thành phố trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Giải Vô địch Karate khu vực miền Trung- Tây Nguyên là giải đấu được tổ chức hàng năm nhằm động viên, khuyến khích phong trào tập luyện môn võ Karate, tạo điều kiện để các vận động viên nâng cao trình độ, kinh nghiệm thi đấu. Qua đó, tuyển chọn các vận động viên tiềm năng, xuất sắc để bồi dưỡng, luyện tập nhằm chuẩn bị lực lượng tham gia các Giải ở cấp độ cao hơn.
Sáng 17/4/2023, tại Nhà văn hóa - Thể thao huyện Ngọc Hồi, Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với UBND huyện Ngọc Hồi tổ chức Lễ khai mạc Ngày sách và Văn hóa đọc tỉnh Kon Tum lần thứ 2 năm 2023 với chủ đề “Sách: Nhận thức- Đổi mới- Sáng tạo; Sách cho tôi, cho bạn”. Thông qua Ngày Sách và Văn hóa đọc là dịp để các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực xuất bản và phát hành có cơ hội quảng bá, giới thiệu sản phẩm và phát triển thương hiệu của mình, từ đó đóng góp chung cho sự phát triển của ngành sách nói riêng và ngành xuất bản phẩm nói chung.
8.4. Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương
Công tác đấu tranh ngăn chặn, xử lý các loại tội phạm tiếp tục được chỉ đạo thực hiện quyết liệt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; triển khai có hiệu quả các kế hoạch cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, nhất là tội phạm về trật tự xã hội, tội phạm ma túy. Hoạt động của tội phạm theo băng, nhóm, tội phạm liên quan đến “tín dụng đen” được đấu tranh, triệt xóa, không có băng, nhóm hoạt động phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, cụ thể:
Phạm tội về trật tự xã hội: Phát hiện 32 vụ (giảm 07 vụ so với tháng trước); hậu quả, thiệt hại: 02 người bị thương, thiệt hại về tài sản khoảng 79 triệu đồng.
Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Không xảy ra (giảm 02 vụ so với tháng trước).
Phạm tội về ma túy: Phát hiện 12 vụ (tăng 07 vụ so với tháng trước), gồm: Tàng trữ trái phép chất ma túy 08 vụ; Mua bán trái phép chất ma túy 03 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ: 131,082g ma túy tổng hợp, 7,232g Heroin.
Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông làm 07 người chết, 06 người bị thương (so với tháng trước giảm 02 vụ, 01 người chết, giảm 05 người bị thương). Thiệt hại về tài sản: Hư hỏng 08 mô tô, ước tính khoảng 38 triệu đồng.
Tình hình cháy, nổ, sự cố, tai nạn: Xảy ra 01 vụ cháy rừng bạch đàn (tăng 01 vụ so với tháng trước). Thiệt hại: 02 người chết, cháy 08 ha rừng, nguyên nhân đang được điều tra làm rõ.
8.5. Tình hình môi trường
Vi phạm môi trường: Trong tháng không phát hiện vụ Vi phạm môi trường (không tăng, giảm so với tháng trước và cùng kỳ năm trước).
Tình hình thiên tai
(1) Diễn biến thiên tai:
Theo báo cáo tổng hợp của Ban chỉ huy phòng chống thiên tai - tìm kiếm cứu nạn và phòng thủ dân sự tỉnh.Từ ngày 21/3/2023 đến ngày 19/4/2023 trên địa bàn tỉnh Kon Tum do ảnh hưởng của mây dông nên gây mưa nhiều tại các huyện Đăk Hà, Kon Rẫy, Ngọc Hồi, Tu Mơ Rông.
(2) Tình hình thiệt hại:
- Về nhà ở: Trong tháng, ghi nhận 09 căn nhà bị hư hại, tăng 09 căn so tháng trước và 06 căn so cùng kỳ năm trước. Lũy kế đến 19/4/2023 tổng số nhà ở bị ảnh hưởng thiệt hại là 09 căn, tăng 06 căn so với cùng kỳ năm trước.
- Về công trình văn hoá: Sập khoảng 8m tường rào của trụ sở Ủy ban nhân dân xã Đăk Na và 150 m2 nhà màng tại thôn Long Tum, xã Đăk Na, Tu Mơ Rông, tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
- Về công trình giao thông: Sạt lở đoạn đường giao thông thôn Hào Phú, vị trí sạt lở xảy ra tại đoạn đường liên thôn Hào Phú đi Thôn 4, xã Đăk Kan, huyện Ngọc Hồi với chiều dài 20m, chiều sâu từ (8-10)m, tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
Tổng giá trị thiệt hại trong tháng 4 ước tính khoảng 1.598 triệu đồng, tăng 1.598 triệu đồng so với tháng trước và 1.448 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế đến 19/4/2023, ước thiệt hại khoảng 1.598 triệu đồng tăng 1.448 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước.
[1] Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư
[2] Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Kon Tum
[3] Công văn số 757/SYT-NVYD ngày 15/3/2023.
[4] Kế hoạch số 1076/KH-BCĐ ngày 13/4/2023.
[5] Công văn số 1075/UBND-KGVX, ngày 13/4/2023.
[6] Công văn số 905/UBND-KGVX ngày 31/3/2023.
[7] Công văn số 890/UBND-KGVX ngày 30/3/2023.
[8] Quyết định số 96/QĐ-UBND ngày 28/3/2023.
File đính kèm: BC_so_lieu_thang_4_(Kon_Tum)_2023.pdf
Cục Thống kê tỉnh Kon Tum