A. LĨNH VỰC KINH TẾ
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tháng Mười Một diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi. Các địa phương tập trung chủ yếu cho việc thu hoạch các loại cây trồng vụ mùa, thu hoạch mủ cao su, thu hái cà phê và chuẩn bị đất gieo trồng vụ Đông xuân 2022-2023; Số lượng đầu con gia súc, gia cầm tăng do người dân chuẩn bị nguồn thực phẩm cho các dịp lễ, tết sắp tới; Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được triển khai thường xuyên; tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, trồng cây xanh và đảm bảo an toàn thuỷ lợi cho sản xuất trong mùa mưa lũ gắn với phòng chống dịch bệnh.
1.1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
(1) Sản xuất vụ Mùa
Ước tính đến thời điểm ngày 15/11/2022, tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ mùa 2022 tỉnh Kon Tum là: 66.930 ha, tăng 3,5% (+2.291,7 ha) so với cùng kỳ vụ mùa năm 2021. Cụ thể DTGT một số cây trồng so với cùng kỳ năm trước như sau:
- Cây lúa DTGT: 15.603,2 ha, giảm 3,79% (-613,9ha). Trong đó: Cây lúa ruộng: 12.614,1 ha; Cây lúa rẫy: 2.989,1 ha.
- Cây ngô DTGT: 4.532,3 ha, giảm 6,18% (-298,7 ha). Diện tích ngô giảm là do cây ngô trồng nhanh bạc màu, giá cả ngô không ổn định nên người dân chuyển sang trồng cây khác cây ăn quả, dược liệu...
- Cây sắn DTGT: 40.208,8 ha, tăng 3,7% ( +1.441,6 ha).
- Khoai lang DTGT: 615,1 ha, tăng gấp hơn 3 lần (+412,1 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích tăng là do một số doanh nghiệp trồng xen khoai lang trên đất cao su.
- Đậu các loại DTGT: 430,8 ha, tăng 30,1% (+99,6 ha).
- Rau các loại DTGT: 1.590,2 ha, tăng 5,5% (+83,1 ha).
Diện tích gieo trồng đậu các loại, rau các loại tăng là do năm nay thời tiết thuận lợi nên người dân mở rộng diện tích gieo trồng.
Nhìn chung, năm nay do mùa mưa đến sớm nên việc gieo trồng và chăm sóc cây trồng tương đối thuận lợi. Hiện bà con nông dân đang tập trung thu hoạch một số cây trồng của vụ mùa và tiếp tục gieo trồng vụ Đông xuân cho kịp tiến độ. Tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng diễn biến ở mức độ nhẹ, ít ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng các loại cây trồng. Mặc dù vậy, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành nông nghiệp tăng cường theo dõi dịch bệnh của các loại cây trồng để có biện pháp phòng trừ hiệu quả, chỉ đạo các địa phương cùng các cơ quan ban ngành tăng cường công tác kiểm tra giám sát mua bán thuốc BVTV, cử cán bộ hướng dẫn cho bà con cách sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật một cách có hiệu quả cao, không gây ô nhiễm môi trường.
(2) Cây lâu năm
Sản xuất nông nghiệp vẫn duy trì tăng trưởng ổn định mặc dù chịu ảnh hưởng bởi thời tiết diễn biến bất thường và giá vật tư đầu vào tại một số thời điểm tăng cao. Các loại cây trồng chủ lực của tỉnh tiếp tục được chú trọng phát triển.
Tổng diện tích cây lâu năm hiện có trên địa bàn tỉnh có đến ngày 15/11/2022 là: 122.150,7 ha, tăng 5,27% (+6.117 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích cây lâu năm tăng chủ yếu một số loại cây trồng như: Cây ăn quả, cao su, cà phê, cây dược liệu..., cụ thể một số loại cây trồng như sau:
Cây cao su diện tích ước tính 77.693,6 ha, tăng 1,05% (+810 ha) so với cùng kỳ năm trước (trong đó: trồng mới 1.639,6 ha); diện tích cao su tăng do người dân trồng tái canh trên một số diện tích thanh lý của những năm trước.
Cây cà phê diện tích ước tính 29.085 ha, tăng 0,64% (+186 ha) so với cùng kỳ năm trước (trong đó: trồng mới 588,6 ha). Diện tích cà phê tăng do giá cà phê những năm gần đây tương đối ổn định nên người dân quan tâm đầu tư mở rộng.
Cây ăn quả diện tích khoảng 9.493 ha, (trong đó trồng mới 3.025,6 ha) trong đó cây Mắc ca khoảng 2.322,5 ha (trong đó: trồng mới 1.101,5 ha); Sâm Ngọc Linh khoảng 1.719,9 ha (trong đó trồng mới 507,4 ha); cây dược liệu khác khoảng 1.709,9 ha ( trồng mới 1.018,4 ha).
Diện tích cây công nghiệp lâu năm cũng không nhiều so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên. Kon Tum chủ yếu trồng tập trung các cây trọng điểm là cao su, cà phê và cây ăn quả.
b) Chăn nuôi
Ngành chăn nuôi tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh trên động vật, quản lý chặt chẽ tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, tổ chức tiêm vắc-xin phòng bệnh cho động vật, đặc biệt là bệnh nguy hiểm trên đàn vật nuôi, như: cúm gia cầm, lở mồm long móng, viêm da nổi cục.... Tuyên truyền, hướng dẫn người dân tuân thủ quy trình thú y, chăn nuôi an toàn sinh học gắn với bảo vệ môi trường, xử lý nghiêm trường hợp buôn bán rong động vật không rõ nguồn gốc, giết mổ, vứt xác động vật bệnh, nghi mắc bệnh ra môi trường.
(1) Tình hình chăn nuôi
Tổng đàn trâu 24.250 con, giảm 1,32% (-250 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng 11 tháng năm 2022 là 2.708 con, tăng 3,04% (+80 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 705 tấn, tăng 3,22% (+22 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn bò 84.125 con, tăng 1,05% (+875 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng 11 tháng năm 2022 là 29.680 con, tăng 2,7% (+781 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 4.842 tấn, tăng 2,98% (+140 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn lợn 156.720 con, tăng 5,20% (+7.746 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng 11 tháng năm 2022 là 266.126 con, tăng 2,72% (+7.040 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 20.100 tấn, tăng 3,4% ( +660 tấn ) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn gia cầm 1.895.000 con, tăng 6,46% (+115.000 con) so với cùng kỳ năm trước, Trong đó: đàn gà 1.675.000 con, tăng 6,08% (+96.000 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 5.296 tấn, tăng 6,43% (+320 tấn) so với năm trước. Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 4.694 tấn, tăng 7,14% (+313 tấn).
(2) Tình hình dịch bệnh
Bệnh dịch tả lợn Châu phi: Trong tháng, đã phát sinh và tiêu hủy 09 con lợn mắc bệnh dịch tả lợn Châu phi tại ổ dịch xã Ya Xiêr, huyện Sa Thầy.
Bệnh Cúm gia cầm A/H5N1: Trong tháng, đã phát sinh và tiêu hủy 984 con gà khoảng 04 tháng tuổi mắc bệnh cúm gia cầm do chủng vi rút độc lực cao A/H5N gây ra tại 01 hộ chăn nuôi thôn Ngọc Yên Phúc, xã Đăk Xú, huyện Ngọc Hồi. Hiện nay, tại hộ chăn nuôi trên còn 02 dãy ô chuồng gà với số lượng 4.000 con gà đang khỏe mạnh, chưa có dấu hiệu mắc bệnh.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh còn 01 bệnh cúm gia cầm A/H5N1 tại xã Đăk Xú, huyện Ngọc Hồi chưa qua 21 ngày.
1.2. Lâm nghiệp
Công tác trồng rừng, quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững được chú trọng và đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác quản lý bảo vệ rừng, ngăn chặn tình trạng phá rừng, vận chuyển lâm sản trái pháp luật và phòng cháy chữa cháy rừng tiếp tục được tăng cường.
Trong tháng 11 năm 2022, sản xuất lâm nghiệp tập trung chủ yếu thực hiện khai thác gỗ, củi và chăm sóc rừng trồng. Ngành Kiểm lâm tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, bảo vệ rừng, tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân góp phần ngăn chặn kịp thời và làm giảm đáng kể số vụ vi phạm lâm luật.
- Công tác trồng rừng: Kế hoạch trồng mới rừng năm 2022 được giao chi tiết cho từng đơn vị, địa phương để triển khai thực hiện, đồng thời chỉ đạo chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để trồng mới rừng, phấn đấu hoàn thành mục tiêu năm 2022 đã đề ra.
Ước tính đến thời điểm 30/11/2022, công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh là 5.298,9 ha, tăng 29,6% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, từ đầu năm đến nay diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 131.957,83 ha; diện tích rừng được chăm sóc 9.896 ha; diện tích rừng được khoanh nuôi xúc tiến tái sinh 1.174,98 ha. Năm nay thời tiết thuận lợi nên diện tích rừng trồng mới tăng.
- Công tác khai thác lâm sản: Ước tính đến ngày 30/11/2022, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 143.132 m3, tăng 3,9% (+5.377 m3) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng củi khai thác ước đạt 263.620 ster, tăng 3,3% (+8.500 Ster) so với cùng kỳ năm trước
- Công tác phát hiện và xử lý vi phạm: Tính đến 15/11/2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 30 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 32,1 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
1.3. Thuỷ sản
Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.
Tính đến 30/11/2022, ước tính diện tích nuôi trồng thủy sản là 797 ha, tăng 8,28% (+61 ha) so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng thuỷ sản là 6.266 tấn, tăng 7,52 % (+438 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Sản lượng nuôi trồng nước ngọt là 4.301 tấn, tăng 7,69 % (+307 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng khai thác nước ngọt là 1.965 tấn, tăng 7,14 % (+131 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước là do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó việc khai thác đánh bắt của các hộ trên lòng hồ thủy lợi, thủy điện, sông suối... thuận lợi nên sản lượng thủy sản trong kỳ tăng lên.
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tháng Mười Một năm 2022 cơ bản duy trì ổn định và phục hồi nhanh tăng trưởng trở lại. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười một ước tính tăng 2,76% so với tháng trước và tăng 29,13% so với cùng kỳ năm trước, do các doanh nghiệp nỗ lực mở rộng sản xuất bù lại khoảng thời gian 2 năm bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, các doanh nghiệp chủ động hơn về lao động và kế hoạch sản xuất kinh doanh, khắc phục khó khăn để phục hồi, mở rộng sản xuất. Tính chung 11 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 21,07% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 10,24%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,12%; ngành sản xuất và phân phối điện nước tiếp tục là điểm sáng của ngành công nghiệp tăng 37,01%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 4,29%.
2.1 Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 11 năm 2022 ước tính tăng 29,13% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện (+40,94%); ngành công nghiệp khai khoáng tăng 12,72% do các đơn vị tăng sản lượng khai thác đá để đủ cung cấp cho các công trình xây dựng trên địa bàn trong các tháng cuối năm; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,04%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,22%.
So với tháng trước chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 11/2022 ước tính tăng 2,76%. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (+6,49%). Đến tháng 11 hầu hết các nhà máy tinh bột sắn đã thu mua nguyên liệu và hoạt động ổn định, lượng tinh bột sắn sản xuất tăng đã làm chỉ số ngành chế biến thực phẩm tăng cao. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4,43% do nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi cuối năm tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng sản xuất. Ngành sản xuất, phân phối điện; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định so tháng trước.
Tính chung 11 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 21,07% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 10,24%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,12%; ngành sản xuất và phân phối điện, tăng 37,01%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 4,29%.
Chỉ số sản xuất 11 tháng năm 2022 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 37,01%; Khai khoáng khác tăng 10,24%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 1,43%; Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 0,37%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 7,64%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 2,11%. Ở chiều ngược lại, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất giảm: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 11,13%; Sản xuất trang phục giảm 0,65%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện giảm 13,40%; In, sao chép bản ghi các loại giảm 4,02%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 15,86%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 1,59%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 2,66% ... đã tác động tiêu cực đến chỉ số sản xuất công nghiệp ngành chế biến, chế tạo.
2.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp
Ước tính một số sản phẩm sản xuất tháng 11 năm 2022 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 46.155,9 m3, tăng 6,76%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 37.420 tấn, tăng 6,10%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 23,62 triệu viên, tăng 34,76%; điện sản xuất 344,4 triệu Kwh, tăng 42,88%.
Tính chung 11 tháng năm 2022 một số sản phẩm chủ yếu có sản lượng tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất đạt 2.714 triệu Kwh, tăng 38,97%; Đá xây dựng khác đạt 377.181 m3, tăng 11,24%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 183,32 triệu viên, tăng 2,83%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 256,4 nghìn viên, tăng 6,67%; Bàn bằng gỗ các loại 105.066 chiếc, tăng 1,42% ...
Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng giảm so với cùng kỳ năm trước: Tinh bột sắn đạt 222.951 tấn, giảm 9,86%; Đường RE đạt 7.188 tấn, giảm 14,18%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 27.301 m3, giảm 13,40%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 163,1 triệu trang, giảm 4,02%; Cồn béo công nghiệp đạt 8.508,4 tấn, giảm 16,83%; Phân vi sinh đạt 960 tấn, giảm 3,42%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 22.854 tấn, giảm 0,44%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 242.284 chiếc, giảm 4,42%...
2.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng Mười Một ước tính tăng 0,34% so với tháng trước và tăng 5,82% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2022, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 1,27% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tăng 10,38%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 2,93%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng giảm 31,97%; Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,92%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 26,06%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 10,69% so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 11 và 11 tháng năm 2022 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước với chỉ số sản xuất toàn ngành tăng 21,07%; một số ngành có chỉ số sản xuất tăng cao như ngành công nghiệp khai thác khoáng sản và ngành sản xuất, phân phối điện; riêng ngành sản xuất phân phối điện có chỉ số sản xuất tăng cao nhất (+37,01%) do một số công trình thủy điện đã hoàn thành và đưa vào vận hành, một mặt năm nay thời tiết trên địa bàn tỉnh tương đối thuận lợi, lượng mưa lớn hơn, hầu hết các tháng trong năm lượng nước trên các hồ chứa luôn đảm bảo cho các nhà máy hoạt động hết công suất nên sản lượng điện sản xuất tăng cao. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số sản xuất 11 tháng giảm so cùng kỳ; nguyên nhân chủ yếu do một số ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn như chế biến đường, tinh bột sắn, sản xuất cồn, chế biến gỗ... còn khó khăn trong khâu thu mua nguyên liệu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nhất là trong các tháng đầu năm nên sản lượng sản phẩm sản xuất của các ngành này giảm. Đến các tháng cuối năm tình hình sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có thuận lợi và hoạt động ổn định hơn; kết quả chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến tháng 11 đã tăng 7,04% so cùng kỳ năm trước. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định so cùng kỳ.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]
Trong tháng 11 năm 2022, toàn tỉnh có 21 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 79,28 tỷ đồng, tăng 23,53% về số doanh nghiệp và giảm 78,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2021. Có 03 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 07 doanh nghiệp đã giải thể; 06 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động.
Tính chung 11 tháng năm 2022 (tính đến ngày 20/11/2022) có 318 doanh nghiệp thành lập mới, đạt 102,6% kế hoạch và tăng 22,3% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 5.710 tỷ đồng, đạt 104,58% kế hoạch và giảm 6,8% so với cùng kỳ. Có 110 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước; 35 doanh nghiệp đã giải thể, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước; 159 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 20,45% so với cùng kỳ năm trước.
4. Hoạt động ngân hàng
a) Lãi suất huy động: Các TCTD trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động. Mặt bằng lãi suất huy động tại các TCTD trong tháng tương đối ổn định, trong tháng các TCTD đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động từ 1-1,3%/năm so với các tháng trước. Theo đó, mức lãi suất phổ biến đối với kỳ hạn dưới 6 tháng từ 4,1-4,4%/năm; đối với kỳ hạn từ 6 đến 12 tháng từ 4,7-6,4%/năm; đối với các kỳ hạn trên 12 tháng từ 6,4%- 7,1%/năm. Lãi suất huy động bằng USD thực hiện theo mức quy định tối đa 0% đối với tiền gửi cá nhân và tổ chức.
b) Lãi suất cho vay: Mặt bằng chung lãi suất cho vay trong tháng tiếp tục duy trì ổn định. Mặt bằng lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường duy trì ở mức từ 7,0-10,5%/năm; cho vay trung và dài hạn ở mức từ 10-11%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,5%/năm. Lãi suất cho vay bằng USD phổ biến ở mức 3%/năm đối với các khoản vay ngắn hạn và một số nhóm đối tượng ưu tiên; cho vay trung và dài hạn phổ biến ở mức 5,0-6,8%/năm.
Thời gian qua, các TCTD trên địa bàn đã tích cực triển khai nhiều biện pháp, chương trình khuyến mại để thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư, mặc dù lãi suất huy động vẫn ở mức thấp nhưng hoạt động huy động vốn vẫn có mức tăng trưởng khá, đảm bảo đáp ứng nhu cầu cấp tín dụng trên địa bàn, tuy nhiên, còn một số TCTD vẫn gặp khó khăn trong công tác huy động, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động toàn địa bàn còn khá khiêm tốn so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên.
Hoạt động tín dụng trên địa bàn được triển khai đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho người dân, doanh nghiệp phục hồi, mở rộng đầu tư sản xuất, kinh doanh sau đại dịch, góp phần đảm bảo an sinh và trật tự an toàn xã hội, hạn chế “tín dụng đen”, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương. Cơ cấu tín dụng khá ổn định, nguồn vốn tín dụng chủ yếu được tập trung vào sản xuất kinh doanh, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, các lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ.
5. Vốn đầu tư
Trong tháng Mười Một, vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước tiếp tục được các đơn vị và địa phương nỗ lực triển khai, giải ngân vốn đầu tư công được đẩy mạnh thực hiện trong bối cảnh các hoạt động sản xuất kinh doanh phục hồi nhanh. Tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh nhìn chung đúng theo kế hoạch vốn đã được giao.
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 11 năm 2022 là 382.592 triệu đồng, tăng 62,26% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 315.601 triệu đồng, chiếm 82,49% trong tổng số nguồn vốn; nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp huyện là 66.991 triệu đồng, chiếm 17,51% trong tổng số nguồn vốn.
Tính chung 11 tháng năm 2022 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum đạt 2.867.707 triệu đồng, tăng 10,68% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh đã chủ động triển khai đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công nên vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 2.295.283 triệu đồng, chiếm 80,04% trong tổng số nguồn vốn, tăng 4,54% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh là 910.718 triệu đồng; nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 1.038.214 triệu đồng; nguồn vốn ODA là 242.005 triệu đồng; nguồn vốn Xổ số kiến thiết là 54.280 triệu đồng; nguồn vốn khác là 50.006 triệu đồng.
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp huyện là 572.424 triệu đồng, chiếm 19,96% trong tổng số nguồn vốn, tăng 44,77% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh, trong đó: vốn cân đối ngân sách huyện là 333.826 triệu đồng; nguồn vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 229.690 triệu đồng và nguồn vốn khác là 8.908 triệu đồng.
Nhìn chung, trong 11 tháng đầu năm 2022 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2021 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2022 đang được các đơn vị triển khai các khâu chuẩn bị thực hiện dự án. Cụ thể một số dự án trọng điểm như: Đường giao thông kết nối từ Đường Hồ Chí Minh đi Quốc Lộ 24; Đường Giao thông tiếp nối tỉnh lộ 674 đi đường tuần tra Biên giới xã Mo Ray huyện Sa Thầy; Đường trục chính phía tây thành phố Kon Tum, Đường vào Trụ sở làm việc các cơ quan thành phố Kon Tum, Đường Trường Chinh (đoạn từ đường Phan Đình Phùng đến đường Đào Duy Từ); Đầu tư XD cải tạo, nâng cấp tỉnh lộ 676 nối huyện Kon Plông tỉnh Kon Tum với huyện Sơn Tây, Sơn Hà, Quảng Ngãi …
6. Thương mại, dịch vụ
Hoạt động thương mại và dịch vụ tháng Mười Một khá sôi động phục hồi ở tất cả các ngành trong đó nổi bật là ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch. Thị trường hàng hóa trên địa bàn tỉnh phong phú, sức mua của người dân đã được khôi phục hoàn toàn và tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Một tăng 7,24% so với tháng trước và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng đầu năm 2022 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tăng 20,42% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tổng mức bán lẻ hàng hoá tăng 21,42%.
6.1. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tháng 11 năm 2022 đạt 2.374,98 tỷ đồng, tăng 7,24% so với tháng trước và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.020,99 tỷ đồng, chiếm 85,1% trong tổng số, tăng 5,87% so với tháng trước và tăng 4,49% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 213,01 tỷ đồng, chiếm 8,97% trong tổng số, tăng 13,77% so với tháng trước và tăng 11,46% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 140,97 tỷ đồng, chiếm 5,94% trong tổng số, tăng 18,9% so với tháng trước và tăng 0,12% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh thực hiện tháng 11 năm 2022 tăng so với tháng trước là do tình hình kinh doanh trên địa bàn tỉnh thuận lợi hơn tháng trước về mặt thời tiết, hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình khuyến mãi, nhiều sản phẩm với giá hấp dẫn đã kích cầu tiêu dùng trong dân cư.
Tính chung 11 tháng năm 2022 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 28.530,02 tỷ đồng, tăng 20,42% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 24.656,29 tỷ đồng, chiếm 86,42% trong tổng số, tăng 21,42% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có một số nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với cùng kỳ năm 2021, đặc biệt có một số nhóm doanh thu tăng khá cao như: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm (+21,54%); hàng may mặc (+16,94%); đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình (+12,29%); Vật phẩm văn hóa, giáo dục (+15,84%); Gỗ và vật liệu xây dựng (+16,70%); Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) (+12,54%); Xăng, dầu các loại (+109,19%); Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác (+ 26,56%). Bên cạnh đó có một số nhóm hàng hoá tăng không đáng kể như: Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) (+6,70%); Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) (-66,48%); Đá quý, kim loại quý và sản phẩm (+0,87%); Hàng hoá khác (+2,11%).
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 2.331,94 tỷ đồng, chiếm 8,17% trong tổng số và tăng 25,15% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 113,969 tỷ đồng, tăng 101,91%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 2.216,258 tỷ đồng, tăng 22,70%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 1,717 tỷ đồng tăng 153,88% so với cùng kỳ năm 2021 .
- Doanh thu dịch vụ khác doanh thu dịch vụ khác đạt 1.541,78 tỷ đồng, chiếm 5,4% trong tổng số, tăng 1,24% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước phải kể đến như: dịch vụ giáo dục và đào tạo (+51,5%); dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội (+38%); dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí (+10,1%); dịch vụ hành chính và dịch vụ hổ trợ (+32,%); dịch vụ khác (+22,7%) ...
Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính 11 tháng năm 2022 tăng là do hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng trong năm có xu hướng phục hồi khi dịch Covid-19 được kiểm soát, cầu tiêu dùng của người dân đã tăng trở lại; Các doanh nghiệp đã sẵn sàng thích ứng an toàn với dịch Covid-19, linh hoạt trong hoạt động để sản xuất kinh doanh, dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ du lịch lữ hành phục hồi mạnh mẽ so với năm trước, đời sống sinh hoạt của người dân trở về trạng thái bình thường của những năm trước dịch Covid-19.
6.2. Hoạt động vận tải, kho bãi
Hoạt động vận tải hành khách trong tháng Mười Một giảm so với tháng trước do nhu cầu đi lại của người dân giảm. Vận tải hàng hóa duy trì đà phục hồi từ những tháng trước với sản lượng vận chuyển hàng hoá tăng. Tình hình giao thông, vận tải trên địa bàn tỉnh trong 11 tháng năm 2022 tiếp tục duy trì được sự tăng trưởng và ổn định hơn so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2022, vận chuyển hành khách tăng 21,74%, luân chuyển hành khách tăng 22,20% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 30,72%, luân chuyển hàng hóa tăng 29,76% so với cùng kỳ năm trước.
(1). Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 11 năm 2022
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 11 năm 2022 đạt 182.652 triệu đồng, tăng 0,85% so với tháng trước và tăng 27,42% so cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 48.588 triệu đồng (so với tháng trước giảm 1,85%), so với cùng kỳ năm trước tăng 81,89%; Vận chuyển ước đạt 794 nghìn lượt khách, tăng 62,99%; Luân chuyển ước đạt 101.597 nghìn lượt khách.km, tăng 55,78%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 133.066 triệu đồng (so với tháng trước tăng 1,87%), so với cùng kỳ năm trước tăng 14,8%; Vận chuyển ước đạt 1.396 nghìn tấn, tăng 8,4%; Luân chuyển ước đạt 71.280 nghìn tấn.km, tăng 11,06%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 998 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 38,61%.
Hoạt động vận chuyển hành khách giảm so với tháng trước là do nhu cầu đi lại của người dân giảm. Hoạt động vận chuyển hành khách tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước là do cùng thời điểm năm trước tuy hoạt động vận tải hoạt động bình thường sau ảnh hưởng dịch COVID-19 nhưng nhu cầu đi lại của người dân vẫn còn thấp.
Hoạt động vận chuyển hàng hóa tăng so với cùng kỳ năm trước là do một số cơ sở kinh doanh vận tải hàng hóa đầu tư trang bị thêm các dòng xe mới có trọng tải lớn và vận chuyển hàng hóa ngành nông nghiệp tăng do một số sản phẩm nông nghiệp đang vào mùa thu hoạch như cà phê, sắn.
(2). Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính 11 tháng năm 2022
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính 11 tháng năm 2022 đạt 1.965.205 triệu đồng, tăng 36,8% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 512.269 triệu đồng, tăng 32,27%; Vận chuyển ước đạt 8.791 nghìn lượt khách, tăng 21,74%; Luân chuyển ước đạt 1.144.593 nghìn lượt khách.km, tăng 22,2%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 1.442.935 triệu đồng, tăng 38,49%; Vận chuyển ước đạt 15.319 nghìn tấn, tăng 30,72%; Luân chuyển ước đạt 772.031 nghìn tấn.km, tăng 29,76%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 10.001 triệu đồng, tăng 36,28%.
7. Giá cả thị trường
7.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2022 tăng 1,12% so với tháng trước; tăng 4,44% so với cùng tháng năm trước; tăng 4,54% so với tháng 12 năm trước; tăng 8,89% so với kỳ gốc 2019; CPI bình quân 11 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước tăng 2,71%.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, so với tháng trước có 07 nhóm tăng là nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,73%; nhóm Đồ uống và thuốc lá tăng 1,42%; nhóm May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,65%; nhóm Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,59%; nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,6%; nhóm Giao thông tăng 2,64%; nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,72%. Có 02 nhóm giảm là nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,04%; nhóm Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,14%. Có 02 nhóm không biến động giá là nhóm Giáo dục và nhóm thuốc và dịch vụ y tế. Cụ thể chỉ số các nhóm hàng so với tháng trước như sau:
- Bảy nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
(1). Chỉ số nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,73%, trong đó:
+ Nhóm lương thực: Chỉ số nhóm lương thực tăng 2,2%, riêng chỉ số nhóm gạo tăng 2,04%, trong đó gạo tẻ thường tăng 2,13%, gạo tẻ ngon tăng 1,11%, gạo nếp tăng 1,77%, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá xuất khẩu gạo tăng và nhu cầu tiêu dùng gạo nếp tăng mạnh dùng chế biến một số sản phẩm chuẩn bị cho Tết Nguyên đán. Nhóm bột mì và ngũ cốc khác tăng 1,14%, trong đó bột mỳ tăng 1,1%, ngô tăng 2,38%, sắn tăng 1,07% là do nhu cầu tiêu dùng tăng nên giá tăng theo.
+ Nhóm thực phẩm: Chỉ số nhóm thực phẩm tăng 1,88%, cụ thể: nhóm thịt gia súc tươi sống tăng 0,68%, trong đó thịt lợn tăng 1,01%, thịt bò tăng 0,42%. Giá thịt lợn tăng là do nhu cầu tiêu dùng tăng nên làm cho giá tăng theo quy luật cung cầu. Nhóm thịt gia cầm tăng 0,28%, trong đó thịt gà tăng 0,23%, thịt gia cầm khác tăng 0,56% là do nhu cầu tiêu dùng tăng. Nhóm thịt chế biến tăng 0,26%, trong đó thịt hộp tăng 1,99%, thịt gia cầm khác tăng 0,56%. Nhóm trứng các loại tăng 1,77%, trong đó trứng tươi các loại tăng 1,79%. Nhóm dầu, mỡ ăn và chất béo khác tăng 1,67%, trong đó dầu thực vật tăng 1,73%, mỡ động vật tăng 1,14% là tăng theo giá thịt lợn.
Nhóm thủy sản tươi sống tăng 3,51% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 3,17%; tôm tươi hoặc ướp lạnh tăng 5,2%; thủy, hải sản tươi sống khác tăng 1,28%, nguyên nhân chủ yếu là do lượng cung giảm và nhu cầu tiêu dùng tăng nên làm cho giá tăng.
Nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 8,0%, trong đó bắp cải tăng 19,9% (tăng từ 3.000 đồng – 4.000 đồng/kg), rau muống tăng 8,39% (tăng từ 1.000 đồng – 1.500 đồng/kg), đỗ quả tươi tăng 20,47%, rau tươi khác tăng 8,76%, rau chế biến các loại tăng 11,88%, su hào tăng 5,05%, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng tăng đồng thời lượng cung giảm do các sản phẩm trên trái vụ và trong các tháng trước thời tiết mưa nhiều nên năng suất giảm.
Nhóm quả tươi, chế biến tăng 1,38%, trong đó quả có múi tăng 1,0%, xoài tăng 1,27%, quả tươi khác tăng 2,08%, nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng tăng đồng thời các sản phẩm trên trái vụ.
Nhóm đồ gia vị tăng 0,36%, trong đó bột nêm, bột canh, viên súp tăng 1,93%; Nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 1,37%, trong đó sữa tươi tăng 2,02%, sữa đặc tăng 1,92%, sữa bột người lớn tăng 1,14%, kem tăng 2,83%, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng tăng làm cho giá tăng theo.
Nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 1,03%, trong đó ăn ngoài gia đình tăng 1,01%, uống ngoài gia đình tăng 1,65%, nguyên nhân chủ yếu là do chi phí nguyên liệu đầu vào tăng.
(2). Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,42%, tác động tăng chủ yếu là do nhóm rượu bia tăng 1,76%, trong đó bia các loại tăng 2,19%, rượu các loại tăng 1,06%. Nguyên nhân chủ yếu là do quy luật giá cả thị trường trong các tháng giáp tết Nguyên đán.
(3). Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,65%, trong đó nhóm quần áo may sẵn tăng 0,68%, vải các loại tăng 0,49%, nhóm giầy, dép tăng 0,61%, nhóm dịch vụ may, mặc tăng 1,14%. Nguyên nhân là do nhu cầu mua sắm tăng nên các cơ sở kinh doanh tăng giá theo quy luật cung cầu.
(4). Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,59%, tác động chính là do nhóm gas và các loại chất đốt khác tăng 3,93%, trong đó gas tăng 5,17% (tăng 20.000 đồng/ bình 12kg từ ngày 01/11/2022). Riêng giá dầu hỏa qua ba đợt điều chỉnh giá xăng dầu vào các ngày 01,11,21 tháng 11 tính bình quân tăng 7,01%. Riêng điện sinh hoạt giảm 1,22% là do trong tháng thời tiết mát mẻ nên nhu cầu tiêu dùng giảm làm cho giá bình quân giảm.
(5). Chỉ số nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,6%, tăng chủ yếu là do máy điều hòa nhiệt độ tăng 0,42%; hàng dệt trong nhà tăng 0,26%; đồ điện tăng 0,54%; xà phòng và chất tẩy rửa tăng 0,68%. Nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng trên tăng nên làm giá tăng theo.
(6). Chỉ số nhóm giao thông tăng 2,64%, đây là nhóm tăng mạnh nhất trong các nhóm tăng, tác động chính là do nhóm nhiên liệu tăng 5,67%, là do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu ngày 01/11/2022, ngày 11/11/2022 và ngày 21/11/2022, tính bình quân so với tháng trước thì chỉ số giá xăng tăng 5,8%, dầu diezel 0,05S-II tăng 5,25%. Nhóm phụ tùng tăng 2,15%, trong đó lốp xăm xe đạp tăng 7,59%, phụ tùng khác của xe máy tăng 2,94%, nguyên nhân là do các cơ sở kinh doanh tăng giá bán.
(7) Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,72% là do nhóm đồ dùng cá nhân tăng 1,48%, trong đó hàng chăm sóc cơ thể tăng 2,79%. Nhóm hiếu, hỉ tăng 1,23%, trong đó dịch vụ về hỉ tăng 4,06%, dịch vụ về hiếu tăng 1,98%.
- Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:
(1) Chỉ số nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,04% là do thiết bị điện thoại giảm 0,12%, trong đó máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 2,75%, nguyên nhân là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động.
(2). Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,14% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 0,8%, trong đó ti vi màu giảm 0,83%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh dịch vụ tăng giá.
- Hai nhóm không biến động về giá: Các mặt hàng nhóm giáo dục; thuốc và dịch vụ y tế.
7.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh
Giá vàng biến động theo giá vàng thế giới và trong nước với xu hướng tăng so với tháng trước, giá vàng 9999 trên địa bàn tỉnh tháng 11/2022 được bán với giá bình quân khoảng 6.397.000 đồng/chỉ, tăng 1,33% so với tháng trước; tỷ giá USD/VND bình quân giao dịch ở mức 24.872 đồng/USD, tăng 2,8%.
Chỉ số giá vàng tháng Mười Một năm 2022 tăng 1,33% so với tháng trước; tăng 13,60% so với cùng kỳ năm trước; tăng 10,50% so với tháng 12 năm trước; bình quân 11 tháng tăng 17,66% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng Mười Một năm 2022 tăng 2,80% so với tháng trước; tăng 9,11% so với cùng kỳ năm trước; tăng 8,12% so với tháng 12 năm trước; bình quân 11 tháng tăng 2,01% so với cùng kỳ năm trước.
B. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Lĩnh vực y tế
1.1. Tình hình dịch bệnh trong tháng
Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19): Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 13 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 08 ca, Đăk Hà 02 ca, Đăk Tô 01 ca, Kon Plông 01 ca, Sa Thầy 01 ca); giảm 42 ca so với tháng trước. Lũy tích tổng số ca mắc từ đầu năm 2022 đến ngày 31/10/2022 ghi nhận 29.661 ca mắc. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh chưa ghi nhận trường hợp mắc biến thể mới của SARS-CoV-2.
Tay - chân - miệng: Trong tháng, ghi nhận 04 ca mắc mới (Đăk Tô 01 ca, Đăk Glei 01 ca, Tu Mơ Rông 02 ca), giảm 04 ca so với tháng trước và bằng so với tháng 10/2021. Lũy tích đến 31/10/2022, không có tử vong, ghi nhận 61 ca mắc, giảm 04 ca so với cùng kỳ năm trước.
Thủy đậu: Trong tháng, không có tử vong, ghi nhận 08 ca mắc mới (Đăk Tô 04 ca, Đăk Glei 01 ca, Kon Rẫy 03 ca), tăng 02 ca so với tháng trước và giảm 10 ca so với tháng 10/2021. Lũy tích đến 31/10/2022, không có tử vong, ghi nhận 129 ca, giảm 146 ca so với cùng kỳ năm trước.
Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 04 ca mắc tại huyện Kon Plông, bằng tháng trước và tăng 01 ca so với tháng 10/2021. Lũy tích đến 31/10/2022, không có tử vong, ghi nhận 33 ca mắc, giảm 21 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 63 ổ dịch mới (thành phố Kon Tum 21, Đăk Tô 09, Ngọc Hồi 20, Đăk Glei 03, Kon Rẫy 03, Kon Plông 03, Sa Thầy 04). Lũy tích đến 31/10/2022, ghi nhận 244 ổ dịch.
Trong tháng, không có tử vong, ghi nhận 162 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 39 ca, Đăk Hà 07 ca, Đăk Tô 19 ca, Ngọc Hồi 32 ca, Đăk Glei 30 ca, Tu Mơ Rông 01 ca, Kon Rẫy 02 ca, Kon Plông 03 ca, Sa Thầy 04 ca, Ia H’Drai 25 ca), tăng 21 ca so với tháng trước và tăng 104 ca so với tháng 10/2021. Lũy tích đến 31/10/2022, không có tử vong, ghi nhận 823 ca mắc mới, tăng 208 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt rét: Trong tháng, không có ca tử vong, không ghi nhận ca mắc mới. Lũy tích đến 31/10/2022, không có tử vong, không có mắc sốt rét ác tính, ghi nhận 04 ca mắc (Ia H’Drai 02 ca, Tu Mơ Rông 01 ca, Sa Thầy 01 ca), tăng 01 ca so với cùng kỳ năm trước.
Bệnh viêm gan vi rút A: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới. Lũy tích đến 31/10/2022, không có tử vong, ghi nhận 06 ca mắc (thành phố Kon Tum 02 ca, Đăk Tô 01 ca, Sa Thầy 03 ca), tăng 06 ca so với cùng kỳ năm trước.
Trong 10 tháng năm 2022, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...), Hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV), Đậu mùa khỉ, Cúm A(H1N1), Bệnh do vi rút Zika, Viêm não Nhật Bản, Bạch hầu, Dại, Ho gà, Sởi.
Phòng chống lao, phong: Tổng số bệnh nhân lao đăng ký điều trị 24 người, trong đó lao phổi AFB (+) 14. Không phát hiện bệnh nhân phong mới; tổng số bệnh nhân phong đang quản lý 151 người; quản lý và điều trị bệnh nhân phong tại khu điều trị phong Đăk Kia (là trại viên) 54 người.
1.2. Tiêm chủng mở rộng: Triển khai các đợt tiêm vắc xin phòng Covid-19 liều nhắc lại cho người từ 12 tuổi trở lên và tiêm liều cơ bản cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi, kết quả đến 31/10/2022:
- Nhóm đối tượng từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,72%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 98,73%; tỷ lệ tiêm liều bổ sung đạt 96,63%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 1 đạt 91,48%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại lần 2 đạt 97,7%.
- Nhóm đối tượng từ 12 đến 17 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 97,43%; tỷ lệ tiêm liều nhắc lại đạt 92,69%.
- Nhóm đối tượng từ 5 đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 100%; tỷ lệ tiêm mũi 2 đạt 87,01%.
1.3. Phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng, không ghi nhận ca nhiễm HIV mới. Lũy tích đến ngày 31/10/2022, tổng số nhiễm HIV/AIDS 552 người, trong đó tử vong 200 người và còn sống 352 người (quản lý được 194 người). Tổng số bệnh nhân đang được điều trị ARV 158 người (8 trẻ em), đang điều trị dự phòng lao bằng Isoniazid 02 người. Số bệnh nhân đang điều trị Methadone 40 người.
1.4. Truyền thông, giáo dục sức khỏe:
Tiếp tục triển khai hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế, Kế hoạch số 922/KH-UBND ngày 04/4/2022 của UBND tỉnh triển khai Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2022 của Chính phủ ban hành Chương trình phòng, chống dịch Covid-19; chú trọng các biện pháp phòng chống dịch sốt xuất huyết Dengue, tay - chân - miệng, bạch hầu, cúm.
Sở Y tế phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Kon Tum thực hiện 01 phóng sự tuyên truyền hưởng ứng Ngày Thị giác Thế giới năm 2022. Phối hợp với các cơ sở giáo dục tổ chức 05 lớp tập huấn về hướng dẫn phòng chống tác hại của thuốc lá cho giáo viên và học sinh các trường học (4 lớp cho huyện Đăk Glei, Tu Mơ Rông, Đăk Tô và TP Kon Tum và 01 lớp tại Trường Chính trị tỉnh Kon Tum).
Tuyên truyền chủ đề trọng tâm tháng 10/2022: Phòng chống dịch bệnh sốt xuất huyết, tiêm vắc xin phòng Covid-19; Chiến dịch truyền thông phòng chống dịch Covid-19 trong tình hình mới với chủ đề “Vì một Việt Nam vững vàng và khỏe mạnh”; Ngày Quốc tế người cao tuổi (01/10); Ngày Sức khỏe tâm thần Thế giới (10/10); Ngày Thị giác Thế giới (13/10).
1.5. An toàn vệ sinh thực phẩm: Tổ chức 03 lớp tập huấn trực tuyến về an toàn thực phẩm cho 277 người lao động, tại 32 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, bếp ăn tập thể. Giám sát chất lượng thực phẩm và tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với nhà hàng tiệc cưới, dịch vụ nấu ăn; giám sát an toàn thực phẩm phục vụ diễn tập khu vực phòng thủ và phòng thủ dân sự năm 2022; giám sát an toàn thực phẩm phục vụ Đoàn đại biểu tỉnh Attapư, Nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào. Cấp 22 Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm (cấp mới: 18 cơ sở, cấp lại: 04 cơ sở) và tiếp nhận bản tự công bố của 56 sản phẩm.
Kiểm tra, giám sát việc thu hồi lô sản phẩm thực phẩm không bảo đảm an toàn đối với 08 cơ sở kinh doanh thực phẩm chức năng trên địa bàn thành phố Kon Tum. Kết quả: Không phát hiện cơ sở có kinh doanh thực phẩm bảo vệ sức khỏe Buds Deer Velvet Halan, số lô: 020622, NSX: 21/6/2022, HSD: 21/6/2025 của Công ty Cổ phần sữa Hà Lan.
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng, không xảy ra trường hợp ngộ độc thực phẩm.
Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Công văn về việc tăng cường công tác phòng, chống bệnh Dại .
2. Lĩnh vực giáo dục
Sáng 11/11/2022, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội thảo chuyển đổi số giáo dục, các giải pháp nâng cao chất lượng quản lý và dạy học nhằm chào mừng Lễ kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 – 20/11/2022). Tham dự có hơn 300 đại biểu là đại diện các sở, ban ngành, các doanh nghiệp; các thầy giáo, cô giáo trên địa bàn tỉnh và cán bộ, chuyên gia giáo dục sáng tạo Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh: Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng. Hội thảo nhằm góp phần nâng cao nhận thức, vai trò của chuyển đổi số đối với cán bộ quản lý và giáo viên. Từ đó, có thể tạo ra nhiều mô hình quản lý, dạy học thông minh, hướng tới xây dựng một không gian hoạt động giáo dục hoàn toàn mới trên môi trường số; cùng với các ngành, các cấp thực hiện chương trình chuyển đổi số của tỉnh.
Ngày 12/11/2022, tại Trường PTDTNT tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội thi Cồng chiêng - Xoang học sinh trường Phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), Phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) chào mừng 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982-20/11/2022). Tham dự Hội thi có 18 đoàn, với hơn 1.000 học sinh đến từ các trường PTDTNT, PTDTBT trên địa bàn tỉnh. Riêng Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Kon Tum, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Đăk Hà và Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Ia H’Drai (không có trường PTDTBT) được chọn học sinh DTTS từ các trường tiểu học, THCS trên địa bàn để thành lập đơn vị tham gia.
Sáng 15/11/2022, tại Trường THPT Ngô Mây (thành phố Kon Tum), Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Báo Giáo dục và Thời đại, nhãn hàng Danisa tổ chức Lễ trao laptop tri ân thầy cô nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982-20/11/2022). Tại buổi lễ, các đơn vị đã trao 20 chiếc laptop và 78 phần quà cho giáo viên có hoàn cảnh khó khăn thuộc các trường trên địa bàn tỉnh, với tổng giá trị gần 250 triệu đồng.
Chiều 17/11/2022, Sở Giáo dục và Đào tạo đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022). Tại buổi lễ, lãnh đạo Sở GĐ&ĐT đã trình bày diễn văn ôn lại truyền thống, ý nghĩa lịch sử Ngày Nhà giáo Việt Nam và những kết quả nổi bật của ngành GD&ĐT tỉnh trong thời gian qua.
Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Công văn về việc tăng cường triển khai xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia trên địa bàn tỉnh ; Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Kon Tum .
Hội đồng nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Nghị quyết quy định mức học phí giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập năm học 2022-2023 trên địa bàn tỉnh Kon Tum .
3. Lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao
Chiều 29/10/2022, tại Khu du lịch thác Pa Sỹ (thị trấn Măng Đen), UBND huyện Kon Plông phối hợp với Nhà thiết kế thời trang Minh Hạnh tổ chức Chương trình biểu diễn áo dài và thời trang thổ cẩm Tây Nguyên. Đây là một trong những hoạt động văn hoá chào mừng kỷ niệm 110 năm Ngày thành lập tỉnh Kon Tum (9/2/1913 - 9/2/2023).Chương trình biểu diễn áo dài và thời trang thổ cẩm Tây Nguyên nhằm giới thiệu tới du khách những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum nói chung và huyện Kon Plông nói riêng.
Từ ngày 12-13/11/2022, tại Trung tâm Văn hóa Thể thao thanh thiếu niên tỉnh, Tỉnh đoàn Kon Tum tổ chức Hội thao Thanh niên năm 2022. Tham gia Hội thao có hơn 150 vận động viên là đoàn viên, thanh niên đến từ 14 đơn vị trong toàn tỉnh. Tham gia Hội thao, các đội tranh tài ở bộ môn bóng đá nam và bóng chuyền nữ.
Ngày 15/11/2022, tại Trung tâm Văn hóa thể thao thanh thiếu nhi, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức khai mạc Hội thi các môn thể thao truyền thống tỉnh Kon Tum năm 2022. Hội thi quy tụ gần 230 vận động viên đến từ 9 huyện, thành phố và đội Công an tỉnh. Tại Hội thi, các vận động viên thi đấu 5 môn thể thao truyền thống gồm bắn ná, bắn nỏ, đẩy gậy, kéo co, đi cà kheo và cùng tranh tài tất cả 30 nội dung.
Tối 16/11/2022, tại Quảng trường 16/3, UBND tỉnh đã tổ chức khai mạc Hội thi cồng chiêng, múa xoang các DTTS tỉnh Kon Tum lần thứ Nhất năm 2022 với chủ đề “Âm vang đại ngàn”. Hội thi lần này quy tụ gần 30 đội với hơn 600 nghệ nhân cồng chiêng đến từ 10 huyện thành phố trên địa bàn tỉnh, tham gia trình diễn các tiết mục dân ca, dân vũ, dân nhạc truyền thống và chỉnh chiêng.
Tối 18/11/2022, UBND tỉnh tổ chức Lễ trao tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 3 - năm 2021 và bế mạc Hội thi cồng chiêng, xoang các dân tộc thiểu số tỉnh lần thứ nhất - năm 2022 tại Quảng trường 16/3, thành phố Kon Tum. Theo công bố tại buổi Lễ, phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Nghệ nhân ưu tú” cho 14 nghệ nhân và truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Nghệ nhân ưu tú” cho 01 nghệ nhân.
4. Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương
Công tác đấu tranh ngăn chặn, xử lý các loại tội phạm tiếp tục được chỉ đạo thực hiện quyết liệt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hoạt động của tội phạm theo băng, nhóm, tội phạm liên quan đến “tín dụng đen” được đấu tranh, triệt xóa, không có băng, nhóm hoạt động phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, tình trạng tai nạn giao thông trong tháng có chiều hướng tăng so với tháng trước, cụ thể:
Phạm tội về trật tự xã hội: Phát hiện 29 vụ (giảm 09 vụ so với tháng trước), hậu quả, thiệt hại: 05 người bị thương, thiệt hại về tài sản khoảng 270 triệu đồng.
Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 01 vụ Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trên địa bàn huyện Đăk Hà (không tăng, giảm số vụ so với tháng trước), thiệt hại: 372 triệu đồng.
Phạm tội về ma túy: Phát hiện 06 vụ (giảm 05 vụ so với tháng trước), gồm: Tàng trữ trái phép chất ma túy 05 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ: 26,16g Heroine; 0,983g ma túy tổng hợp.
Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông (03 vụ nghiêm trọng; 01 vụ rất nghiêm trọng) làm 05 người chết, 01 người bị thương (tăng 02 vụ, 03 người chết; số người bị thương không tăng, giảm so với tháng trước). Thiệt hại về tài sản: Hư hỏng 03 ô tô, 02 mô tô, ước tính khoảng 85 triệu đồng.
Tình hình cháy, nổ, sự cố, tai nạn: Không xảy ra (giảm 01 vụ so tháng trước).
Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Công văn về việc tăng cường công tác quản lý, phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm về vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và pháo trên địa bàn tỉnh.
5. Tình hình môi trường
5.1. Vi phạm môi trường
Trong tháng không phát hiện vụ Vi phạm môi trường (giảm 01 vụ so tháng trước).
5.2. Tình hình thiên tai
(1). Diễn biến thiên tai: Theo báo cáo tổng hợp của Ban chỉ huy phòng chống thiên tai - tìm kiếm cứu nạn và phòng thủ dân sự tỉnh. Từ ngày 20/10/2022 đến ngày 19/11/2022 tỉnh Kon Tum không xảy ra thiệt hại do thiên tai.
(2). Tình hình thiệt hại: Trong tháng không ghi nhận thiệt hại, giảm 45.730 triệu đồng so tháng trước, giảm 1.578 triệu đồng so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế từ đầu năm, tổng giá trị thiệt hại ước tính khoảng 50.203 triệu đồng, giảm 36.065 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước.
File đính kèm: BC_so_lieu_thang_11-2022_(Kon_Tum).pdf
Cục Thống kê tỉnh Kon Tum