Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 26/06/2013-10:15:00 AM
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu tiếp tục thực hiện kế hoạch năm 2013
Báo cáo số 93/BC-UBND ngày 26 tháng 6 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình.

BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM, NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 2013

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH KINH TẾ -XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2013

I. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT

Triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế đất nước tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thị trường thu hẹp, sức mua giảm, hàng tồn kho lớn, đầu tư công thắt chặt, tín dụng tăng trưởng thấp…, UBND tỉnh đã kịp thời ban hành kế hoạch hành động triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp, ổn định đời sống nhân dân. Với sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong việc triển khai thực hiệnđồng bộ, quyết liệt các chủ trương, chính sách, các giải pháp chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, nên tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2013 có những chuyển biến tích cực và đạt những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,3% cao hơn cùng kỳ [1]; sản xuất nông nghiệp tăng trưởng ổn định, vụ Đông Xuân được mùa, sản lượng lượng thực vượt kế hoạch đề ra; sản xuất công nghiệp tuy vẫn gặp nhiều khó khăn, nhưng tăng trưởng cao hơn cùng kỳ và kế hoạch đề ra; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được chú trọng đầu tư, nhất là một số công trình trọng điểm; lĩnh vực văn hóa, xã hội có những chuyển biến tiến bộ; quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác an sinh xã hội được chú trọng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.

Tuy vậy, khó khăn của nền kinh tế đất nước đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, làm cho một số chỉ tiêu tuy có tăng trưởng nhưng chưa đạt thấp so với kế hoạch năm đề ra như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, giá trị sản xuất dịch vụ [2]. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có chuyển biến nhưng còn chậm, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. An ninh trật tự, tai nạn giao thông, tệ nạn ma túy còn diễn biến phức tạp.

Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu:

- Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,3 % (KH cả năm tăng 7,5%, thực hiện cùng kỳ 6,2 %);

- Giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp tăng 4,3% (KH cả năm tăng 4,0%, thực hiện cùng kỳ 4,4 %);

- Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân đạt 186,362 vạn tấn, vượt 7,2% KH, bằng 99,3% cùng kỳ (KH cả năm đạt 27 vạn tấn);

- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 9,8% (KH cả năm tăng 9,5%, thực hiện cùng kỳ 9,3%); chỉ số giá sản xuất công nghiệp tăng 6,1% so cùng kỳ (thực hiện cùng kỳ 5,7%);

- Giá trị sản xuất dịch vụ tăng 5,9% (KH cả năm tăng 10%, thực hiện cùng kỳ 9,2 %);

- Thu ngân sách trên địa bàn 912 tỷ đồng (dự toán cả năm 2.100 tỷ đồng), bằng 43,43 % dự toán địa phương;

- Giải quyết việc làm cho 1,79 vạn lao động, đạt 56% kế hoạch (KH cả năm 3,1 - 3,2 vạn lao động).

- Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế đạt 38,4% (KH đạt 60%); 100% trạm y tế có bác sỹ làm việc (KH cả năm đạt 100%).

- Tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,1% (tỷ lệ hộ nghèo còn 15,4%; kế hoạch giảm 3,5 -4%);

- Tỷ lệ phổ cập THCS đạt 99,4% xã, phường thị trấn (KH đạt 99,4%) [3].

II. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRÊN CÁC LĨNH VỰC

1. Công tác quy hoạch và quản lý đô thị

Công tác quy hoạch, quản lý đô thị có nhiều tiến bộ, chất lượng quy hoạch được nâng lên. Tiếp tục quản lý và triển khai thực hiện tốt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2020, các quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch xây dựng đã phê duyệt. Tích cực triển khai các bước thực hiện điều chỉnh địa giới hành chính huyện Quảng Trạch để thành lập thị xã Ba Đồn và các phường trực thuộc thị xã Ba Đồn [4]; Đề án nâng cấp đô thị thành phố Đồng Hới lên đô thị loại 2 vào năm 2015. Đã thông qua 7 đồ án quy hoạch, trong đó 02 đồ án đã được phê duyệt [5], các quy hoạch còn lại đang hoàn chỉnh để trình phê duyệt; 5/7 huyện, thành phố đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 [6]; 100% số xã đã phê duyệt quy hoạch xây dựng nông thôn mới... ; đang trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh Quy hoạch Khu công nghiệp Bắc Đồng Hới, xây dựng quy hoạch các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, thông tin truyền thông [7]...

Tuy vậy, việc xây dựng một số quy hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao; công tác công khai và quản lý thực hiện quy hoạch của một số ngành, địa phương chưa đồng bộ, chặt chẽ.

2. Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp

Trồng trọt: Đã tập trung chỉ đạo bà con nông dân gieo cấy hết diện tích, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng tăng giá trị trên 1 đơn vị diện tích [8]. Diện tích có giá trị trên 50 triệu đồng/ha tăng khá, đặc biệt ở Bố Trạch một số diện tích thu nhập trên 200 triệu đồng/ha nhờ chuyển từ trồng ngô sang trồng ớt. Thực hiện có hiệu quả việc thí điểm mô hình cánh đồng mẫu lớn tại xã Phong Thủy, huyện Lệ Thủy [9], hiện đang thực hiện thí điểm trên 340 ha tại các huyện: Quảng Ninh, Quảng Trạch. Mặc dù vào giai đoạn lúa trổ, thời tiết không thuận lợi và phát sinh một số sâu bệnh gây hại, chuột phá hoại nhưng nhờ tích cực chăm bón, phòng trừ sâu bệnh, diệt chuột nên cây trồng phát triển khá tốt và được mùa toàn diện, cả lúa, ngô và các cây trồng khác. Sản lượng lương thực đạt 186.362 tấn [10], bằng 99,3% so vụ Đông Xuân năm trước, tăng 7,2% kế hoạch. Sau thu hoạch vụ Đông Xuân, các địa phương đã tập trung triển khai sản xuất ngay vụ Hè Thu bảo đảm lịch thời vụ, diện tích gieo trồng tăng khá so cùng kỳ, đạt 13.720/17.300 ha, đạt 78,6% kế hoạch, tăng 71% so cùng kỳ.

Cây lâu năm, đặc biệt là cây cao su, phát triển khá [11], đã chú trọng cải tạo vườn tạp, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý. Các địa phương, đơn vị thực hiện chăm sóc, khai thác mủ cao su và đang chuẩn bị các điều kiện cho trồng mới cây cao su năm 2013. Đến nay, diện tích cao su đăng ký trồng mới là 800 ha, dự ước sản lượng cao su khai thác là: 3.570 tấn, tăng 13,3% so cùng kỳ.

Chăn nuôi: Tiếp tục chỉ đạo phát triển chăn nuôi phát triển theo hướng sản xuất tập trung, đã hình thành các trang trại chăn nuôi có quy mô; chất lượng của đàn gia súc được nâng lên, tỷ lệ bò lai sind chiếm tỷ trọng khá [12]. Sản lượng xuất chuồng tăng khá, đạt 28.933,9 tấn, tăng 3,5% so cùng kỳ. Đã tập trung triển khai các biện pháp phòng ngừa, khống chế dịch bệnh trên gia súc, gia cầm; tăng cường kiểm soát vận chuyển, giết mổ; đẩy mạnh công tác tiêm phòng; tăng cường hoạt động của các chốt, trạm kiểm soát liên ngành, nên cơ bản đã khống chế được dịch bệnh lây lan từ các tỉnh lân cận.

Lâm nghiệp: Đã tích cực chỉ đạo khai thác, chăm sóc, quản lý và bảo vệ rừng; triển khai kế hoạch trồng rừng và khai thác gỗ rừng trồng, gỗ rừng tự nhiên theo kế hoạch [13]. Nhìn chung, diện tích rừng trồng phát triển tốt, tỷ lệ cây sống đạt khá. Hiệu quả của kinh tế rừng ngày càng được khẳng định, đặc biệt là rừng trồng phục vụ chế biến. Nhờ thị trường tiêu thụ gỗ từ rừng trồng ổn định, các chủ rừng đã thực sự quan tâm đến công tác chăm sóc và làm giàu từ rừng, thu nhập và đời sống nhân dân ở gần rừng được nâng lên.

Thời tiết đang bước vào mùa khô hạn, nguy cơ xảy ra cháy rừng cao. Các địa phương đang đẩy mạnh triển khai công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng theo phương châm 4 tại chỗ [14]; đồng thời tăng cường kiểm tra, ngăn chặn, xử lý nghiêm các trường hợp khai thác, buôn bán, vận chuyển gỗ, động vật hoang dã trái phép, nhất là vùng ranh giới với Quảng Trị, Hà Tĩnh, các xã vùng đệm khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng [15].

Thủy sản: Sản lượng thủy sản đạt 25.139 tấn, tăng 7,7% SCK và đạt 46,6% kế hoạch.

Về khai thác: Nhờ điều kiện thời tiết khá thuận lợi và chính sách hỗ trợ theo Quyết định 48/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, bà con ngư dân đã chủ động bám biển, đầu tư đóng mới tàu công suất lớn đánh bắt vùng biển xa [16]. Mặt khác, nhờ hoạt động của Trạm giám sát hoạt động tàu cá thực hiện tốt mô hình tổ, đội, tổ hợp tác đánh cá trên biển nên hoạt động đánh bắt an toàn và có hiệu quả hơn, sản lượng đánh bắt tăng khá so cùng kỳ với nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Sản lượng khai thác đạt 22.054,4 tấn, tăng 8,1% so cùng kỳ.

Về nuôi trồng: Mặc dù diện tích nuôi trồng có giảm (4.403,5ha, bằng 97,1% SCK), nguyên nhân là do các doanh nghiệp khó khăn về vốn, nhưng nhờ tập trung chỉ đạo, hướng dẫn cải tạo xử lý ao nuôi, chuẩn bị tốt nguồn con giống, áp dụng kỹ thuật nuôi tiên tiến, tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh nên sản lượng nuôi trồng vẫn tăng so cùng kỳ, đạt 3.084,5 tấn, tăng 4,8%.

Chương trình xây dựng nông thôn mới: Đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục nỗ lực thực hiện Chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới. Đến nay, đã có 141/141 xã đã phê duyệt và công bố đồ án quy hoạch và đề án nông thôn mới cấp xã; toàn tỉnh có 105/141 xã đã được UBND huyện, thành phố phê duyệt Quy hoạch chi tiết xã, đạt 75,4%; có 124/141 xã cắm mốc chỉ giới quy hoạch, đạt 87,9%. Đang tích cực chỉ đạo để đến hết năm 2013, có 1 – 2 xã đạt tiêu chí nông thôn mới [17].

Tuy vậy, vụ Đông Xuân được mùa nhưng giá nông sản thấp, nhất là giá lúa, ảnh hưởng đến thu nhập của người dân; diện tích gieo trồng vụ Hè Thu đạt thấp so kế hoạch do hiệu quả thấp, một số nơi người dân bỏ ruộng không canh tác ở chân đất sản xuất 2 vụ lúa [18], diện tích trồng lúa tái sinh vẫn còn cao; sản xuất chăn nuôi vẫn ở quy mô nhỏ, đàn trâu, bò, lợn giảm so với cùng kỳ, nguyên nhân là do nhu cầu sức kéo giảm, giá thức ăn chăn nuôi tăng trong khi giá thịt hơi xuất chuồng không tăng, thậm chí có thời điểm giảm so cùng kỳ, tiêu thụ sản phẩm khó khăn; dịch bệnh vẫn xảy ra ở một số diện tích nuôi trồng thủy sản [19]; tiến độ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới còn chậm so với kế hoạch, chất lượng quy hoạch nông thôn mới chưa cao; công tác quản lý, bảo vệ rừng còn sơ hở, yếu kém đã xảy ra một số vụ việc tại Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Công tác tham mưu, chỉ đạo phát triển ngành nghề nông thôn còn hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức.

3. Sản xuất công nghiệp:

Sản xuất công nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn, thị trường tiêu thụ giảm... đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động SXKD của các doanh nghiệp. UBND tỉnh đã chỉ đạo triển khai các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp như: Nhà máy xi măng Áng Sơn 1, Nhà máy xi măng Vạn Ninh, Nhà máy giấy kraft, Nhà máy Cao lanh Bohemia... để các nhà máy sớm hoạt động trở lại; tổ chức làm việc với các doanh nghiệp về tình hình khó khăn, vướng mắc để có biện pháp tháo gỡ kịp thời; chỉ đạo sớm hoàn thành và đưa vào sử dụng Nhà máy bê tông dự ứng lực ly tâm Sơn Trường và Phan Vũ, Nhà máy xi măng Văn Hóa...; đang triển khai xây dựng dây chuyền 2 Nhà máy may Hà Quảng với 1.000 công nhân, dự kiến cuối năm 2013 sẽ đi vào hoạt động. Đồng thời, đã chỉ đạo thực hiện các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp và nhân dân sử dụng hàng hóa sản xuất trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là đối với sản phẩm xi măng và bia Hà Nội - Quảng Bình. Cùng với nỗ lực, cố gắng của các doanh nghiệp, sản xuất công nghiệp từng bước tháo gỡ khó khăn và đã có dấu hiệu tăng trưởng khá, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 9,8% cao hơn cùng kỳ và kế hoạch đề ra; chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 6,1% [20] (thực hiện cùng kỳ tăng 5,7%). Đây là một nỗ lực, cố gắng lớn của các cấp, các ngành và cộng đồng doanh nghiệp trong thời điểm hết sức khó khăn hiện nay.

Một số sản phẩm có mức tăng khá như: bia, gạch lát nền, đá xây dựng, xi măng... [21]. Lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn phát triển khá, tập trung vào các ngành, nghề: sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan, cơ khí nhỏ và gốm sứ, chế biến... góp phần tạo việc làm ổn định cho lao động nông thôn.

Tuy nhiên, hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế và cắt giảm chi tiêu công của Chính phủ, các doanh nghiệp thiếu vốn sản xuất kinh doanh, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ do sức mua giảm... đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản lượng sản xuất công nghiệp.

4. Các ngành dịch vụ

Hoạt động thương mại nội địa: Tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 7.859,3 tỷ đồng, tăng 14% so cùng kỳ (nếu loại trừ yếu tố tăng giá chỉ tăng 5,9%) [22]. Mạng lưới dịch vụ thương mại tiếp tục phát triển, các mặt hàng thiết yếu, mặt hàng chính sách được cung ứng đầy đủ, kịp thời. Công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường, giá cả được tăng cường. Thực hiện tốt việc công khai, niêm yết giá tại các nhà hàng, khách sạn, cơ sở lưu trú. Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; khuyến khích sử dụng các sản phẩm sản xuất trong tỉnh. Đã tổ chức thành công Hội chợ triển lãm thương mại - du lịch Quảng Bình năm 2013, góp phần quảng bá sản phẩm du lịch Quảng Bình với du khách trong và ngoài nước.

Xuất, nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu đạt 75,1 triệu USD, bằng 55,6% kế hoạch, tăng 12,5% so cùng kỳ, một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là cao su, gỗ các loại, dăm gỗ, hàng thủy sản [23], thị trường xuất khẩu chủ yếu là Trung Quốc... Kim ngạch nhập khẩu đạt 21,8 triệu USD, tăng 49% so cùng kỳ, 100% là nhập khẩu trực tiếp, mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là gỗ các loại, nguyên liệu sản xuất tân dược và một số hàng hóa khác.

Hoạt động du lịch ngày càng được đẩy mạnh, các hoạt động lễ hội được tổ chức sôi động trên địa bàn tỉnh; mạng lưới cơ sở lưu trú phát triển khá, chất lượng phục vụ được nâng lên; đã đưa vào khai thác các tuyến, điểm du lịch mới như: tuyến du lịch thung lũng Sinh Tồn - hang Thủy Cung, khám phá du lịch thiên nhiên Rào Thương - Hang Én, sông Chày - Hang Tối, chuẩn bị đưa vào khai thác tuyến du lịch khám phá động Sơn Đoòng... Đặc biệt, đã tổ chức chuỗi các sự kiện, mà điểm nhấn quan trọng là Lễ kỷ niệm 10 năm Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng được UNESCO công nhận di sản thiên nhiên thế giới và Lễ hội Hang động Quảng Bình năm 2013, đã góp phần quảng bá hình ảnh quê hương, con người Quảng Bình ra với thế giới, góp phần thu hút khách du lịch đến Quảng Bình, mở ra hướng phát triển mới cho du lịch Quảng Bình. 6 tháng đầu năm 2013, đã có 540,6 nghìn lượt khách du lịch đến Quảng Bình, tăng 3,2% so cùng kỳ, trong đó: khách du lịch lữ hành đạt 275,5 ngàn lượt khách, tăng 9%; khách quốc tế đạt 16,5 ngàn lượt, tăng 37,8% [24]. Điều này cho thấy, du lịch Quảng Bình đã từng bước khẳng định được thương hiệu và đang có sức hấp dẫn lớn đối với du khách quốc tế. Dự ước doanh thu du lịch đạt 455,36 tỷ đồng, tăng 28% so cùng kỳ.

Các loại hình dịch vụ khác: Hoạt động vận tải có nhiều tiến bộ, đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân [25], đặc biệt là vận tải biển, cảng biển và hàng không tiếp tục phát huy hiệu quả. Vietnam Airline tăng chuyến bay Hà Nội – Đồng Hới [26]; UBND tỉnh đang xúc tiến mở đường bay quốc tế Đồng Hới – Đài Bắc (Đài Loan) do Hãng Hàng không Tranasia Airline khai thác (dự kiến tháng 8/2013 đi vào hoạt động). Doanh thu vận tải ước đạt 958,6 tỷ đồng, tăng 15,2% so cùng kỳ [27]. Các loại hình dịch vụ khác như: bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khám chữa bệnh, tư vấn pháp luật... tiếp tục phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. .

Giá cả thị trường: Nhờ triển khai các giải pháp tăng cường quản lý chặt chẽ giá cả, thị trường đã góp phần ổn định và làm lành mạnh thị trường hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn, ổn định thị trường kinh doanh ngoại tệ và vàng. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 năm 2013 tăng 2,28% so với tháng 12 năm trước và tăng 7,88% so cùng kỳ.

Tuy vậy, giá trị sản xuất dịch vụ giảm mạnh, lượng khách du lịch đến Quảng Bình tăng cao nhưng hạ tầng, cơ sở lưu trú, dịch vụ chưa đáp ứng đầy đủ, nguồn nhân lực phục vụ du lịch còn thiếu, tỷ lệ lao động qua đào tạo trong lĩnh vực du lịch còn thấp; bộ máy quản lý du lịch chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; việc liên kết với các công ty lữ hành chưa thật sự chặt chẽ.

5. Xây dựng cơ bản

Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh đã giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển kịp thời, bố trí vốn tập trung, không dàn trải; tập trung bố trí trả nợ công trình hoàn thành, chuyển tiếp và một số công trình mới thực sự cần thiết, cấp bách. Trong điều kiện đầu tư công thắt chặt, UBND tỉnh đã huy động các nguồn lực để đầu tư các công trình, dự án cấp bách, tạo điều kiện để thu hút nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách nhà nước.

Trong điều kiện nguồn vốn đầu tư khó khăn, vốn hỗ trợ có mục tiêu của Chính phủ chỉ bằng 75% năm 2012, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cường công tác quản lý đầu tư các dự án sử dụng vốn NSNN, kiên quyết không điều chỉnh quy mô và bổ sung thêm các hạng mục so với quyết định phê duyệt dự án ban đầu; đã mở rộng phân cấp cho các huyện, thành phố trong phê duyệt dự án [28]; chỉ đạo nâng cao trách nhiệm các chủ đầu tư trong công tác lập dự án đầu tư, tăng cường quản lý và nâng cao trách nhiệm tư vấn khảo sát, thiết kế [29], tăng cường xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản... Tăng cường chỉ đạo công tác bồi thường, GPMB; tổ chức kiểm tra, đôn đốc các nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, dự án, tập trung vào các công trình trọng điểm của tỉnh [30]. Công tác giám sát đầu tư được tăng cường, đã tổ chức nhiều đợt giám sát đối với các chương trình dự án. Việc tạm ứng vốn được chấn chỉnh và quản lý chặt chẽ. Các dự án thi công đúng tiến độ, công tác thanh, quyết toán vốn đầu tư thực hiện khá tốt, công tác giải ngân vốn đầu tư có nhiều tiến bộ, tỷ lệ giải ngân đạt 51,6% dự toán, cao hơn so cùng kỳ.

Tuy vậy, công tác bồi thường, GPMB một số công trình, dự án còn gặp khó khăn. Năng lực tư vấn yếu, công tác thiết kế để xảy ra sai sót dẫn đến một số dự án phải điều chỉnh nhiều lần, nhiều dự án dở dang do thiếu vốn đầu tư. Một số chủ đầu tư trách nhiệm chưa cao, năng lực yếu. Công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa được các chủ đầu tư quan tâm thực hiện, thực hiện chưa đúng theo quy định.

6. Tài chính - tín dụng, ngân hàng

Tài chính: Trong điều kiện kinh tế khó khăn, đồng thời phải thực hiện các giải pháp miễn, giảm thuế, gia hạn, giãn thời gian nộp thuế theo chủ trương của Chính phủ để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đã ảnh hưởng đến thu ngân sách trên địa bàn. Trước tình hình khó khăn đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp thu, phát triển quỹ đất để tăng nguồn thu, nên thu ngân sách vẫn tăng trưởng so cùng kỳ [31]. Dự ước tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 912 tỷ đồng, bằng 43,43% so với dự toán địa phương, tăng 16,6% so cùng kỳ [32]. Tổng chi NSNN 2.907 tỷ đồng, đạt 50,04% dự toán địa phương giao [33]. Chi ngân sách được kiểm soát chặt chẽ, triển khai thực hiện tiết kiệm chi theo đúng quy định của Chính phủ. Công tác quản lý, điều hành thu, chi NSNN đã thực hiện theo đúng quy định, đáp ứng các nhiệm vụ phát triển KT-XH, tăng cường QP-AN và những nhiệm vụ quan trọng, đột xuất, góp phần tiết kiệm, phòng, chống lãng phí, tham nhũng.

Tín dụng: Hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng đã thực hiện nghiêm túc các chính sách tiền tệ, tín dụng và các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đã tập trung vốn ưu tiên cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, các dự án, doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, xuất khẩu và các đối tượng chính sách [34]. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng giảm lãi suất các khoản dư nợ cho vay cũ về mức tối đa; thực hiện gia hạn, giãn nợ, kéo dài thời hạn nợ, cho vay mới, giảm lãi suất cho vay [35] để chia sẻ, hỗ trợ doanh nghiệp. Tổ chức Hội nghị kết nối giữa ngân hàng và doanh nghiệp; làm việc với các doanh nghiệp có dư nợ lớn như: xi măng Sông Gianh, Cosevco 6, Tập đoàn Trường Thịnh... để bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Đồng thời, triển khai các giải pháp để huy động vốn, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng; rà soát, đánh giá khách hàng để đưa ra các giải pháp giải quyết nợ xấu. Thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về cho vay, huy động vốn; việc chấp hành quy định về trần lãi suất huy động, trần lãi suất cho vay với các lĩnh vực ưu tiên [36].

Tuy vậy, thu ngân sách trên địa bàn còn thấp, chưa đạt tiến độ so với dự toán ngân sách, các khoản thu chiếm tỷ trọng lớn đạt thấp, đặc biệt là thu tiền cấp quyền sử dụng do thị trường bất động sản trầm lắng. Nợ đọng thuế còn cao và có chiều hướng gia tăng . Dù lãi suất có giảm, nhưng doanh nghiệp khó tiếp cận vốn vay, chủ yếu là do các doanh nghiệp không đáp ứng các điều kiện, quy định vay vốn. Bên cạnh đó, việc thực hiện các chính sách miễn, giảm, gia hạn các chính sách của nhà nước làm hụt thu ngân sách tỉnh 65 tỷ đồng, nếu không có giải pháp kịp thời sẽ ảnh hưởng đến cân đối ngân sách.

7. Hoạt động đối ngoại và xúc tiến đầu tư

Công tác ngoại vụ: Chú trọng tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với tỉnh Khăm Muộn, Savanakhet, các tỉnh lân cận của nước bạn Lào và vùng Đông Bắc Thái... Việc quản lý đoàn vào, đoàn ra đã được thực hiện đúng quy định [37]. Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc đi công tác nước ngoài. Tạo điều kiện cho các đoàn phóng viên báo chí nước ngoài đến làm việc tại tỉnh để thực hiện các hoạt động quảng bá du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng và một số hoạt động khác.

Các dự án ODA tiếp tục được triển khai thực hiện theo kế hoạch, UBND tỉnh đã ưu tiên bố trí vốn đối ứng cho các dự án sắp kết thúc để thực hiện theo tiến độ cam kết với các nhà tài trợ [38]. Tổng số vốn các dự án ODA đã giải ngân: 324,08 tỷ đồng đạt 30% kế hoạch, trong đó vốn ODA: 263,53 tỷ đồng, vốn đối ứng 60,55 tỷ đồng. Trong điều kiện thắt chặt đầu tư công, UBND tỉnh đã chủ động làm việc với Trung ương và các nhà tài trợ để vận động, tranh thủ nguồn vốn ODA cho các dự án như: Dự án phát triển môi trường, hạ tầng đô thị để ứng phó với biến đổi khí hậu thành phố Đồng Hới (ADB), Dự án phân cấp giảm nghèo giai đoạn 3... và một số dự án khác đang tiếp tục vận động [39].

Các dự án NGO: Công tác vận động thu hút và tiếp nhận nguồn viện trợ NGO được triển khai tích cực. Trong 6 tháng đã vận động viện trợ thực hiện 13 chương trình, dự án trên địa bàn tỉnh với tổng mức đầu tư cam kết là 3,0 triệu USD, góp phần hỗ trợ sinh kế cho người khuyết tật, nạn nhân bom mìn và người nghèo, khắc phục thiên tai lụt bão, phòng chống diễn biến khí hậu, hỗ trợ sản xuất tiếp cận thị trường...

Công tác xúc tiến đầu tư: tiếp tục chỉ đạo, đổi mới phương thức xúc tiến đầu tư, cải cách thủ tục hành chính và dịch vụ công, rà soát điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Năm 2011, 2012, Quảng Bình được xếp hạng đứng đầu 63 tỉnh, thành phố về Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) [40]. Đây là điều kiện tốt để thu hút các nhà đầu tư đến với Quảng Bình trong thời gian tới. UBND tỉnh đã làm việc với một số nhà đầu tư kêu gọi được một số dự án đầu tư vào trên địa bàn tỉnh [41]; tiếp tục thực hiện các nội dung ghi nhớ với Tập đoàn Zeta Plan Hàn Quốc [42], tổ chức làm việc với Tập đoàn Coopmart và Big C để kêu gọi đầu tư các trung tâm thương mại; làm việc với các tập đoàn và công ty lớn như: Tập đoàn Devi, Công ty CCP, Tập đoàn Bruening (Đức) về dự án xử lý rác, dự án nhà nghỉ, khách sạn khu vực Bảo Ninh, tiêu thụ các sản phẩm: xi măng, cao su, thủy sản, may mặc...

Đã tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư ngoài NSNN. Tổ chức kiểm tra, tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư thúc đẩy tiến độ thực hiện các dự án trên địa bàn. Chỉ đạo kiểm tra, thu hồi đất các dự án đã quá hạn nhưng chưa sử dụng.

Tuy vậy, một số dự án ODA triển khai gặp khó khăn do cơ chế phía đối tác, đặt biệt là thiếu vốn đối ứng, chỉ đáp ứng được khoảng 26% so với nhu cầu kế hoạch năm 2013; các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư triển khai chậm, do khó khăn trong việc huy động vốn.

8. Phát triển doanh nghiệp và các thành phần kinh tế

Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn. Lãi suất ngân hàng giảm song nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn; chi phí đầu vào lớn, sản phẩm tiêu thụ chậm, chỉ số hàng tồn kho cao, dẫn đến quy mô sản xuất thu hẹp, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, thiết bị. UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, địa phương thực hiện các chính sách, giải pháp của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường (Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013), tập trung giải quyết nợ xấu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tiếp cận với nguồn vốn vay lãi suất thấp, thực hiện giãn, hoãn thuế cho các doanh nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.

Công tác đổi mới, sắp xếp DNNN: Triển khai Kết luận Hội nghị TW 6 (khóa XI) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của DNNN, đề án tái cơ cấu DNNN của Chính phủ, tỉnh đã tập trung chỉ đạo thực hiện đổi mới quản lý doanh nghiệp theo hướng nâng cao quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước, hoàn thành phê duyệt Đề án tái cơ cấu các DNNN với mục tiêu: tập trung vào ngành kinh doanh chính, chỉ ưu tiên các ngành phụ trợ làm tăng giá trị gia tăng ngành sản xuất chính, tận dụng lao động, cơ sở vật chất sản xuất hiện có để tăng thu, giải quyết việc làm cho người lao động. Chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp nhà nước xây dựng kế hoạch, biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh, tiết giảm chi phí quản lý năm 2013, coi đây là một tiêu chí để xem xét việc hoàn thành nhiệm vụ của Chủ tịch công ty, Ban lãnh đạo điều hành doanh nghiệp năm 2013.

Tiếp tục thực hiện cổ phần hóa 3 doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ theo đúng lộ trình của Thủ tướng Chính phủ. Công ty TNHH MTV Cấp thoát nước Quảng Bình, Công ty TNHH MTV Đường sông Quảng Bình tiến hành cổ phần hóa trong năm 2014, Công ty TNHH MTV Môi trường và Phát triển đô thị Quảng Bình sẽ thực hiện năm 2015.

Công tác đăng ký kinh doanh: đã thực hiện cấp giấy đăng ký kinh doanh theo cơ chế "một cửa liên thông", rút ngắn thời gian, đơn giản hóa thủ tục cho các doanh nghiệp. Trong 6 tháng đầu năm, đã cấp giấy chứng nhận ĐKKD cho 223 doanh nghiệp, tăng 36% SCK, với số vốn đăng ký 693 tỷ đồng [43]; nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký lên 3.440 DN, với tổng số vốn đăng ký hơn 14.719 tỷ đồng. Công tác hậu kiểm được chú trọng, đã tiến hành 30 đợt hậu kiểm, kiểm tra 48 doanh nghiệp, thu hồi 27 giấy chứng nhận ĐKKD, 6 tháng đã thu hồi giấy chứng nhận ĐKKD của 70 doanh nghiệp, tăng 3 lần so cùng kỳ.

Kinh tế tập thể: Kinh tế HTX, kinh tế hộ gia đình có bước phát triển, tiếp tục phát huy vai trò, vị trí của kinh tế hợp tác trong giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho xã viên, người lao động. Nhiều mô hình hoạt động của các tổ hợp tác, hợp tác xã kinh tế trang trại, liên kết hộ trong sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có hiệu quả, đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn [44].

Tuy vậy, quy mô, số lượng doanh nghiệp của tỉnh còn nhỏ, năng lực tài chính yếu (bình quân vốn đăng ký 4,2 tỷ đồng/DN), hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh còn thấp. Bên cạnh đó, do tình hình khó khăn chung, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã giải thể, tạm ngừng hoạt động [45].

9. Tài nguyên và môi trường

Công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản và môi trường được tăng cường. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất tỉnh giai đoạn 2011-2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đã thẩm định, chuẩn bị phê duyệt Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện; công tác quy hoạch sử dụng đất cấp xã gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực [46]. Đã chỉ đạo rà soát đất các nông, lâm trường, đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân và có chính sách giải quyết đất ở ổn định và giao đất sản xuất cho đồng bào dân tộc, đã thu hồi: 3.225 ha đất của Công ty TNHH MTV Lâm công nghiệp Long Đại và Bắc Quảng Bình để giao cho huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch giao cho dân thiếu đất sản xuất. Việc giới thiệu địa điểm, giao đất, cho thuê đất, kiểm tra, xử lý thu hồi đất được triển khai đúng quy định [47]. Công tác phát triển quỹ đất được đẩy mạnh để tạo nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là đất giá rẻ cho người thu nhập thấp. Thực hiện bổ sung, hoàn chỉnh công tác thống kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất toàn tỉnh năm 2012, đẩy mạnh việc đo đạc lập bản đồ địa chính, chỉ đạo đẩy mạnh việc cấp giấy CNQSD đất cho các tổ chức và cá nhân [48].

Công tác quản lý tài nguyên tiếp tục được tăng cường [49], hoạt động kiểm tra, thanh tra, khắc phục tình trạng khai thác khoáng sản trái phép được chú trọng. Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm chỉ đạo thực hiện, tiếp tục thực hiện lộ trình xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ [50].

Tuy vậy, công tác lập quy hoạch sử dụng đất cấp xã còn chậm; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất một số địa phương chưa đáp ứng kịp thời so với yêu cầu. Hoạt động quản lý và phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản ở một số nơi thực hiện chưa nghiêm túc. Công tác bảo vệ môi trường một số mặt còn hạn chế. Tình trạng khai thác cát sạn trái phép trên lòng sông còn diễn ra mở một số địa phương.

10. Giáo dục đào tạo

Tiếp tục quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trường, lớp học [51]; đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục[52]; nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ, phổ cập tiểu học - đúng độ tuổi, đẩy mạnh phổ cập giáo dục THCS, phổ cập bậc trung học [53], đến nay có 237 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia. Số lượng học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia cao và đồng đều ở các cấp học [54]. Kỳ thi tốt nghiệp THPT và bổ túc THPT được tổ chức an toàn, đúng quy chế, tỷ lệ tốt nghiệp THPT và bổ túc văn hóa đạt khá cao. Tỷ lệ đậu tốt nghiệp THPT đạt 99,05%, tỷ lệ đậu bổ túc đạt 75,49%. Công tác vận động, huy động số lượng, duy trì sỹ số các cấp học được tiến hành tích cực nên số lượng học sinh bỏ học giảm đáng kể so năm trước. Công tác xã hội hoá giáo dục ngày càng phát triển, thu hút và huy động được nguồn lực xã hội chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo.

Đào tạo đại học và trung học chuyên nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mô, cơ cấu ngành nghề. Đa dạng hóa các ngành nghề, các loại hình đào tạo, duy trì và mở rộng quy mô đào tạo. Thực hiện phân luồng học sinh sau THCS và THPT. Công tác cử tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng được chỉ đạo thực hiện đúng quy trình và thời gian quy định. Công tác liên kết đào tạo, đào tạo và bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học ứng dụng tiếp tục phát triển, quản lý chất lượng được chú trọng và chặt chẽ hơn.

Tuy vậy, công tác phổ cập giáo dục một số địa phương còn gặp khó khăn, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chất lượng giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo chưa đồng đều giữa các vùng miền và giữa các loại hình. Công tác xã hội hoá giáo dục còn thiếu cơ chế cụ thể để huy động tối đa nguồn lực trong xã hội trong phát triển giáo dục.

11. Khoa học và công nghệ

Công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ được tăng cường. Các đề tài, dự án đã tập trung vào việc ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý các đề tài, dự án khoa học, công nghệ; nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn, xét chọn, đánh giá, nghiệm thu đề tài, dự án khoa học, công nghệ. Công tác kiểm tra, thông tin, phổ biến, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ được chú trọng đúng mức. Công tác quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng được quản lý chặt chẽ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về chất lượng sản phẩm hàng hóa và đo lường; đồng thời, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở SXKD và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng [55]. Công tác xây dựng và phát triển tiềm lực KH&CN được đẩy mạnh.

Tuy vậy, tiến độ thực hiện một số đề tài còn chậm, chất lượng chưa cao, đưa vào ứng dụng thực tế còn gặp khó khăn. Công tác xã hội hóa các hoạt động khoa học công nghệ còn nhiều khó khăn.

12. Y tế và công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm chỉ đạo, chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Công tác phòng, chống dịch bệnh được tăng cường, đã chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, dịch cúm A (H1N1, H5N1), tay chân miêng và các bệnh nguy hiểm khác [56] nên chưa có dịch bệnh xảy ra [57]. Chương trình MTQG và các chương trình y tế khác được tổ chức thực hiện tích cực, bảo đảm tiến độ. Công tác khám, chữa bệnh được duy trì và thực hiện tốt, nhất là đối với người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi. Tổ chức thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm, công tác hành nghề y, dược tư nhân[58]. Công tác xã hội hóa về y tế phát triển khá, góp phần phục vụ chẩn đoán và nâng cao chất lượng điều trị. Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố [59]; các trạm y tế đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh. Thực hiện có hiệu quả công tác chỉ đạo tuyến và Đề án 1816 cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.

Tuy vậy, việc đầu tư, nâng cấp các trạm y tế xã theo lộ trình xây dựng Bộ tiêu chí Quốc gia về y tế vẫn còn nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất y tế đã được quan tâm đầu tư, nhưng chưa đồng bộ, hoàn chỉnh, điều kiện trang, thiết bị y tế ở tất cả các tuyến còn thiếu. Một số phòng khám đa khoa khu vực cơ sở vật chất hư hỏng, xuống cấp hoặc có quy mô không đáp ứng nhu cầu triển khai các hoạt động chuyên môn.

13. Văn hoá, thể thao, thông tin và truyền thông

Các hoạt động văn hoá, thông tin, phát thanh truyền hình, thể dục, thể thao tập trung vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, hướng vào kỷ niệm các ngày lễ lớn và các sự kiện quan trọng [60]. Tổ chức thành công chuỗi các sự kiện hướng tới kỷ niệm 10 năm Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Phong trào ''Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục được duy trì. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển mạnh, các hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn với nhiều hình thức ngày càng phong phú, đa dạng. Thể thao thành tích cao ngày càng được chú trọng và đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ [61].

Hoạt động quản lý báo chí, xuất bản, in và phát hành; bưu chính và thông tin truyền thông... được đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động báo chí, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt phục vụ chỉ đạo, điều hành của các cấp và nhu cầu hưởng thụ văn hóa thông tin của nhân dân. Mạng lưới bưu chính, viễn thông được đầu tư ngày đồng bộ, hiện đại, bảo đảm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và phòng, chống bão lụt [62]. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nhà nước đã được các cấp, các ngành quan tâm đẩy mạnh. Tăng cường QLNN về hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa, thông tin và truyền thông, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh ở địa phương.

Tuy vậy, việc quản lý kiểm tra chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa chưa thường xuyên; việc quản lý xây dựng hạ tầng mạng của các doanh nghiệp bưu chính viễn thông còn chưa đồng bộ; hoạt động xã hội hoá lĩnh vực văn hoá thông tin, TDTT chưa mạnh.

14. Lao động, Thương binh và Xã hội

Thực hiện tốt công tác giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo, chú trọng đào tạo nghề, tăng cường đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thời hạn..., 6 tháng đầu năm, đã giải quyết việc làm cho 17.920 lao động, đạt 56% KH [63]. Công tác an sinh xã hội, bảo trợ xã hội tiếp tục được quan tâm, đã theo dõi, nắm sát tình hình đời sống nhân dân, nhất là đời sống đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, để có biện pháp hỗ trợ kịp thời. Đã thực hiện phân bổ trên 3.250 tấn gạo của Chính phủ và các nguồn khác để hỗ trợ cứu đói cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và trong kỳ giáp hạt; hỗ trợ 1 tỷ đồng cho các hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong dịp Tết Nguyên Đán. Thu nhập và đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chương trình xây dựng nhà ở cho hộ nghèo được triển khai thực hiện tốt [64]. Tiếp tục triển khai có kết quả các hoạt động bảo vệ và chăm sóc trẻ em theo kế hoạch.

Công tác xóa đói giảm nghèo đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo. Phê duyệt và triển khai thực hiện Kế hoạch giảm nghèo giai đoạn 2013-2015, chỉ đạo rà soát kết quả hộ nghèo, hộ cận nghèo; tổ chức tập huấn hỗ trợ kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi cho các hộ nghèo; thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án tác động đến thực hiện Chương trình giảm nghèo, đưa tỷ lệ hộ nghèo 6 tháng đầu năm giảm còn 15,4%.[65]. Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tại huyện Minh Hóa tiếp tục đạt được những kết quả tích cực. Giải quyết kịp thời các chế độ chính sách, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng đạt kết quả tốt [66]. Tổ chức đón nhận và làm lễ an táng 50 hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại chiến trường Lào.

Tuy vậy, tỷ lệ hộ nghèo ở một số địa bàn còn cao, một số vùng có nguy cơ tái nghèo, lao động chưa có việc làm, chưa qua đào tạo nghề còn lớn, ý thức vượt khó đi lên thoát nghèo của một bộ phận dân cư chưa cao.

15. Thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo

Sản xuất và đời sống của đồng bào dân tộc tiếp tục được quan tâm và có bước cải thiện, chất lượng các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, thông tin phục vụ đồng bào dân tộc ngày càng được nâng lên. Đã chỉ đạo tiến hành giao đất, giao rừng cho đồng bào dân tộc ổn định sản xuất và đời sống; thực hiện hỗ trợ tín dụng cho đồng bào dân tộc phát triển sản xuất lâm nghiệp.

Công tác QLNN về tôn giáo được chú trọng. Hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Tổ chức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo cơ bản đúng quy định. Các ngành, các cấp quan tâm tạo điều kiện cho bà con giáo dân, tín đồ phật giáo tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, “sống tốt đời đẹp đạo”, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Phần lớn các chức sắc, chức việc, giáo dân, tín đồ phật tử tuân thủ quy định của pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh trật tự ở các địa phương. Việc giải quyết các nhu cầu sinh hoạt tôn giáo [67] được quan tâm giải quyết kịp thời, đúng pháp luật.

Tuy vậy, tỷ lệ hộ nghèo, tái nghèo vùng đồng bào dân tộc còn cao, ở một số vùng người dân vẫn còn nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của nhà nước. Hoạt động tôn giáo một số nơi vẫn còn vi phạm pháp luật, nhất là trong việc xây dựng các cơ sở thờ tự và công trình tôn giáo.

16. Công tác tổ chức bộ máy, xây dựng chính quyền

Tổ chức bộ máy: Công tác xây dựng chính quyền tiếp tục được tăng cường, đã tập trung chỉ đạo xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, củng cố và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở. Đã công nhận danh hiệu “Chính quyền cơ sở vững mạnh” cho 43/159 xã, phường, thị trấn. Triển khai tập huấn đề án vị trí việc làm trong các đơn vị sự nghiệp công lập, xây dựng thí điểm đề án vị trí việc làm tại một số đơn vị sự nghiệp. Quan tâm, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các trí thức trẻ tăng cường về làm Phó chủ tịch UBND các xã thuộc huyện Minh Hoá theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Chỉ đạo triển khai việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Quảng Trạch để thành lập thị xã Ba Đồn và các phường trực thuộc thị xã Ba Đồn. Kiện toàn bộ máy các tổ chức, ban chỉ đạo đảm bảo kịp thời, đúng quy định.

Công tác cải cách hành chính đã thực sự được chú trọng và có nhiều chuyển biến đáng kể. UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch rà soát thủ tục hành chính trọng tậm của tỉnh năm 2013 làm cơ sở cho việc triển khai rà soát các thủ tục hành chính, bãi bỏ, bổ sung, thay thế hoặc kiến nghị bãi bỏ, bổ sung, thay thế các quy định về thủ tục hành chính [68]. Chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động cơ chế một cửa và mở rộng thực hiện cơ chế một cửa liên thông.

Công tác thi đua khen thưởng: Chỉ đạo tổng kết phong trào thi đua và thực hiện khen thưởng thành tích công tác năm 2012, tổ chức hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước năm 2013, ký kết giao ước thi đua giữa các ngành trong khối thi đua, giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương. Phong trào thi đua yêu nước tiếp tục được đẩy mạnh [69]. Các sở, ban, ngành, địa phương đã tổ chức phát động các phong trào thi đua, lập thành tíchchào mừngkỷ niệm 65 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948-11/6/2013) Đã tổ chức sơ kết, tổng kết và trao thưởng cho các tập thể và cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện phong trào thi đua.

Tuy vậy, cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông" một số nơi hiệu quả chưa cao; cải cách thủ tục hành chính một số sở, ban ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu; chất lượng phong trào thi đua và công tác khen thưởng có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, chưa chú trọng chất lượng; một số cán bộ, công chức chưa đề cao trách nhiệm trong thực thi công vụ được giao.

17. Công tác thanh tra, tư pháp, phòng chống tham nhũng

Công tác thẩm định, góp ý văn bản QPPL được triển khai thực hiện thường xuyên, kịp thời, có chất lượng [70], đã chủ động xây dựng và tham mưu ban hành văn bản QPPL đúng quy định và tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Luật, Pháp lệnh và các văn bản QPPL, đặc biệt là chỉ đạo tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992, Luật Đất đai thiết thực, có hiệu quả. Công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật được chú trọng. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tiếp tục được đẩy mạnh và tăng cường, hoạt động ngày càng có hiệu quả [71]. Hoạt động hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và trợ giúp pháp lý đi vào nền nếp. Công tác thi hành án dân sự có chuyển biến tiến bộ.

Công tác thanh tra tiếp tục được đẩy mạnh [72]. Qua thanh tra đã phát hiện sai phạm về kinh tế với số tiền hơn 3,0 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi 1,27 tỷ đồng, giảm trừ thanh toán 75,14 triệu đống, điều chỉnh bút toán 586,35 tỷ đồng. Công tác giải quyết khiếu nại tố cáo được chú trọng, đã chỉ đạo giải quyết kịp thời theo đúng thẩm quyền của từng cấp [73]. Tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng; triển khai có hiệu quả Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020. Việc công khai, minh bạch các hoạt động của cơ quan nhà nước; thực hiện kê khai tài sản, thu nhập, công khai bản kê khai tài sản, thu nhập; thực hiện chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức theo quy định.

Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có nhiều chuyển biến tích cực. Các cấp chính quyền địa phương đã quan tâm rà soát đơn thư khiếu nại, tố cáo; xem xét, giải quyết kịp thời, đúng trình tự, thủ tục quy định. Nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp, phức tạp đã được tập trung giải quyết.

Tuy vậy, một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa chú trọng đến công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, vẫn còn một số vụ việc tồn đọng kéo dài. Một số đối tượng chưa thực hiện nghiêm túc các kết luận thanh tra. Sự phối hợp giữa các sở, ban ngành về xây dựng và thi hành pháp luật chưa tích cực, có lúc còn chậm trễ.

18. Quốc phòng, an ninh

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Công tác quân sự - quốc phòng được chú trọng đẩy mạnh thực hiện toàn diện, lực lượng vũ trang duy trì nghiêm các chế độ sẵn sàng chiến đấu. Đã tập trung chỉ đạo công tác chuẩn bị cho Diễn tập khu vực phòng thủ thành phố Đồng Hới. Phối hợp các lực lượng nắm chắc tình hình trên địa bàn tỉnh. Hoàn thành tốt các nội dung huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị cho các đối tượng theo quy định... Đã tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ chủ chốt các cấp. Tiếp tục thực hiện Dự án tăng dày, tôn tạo mốc quốc giới Việt Nam - Lào, thực hiện công tác đối ngoại biên phòng, giải quyết các vấn đề liên quan về biên giới. Tổ chức triển khai tốt các cuộc diễn tập quân sự, phòng cháy, chữa cháy rừng, tìm kiếm cứu nạn, bảo vệ chủ quyền biển đảo... theo đúng kế hoạch đề ra.

Đã triển khai thực hiện tốt kế hoạch bảo vệ tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các hoạt động KT-XH trên địa bàn; thường xuyên nắm bắt tình hình, tổ chức nhiều đợt truy quét, trấn áp tội phạm có hiệu quả; đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm: ma túy, mại dâm, tàng trữ, vận chuyển và đốt chất nổ, trộm cắp tài sản, gây rối trật tự công cộng. Tích cực triển khai các biện pháp quyết liệt nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh, tạo được những chuyển biến tích cực; tai nạn giao thông cơ bản được kiềm chế và giảm so với cùng kỳ năm trước [74]. Tình hình tội phạm có xu hướng giảm về số vụ và số đối tượng vi phạm [75].

Tuy vậy, tình hình an ninh nông thôn một số nơi diễn ra ngày càng phức tạp, nhất là những địa phương có tình hình tôn giáo, giải phóng mặt bằng, khai thác lâm sản trái phép, tranh chấp đất đai, khiếu kiện.

19. Công tác chỉ đạo, điều hành QLNN của chính quyền các cấp

Trên cơ sở chương trình, kế hoạch đề ra từ đầu năm, chính quyền các cấp đã triển khai thực hiện nghiêm túc mục tiêu và các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ [76]. Chỉ đạo công tác cải cách hành chính và dịch vụ công đạt nhiều kết quả, Quảng Bình tiếp tục đứng đầu trong số 63 tỉnh, thành về Chỉ số hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2012.

Quan tâm chỉ đạo những lĩnh vực trọng tâm, các dự án, công trình trọng điểm; tổ chức gặp gỡ để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, phấn đấu vượt qua khó khăn để hoàn thành các chỉ tiêu phát triển KT-XH đã đề ra; chỉ đạo triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới; chỉ đạo các ngành, lĩnh vực mà một số chỉ tiêu đạt thấp; chú trọng hơn trong chỉ đạo trên các lĩnh vực: Đẩy mạnh thu hút đầu tư; chỉ đạo "Tuần văn hóa, du lịch Đồng Hới" và "Năm du lịch hang động Quảng Bình" tạo điểm nhấn cho quảng bá, mời gọi đầu tư, du khách, đẩy nhanh xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng, những dự án mới trọng điểm; Tăng cường công tác quản lý thị trường, giá cả, thực hiện kịp thời các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với sản xuất và đời sống. Tập trung chỉ đạo giải quyết tích cực các vấn đề nổi cộm, các đơn thu khiếu nại tố cáo. Tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính. Đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí. Tăng cường QP - AN, giữ vững trật tự an toàn xã hội.

Mặc dù, một số chỉ tiêu, nhiệm vụ còn đạt thấp, nhất là chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế, một số lĩnh vực phát triển chưa đáp ứng yêu cầu đề ra, ngoài lý do khách quan như đã nêu trên, có một phần là do trách nhiệm, năng lực điều hành của các cấp, các ngành còn có mặt hạn chế, việc chỉ đạo, điều hành ở một số khâu, một số việc có lúc thiếu chủ động, kịp thời. Nhưng trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước, những kết quả đạt được 6 tháng đầu năm là hết sức quan trọng, tạo điều kiện cho các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và nhân dân nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, vươn lên phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết HĐND tỉnh đã đề ra cả năm 2013.

PHẦN THỨ HAI

CÁC NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KT-XH 6 THÁNG CUỐI NĂM 2013

6 tháng cuối năm 2013, tình hình kinh tế - xã hội còn có nhiều khó khăn, thách thức, thiên tai, dịch bệnh còn tiềm ẩn, khó lường. Để phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 đã đề ra, đòi hỏi phải tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp của Chính phủ, của tỉnh đã đề ra và thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây:

1. Tập trung thực hiện các giải pháp để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ, đảm bảo tăng trưởng kinh tế

Chủ động, linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP và Kế hoạch hành động của UBND tỉnh triển khai thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh tại Quyết định số 115/QĐ-UBND ngày 15/01/2013.

Tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng, tổ chức tín dụng triển khai thực hiện nghiêm các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tập trung tháo gỡ khó khăn, khơi thông nguồn vốn tín dụng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hộ sản xuất tiếp cận vốn ngân hàng; triển khai thực hiện nghiêm túc cho vay các lĩnh vực ưu tiên, các gói tín dụng lãi suất thấp để hỗ trợ doanh nghiệp. Tiếp tục xử lý nợ xấu, thực hiện điều chỉnh kỳ hạn nợ, giãn nợ cho các doanh nghiệp. Chỉ đạo các ngân hàng, tổ chức tín dụng phân tích đánh giá lại nợ xấu, làm rõ nguyên nhân trên cơ sở đó chủ động có giải pháp xử lý nhằm giảm thiểu rủi ro. Giám sát chặt chẽ hoạt động tín dụng của các chi nhánh ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng. Theo dõi, giám sát, kiểm tra về hoạt động ngoại hối và kinh doanh vàng trên địa bàn

Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước. Tập trung các giải pháp chống thất thu, nợ đọng thuế. Kiên quyết xử lý các trường hợp nợ ngân sách kéo dài, tập trung các giải pháp chống thất thu, đẩy mạnh thu các khoản nợ đọng thuế. Xử lý các đối tượng chây lì, nợ trốn thuế. Quản lý chặt chẽ chi ngân sách nhà nước, thực hiện nghiêm túc việc tiết kiệm 10% các khoản chi 7 tháng còn lại của năm 2013; kiên quyết cắt giảm hoặc lùi thời gian các khoản chi chưa thật sự cần thiết. Rà soát, sắp xếp lại các nhiệm vụ chi, tiết giảm tối đa chi phí điện nước, văn phòng phẩm, xăng dầu, tiết kiệm tối thiểu 30% dự toán kinh phí đã phân bổ cho hội nghị, tiếp khách, lễ hội, khánh tiết, đi công tác trong nước và nước ngoài.

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN, tích cực huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Thực hiện các biện pháp đẩy nhanh tiến độ thi công, giải ngân nhanh nguồn vốn đầu tư XDCB. Tăng cường huy động các nguồn vốn trong điều kiện thắt chặt đầu tư công để thực hiện các chương trình, dự án, xây dựng nông thôn mới. Thực hiện điều chuyển vốn các dự án, công trình chậm tiến độ, thu hồi các khoản tạm ứng vốn song không thực hiện hoặc thực hiện chậm theo quy định. Đề xuất ứng vốn NSNN, vốn TPCP cho các dự án đã giải ngân hết kế hoạch vốn năm 2013.

Chỉ đạo thực hiện tốt đề án tái cơ cấu DNNN đã được phê duyệt để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

2. Tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, phát triển thị trường, tiêu thụ hàng hóa

Tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết số 01/NQ-CP và số 02/NQ-CP của Chính phủ, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi trong đầu tư và kinh doanh, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2013.

2.1 Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp: Chỉ đạo thực hiện các giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm, khuyến nông, chủ động đối phó với thiên tai, dịch bệnh. Tích cực chỉ đạo gieo cấy, chăm sóc lúa vụ Hè Thu, chuẩn bị tốt các điều kiện cho sản xuất vụ Đông, Đông Xuân 2013-2014. Chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng cho người dân trong việc chuyển đổi cơ cấu giống, mùa vụ, hạn chế tình trạng người dân bỏ ruộng ở chân đất lúa 2 vụ, trồng lúa tái sinh. Mở rộng việc thí điểm mô hình cánh đồng mẫu lớn các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch. Đánh giá, rút kinh nghiệm việc triển khai thí điểm mô hình cáng đồng mẫu lớn để tiếp tục nhân rộng và nghiên cứu áp dụng mô hình cánh đồng mẫu lớn đối với các sản phẩm ớt, cây sắn...

Chỉ đạo trồng mới 800 ha cao su đảm bảo chất lượng và kịp thời vụ. Tập trung chỉ đạo khôi phục và phát triển tổng đàn, đẩy mạnh phát triển nuôi theo hình thức trang trại, công nghiệp. Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ và phát triển chăn nuôi, nhất là chính sách thụ tinh nhân tạo bò, hỗ trợ lợn nái ngoại cho các trang trại, gia trại. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, phòng chống dịch bệnh, nâng cao tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp.

Đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp. Tập trung chỉ đạo công tác bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng, nhất là vào các tháng cao điểm nắng nóng; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi nạn chặt phá rừng trái phép, vi phạm lâm luật.

Chỉ đạo phát triển mạnh kinh tế biển theo kết luận số 60- KL/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Tỉnh ủy về chiến lược biển, đẩy mạnh hoạt động khai thác thủy sản vụ Nam 2013, vụ Bắc 2013-2014. Tạo điều kiện để ngư dân khai thác vùng biển xa, đẩy mạnh nuôi trồng và chế biến, xuất khẩu thủy sản. Tăng cường công tác quản lý hoạt động tàu cá, thông tin liên lạc, cứu hộ, cứu nạn; khuyến khích thành lập, duy trì và phát triển các tổ đoàn kết; tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu chuyển đổi sản xuất nghề ven bờ. Tiếp tục thực hiện Quyết định số 188/QĐ-TTg của Thủ tướng Chỉnh phủ về Kế hoạch bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn giai đoạn 2013-2015.

Ban hành kế hoạch xây dựng nông thôn mới cấp tỉnh giai đoạn 2013-2015, đôn đốc UBND các huyện, thành phố chỉ đạo các xã thực hiện quy hoạch khu trung tâm xã, phấn đấu năm 2013 có ít nhất 90% số xã có quy hoạch được duyệt. Tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động "Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới". Phấn đấu đến hết năm 2013, có 1 xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới [77] .

2.2 Tháo gỡ khó khăn cho sản xuất công nghiệp, sớm đưa vào hoạt động các dự án đang triển khai

Tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất công nghiệp duy trì, phát triển sản xuất. Tiếp tục tháo gỡ khó khăn để Nhà máy xi măng Áng Sơn 1, Nhà máy Giấy kraft có thể trở lại hoạt động trong năm 2013. Tạo điều kiện cho các nhà máy mới hoàn thành (Nhà máy bê tông dự ứng lực ly tâm Sơn Trường và Phan Vũ) đi vào hoàn động có hiệu quả. Đẩy nhanh tiến độ để đưa vào hoạt động các dự án công nghiệp đang triển khai; đặc biệt là tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn, thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao giá trị sản xuất công nghiệp. Chỉ đạo, tạo điều kiện để dự án May Hà Quảng giai đoạn 2, Nhà máy xi măng Văn Hóa, xây dựng cơ sở hạ tầng Trung tâm Nhiệt điện Quảng Trạch hoàn thành đúng tiến độ. Chú trọng phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở các địa phương. Có chính sách và giải pháp hữu hiệu hỗ trợ và khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn hàng hóa, dịch vụ do các doanh nghiệp trong tỉnh sản xuất, trong đó tập trung vào sản phẩm bia, xi măng, dược phẩm và vật liệu xây dựng khác.

2.3 Phát triển dịch vụ, du lịch

Thực hiện các giải pháp phát triển thị trường nội địa, đưa hàng hóa về nông thôn, vùng sâu, vùng xa, thực hiện các giải pháp khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. Tích cực kêu gọi, xúc tiến để đầu tư các trung tâm thương mại, siêu thị, chợ. Có giải pháp thu mua, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp để nông dân yên tâm sản xuất. Nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ, thương mại, du lịch qua Cửa khẩu quốc tế Cha Lo. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", khuyến khích sử dụng các sản phẩm sản xuất trong tỉnh.

Kiện toàn tổ chức, bộ máy làm công tác du lịch; đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch, trước mắt mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn cho đội ngũ nhân viên nhà hàng, khách sạn; tăng cường kết nối tour tuyến với các tỉnh bạn và các tỉnh vùng Đông Bắc Thái Lan, Lào..., liên kết chặt chẽ với các công ty du lịch lữ hành trong và ngoài nước. Quản lý, khai thác tốt khu du lịch động Thiên Đường, động Phong Nha, Tiên Sơn và các tuyến du lịch mới, tập trung vào các loại hình du lịch mới như: du lịch hang động, du lịch mạo hiểm.... Nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ du lịch gắn với đảm bảo môi trường, an ninh trật tự, an toàn ở các khu du lịch. Tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ xây dựng Khu du lịch nghỉ dưỡng suối nước nóng Bang để có thể đưa vào sử dụng trong năm 2013.

Nâng cao năng lực và chất lượng trong phục vụ, an toàn trong vận chuyển hành khách, hàng hoá. Tiếp tục phát huy hiệu quả tuyến bay Đồng Hới - Hà Nội; Đồng Hới - TP Hồ Chí Minh. Phối hợp với Hãng Hàng không Tranasia Airline Đài Loan để mở đường bay quốc tế Đồng Hới - Đài Bắc, phấn đấu đưa vào hoạt động trong tháng 8/2013.

2.4 Đẩy mạnh công tác đối ngoại và xúc tiến đầu tư

Đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án ODA đang hoạt động. Tập trung tháo gỡ khó khăn cho các chương trình, dự án còn nhiều vướng mắc về thủ tục thực hiện và giải ngân. Hoàn thiện các thủ tục về vay vốn Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) để triển khai thực hiện dự án Phát triển môi trường, hạ tầng đô thị ứng phó biến đổi khí hậu thành phố Đồng Hới.

Các hoạt động xúc tiến đầu tư tiếp tục hướng vào các nhà đầu tư có năng lực, tâm huyết với thông điệp "Quảng Bình luôn đồng hành với các nhà đầu tư, nhà tài trợ trong suốt quá trình triển khai, thực hiện dự án sản xuất kinh doanh" . Trên cơ sở danh mục dự án kêu gọi đầu tư giai đoạn 2011-2015, tập trung phát huy thế mạnh về giá trị tài nguyên, sức hấp dẫn của các dự án mà tỉnh có lợi thế như: du lịch hang động, du lịch biển, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến khoáng sản, nông - lâm - thủy sản.... Triển khai đề án Trung tâm Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thực hiện các thủ tục đầu tư. Tập trung chỉ đạo công tác bồi thường, hỗ trợ, GPMB tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai các dự án, nhất là nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 A đoạn qua địa phận Quảng Bình, Trung tâm Nhiệt điện Quảng Trạch.

3. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng vốn đầu tư, giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản

Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thực hiện dự án theo số vốn được bố trí. Kiểm soát chặt chẽ phạm vi, quy mô của từng dự án, không quyết định đầu tư khi chưa xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối vốn của từng cấp ngân sách. Rà soát các dự án đang thực hiện, hoàn thành tại điểm dừng kỹ thuật hợp lý phù hợp với khả năng nguồn vốn, nhất là các dự án sử dụng vốn hỗ trợ có mục tiêu của Chính phủ, trái phiếu Chính phủ. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch và lộ trình xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản theo quy định. Phấn đấu đến năm 2015 giải quyết cơ bản nợ đọng xây dựng cơ bản, từ năm 2013 trở đi không phát sinh nợ đọng.

Tăng cường công tác giám sát, đánh giá đầu tư, xem xét không điều chỉnh dự án và bố trí kế hoạch vốn cho các dự án không có báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư theo quy định. Tăng cường thanh tra, kiểm tra các công trình, dự án để kịp thời phát hiện và xử lý triệt để các trường hợp vi phạm. Chấn chỉnh và tăng cường quản lý tạm ứng và hoàn trả tạm ứng vốn đầu tư XDCB.

4. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, xã hội

4.1. Giáo dục đào tạo: Tiếp tục triển khai thực hiện “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Tổ chức tốt kỳ thi các kỳ tuyển sinh vào THPT, Đại học Quảng Bình, Trung học chuyên nghiệp, dạy nghề theo đúng quy định. Thực hiện tốt Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Bình thời kỳ 2011- 2020. Đẩy mạnh việc xây dựng xã hội học tập. Chấn chỉnh tình trạng dạy thêm, học thêm. Nâng cao chất lượng giáo dục, thu hút các nguồn lực để thực hiện xã hội hóa giáo dục.

Thực hiện Quy hoạch lại mạng lưới đào tạo nghề. Thực hiện việc sát nhập 3 trung tâm: dạy nghề, giáo dục thường xuyên và kỹ thuật thực hành – hướng nghiệp ở cấp huyện theo chỉ đạo của Chính phủ. Triển khai thực hiện Đề án thành lập Trường Cao đẳng nghề.

4.2 Khoa học công nghệ:

Tiếp tục triển khai Chiến lược phát triển khoa học công nghệ, Chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ cao. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về khoa học công nghệ. Thực hiện tốt các đề tài khoa học, nâng cao khả năng ứng dụng vào thực tế sản xuất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Khuyến khích doanh nghiệp sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm năng lượng. Chú trọng hoạt động ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ. Tăng cường quản lý đo lường chất lượng và sở hữu trí tuệ.

4.3 Văn hóa, thể thao, thông tin và truyền thông

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa, thể thao, thông tin và truyền thông, hướng vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị của tỉnh, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Chú trọng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Xây dựng, nâng cao đời sống văn hóa cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; triển khai Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Triển khai Chương trình hành động về phát triển mạnh mẽ thể dục, thể thao. Phát triển thể thao thành tích cao. Triển khai công tác chuẩn bị cho các hoạt động kỷ niệm 410 năm thành lập tỉnh Quảng Bình, 25 năm tái lập tỉnh, 55 năm Đường Trường Sơn trong năm 2014.

Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong chỉ đạo, điều hành của các cơ quan Nhà nước. Đề cao vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng. Các ngành, địa phương chủ động thông tin về chỉ đạo điều hành; thực hiện trách nhiệm giải trình, cơ chế người phát ngôn; cung cấp kịp thời, công khai, minh bạch cho các cơ quan báo chí. Thực hiện chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.

4.4 Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân

Tăng cường công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, củng cố và nâng cao hiệu quả mạng lưới y tế dự phòng, chủ động phòng chống dịch bệnh. Triển khai có hiệu quả Chương trình MTQG phòng chống HIV/AIDS và các Chương trình MTQG khác. Thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân và các biện pháp giảm quá tải bệnh viện. Tăng cường công tác giám sát và chủ động phòng chống các loại dịch bệnh như cúm A (H1N1, H5N1, H7N9), sốt xuất huyết... Tiếp tục sắp xếp, bố trí bác sĩ về làm việc tại trạm y tế xã, ban hành Chính sách thu hút, ưu đãi bác sĩ làm việc tại trạm y tế tuyến xã trên địa bàn tỉnh. Tăng cường thanh tra, kiểm tra chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm. Chỉ đạo các đơn vị xây dựng kế hoạch đấu thầu thuốc năm 2014.

4.5 Lao động, Thương binh và Xã hội

Tiếp tục triển khai Bộ Luật Lao động (sửa đổi) và Pháp lệnh ưu đãi người có công (sửa đổi). Thực hiện có hiệu quả Chương trình MTQG về việc làm, dạy nghề, chiến lược phát triển dạy nghề đến năm 2020, đẩy mạnh dạy nghề, gắn dạy nghề với tạo việc làm cho người lao động. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách trợ giúp xã hội, người có công và các đối tượng chính sách. Thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng khó khăn. Đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng; tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 66 năm ngày Thương binh liệt sỹ. Ngăn chặn và đẩy lùi các hành vi xâm hại, mua bán phụ nữ và trẻ em, quan tâm công tác bình đẳng giới.

5. Tăng cường quản lý nhà nước về đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu

Triển khai thực hiện có hiệu quả Quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 - 2020 và Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 - 2015 của tỉnh. Tiếp tục thực hiện tốt công tác giới thiệu địa điểm, giao đất, cho thuê đất. Tập trung đẩy mạnh thực hiện các dự án phát triển quỹ đất, góp phần giải quyết nhu cầu đất ở cho nhân dân và tăng nguồn thu cho tỉnh. Trọng tâm là hoàn thành dự án tạo quỹ đất khu đô thị phía Bắc đường Lê Lợi; Dự án khu dân cư tỉnh lộ 2, thị trấn Hoàn Lão, huyện Bố Trạch.

Triển khai Nghị quyết TW7 (khóa XI) về chủ động ứng phó biến đổi khí hậu; thực hiện tốt Nghị quyết của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Chiến lược phát triển bền vững, Chiến lược tăng trưởng xanh. Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu. Kiểm soát chặt chẽ việc quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường; tăng cường công tác thanh, kiểm tra các tổ chức, cá nhân, chấn chỉnh tình trạng khai thác khoáng sản trái phép, vi phạm các quy định về ký quỹ phục hồi môi trường sau khai thác. Nâng cao khả năng phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.

6. Đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, tư pháp, phòng chống tham nhũng, lãng phí

Tiếp tục triển khai thanh tra theo kế hoạch. Theo dõi, đôn đốc các đối tượng được thanh tra thực hiện nghiêm túc các kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra. Duy trì, nâng cao chất lượng công tác tiếp công dân; xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng quy trình, giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, kéo dài. Đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện kê khai tài sản, thu nhập, chuyển đổi vị trí công tác theo quy định. Tăng cường thanh tra, giải quyết tố cáo để phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng.

Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý; công tác thẩm định, rà soát, kiểm tra văn bản QPPL. Tăng cường QLNN đối với công tác pháp chế, công chứng, chứng thực, bán đấu giá tài sản; QLNN về giám định, luật sư, tư vấn pháp luật. Thực hiện chuyển giao công tác kiểm soát TTHC theo Nghị định 48/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ. Triển khai thực hiện nghiêm Luật xử lý vi phạm hành chính và Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

7. Công tác phòng chống lụt bão và khắc phục thiệt hại

Kiểm tra, sửa chữa và gia cố các công trình trước mùa mưa bão để chủ động phòng, chống lụt bão. Tập trung đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành các công trình vượt lũ, xây dựng các phương án di dân trong những vùng có nguy cơ cao để phòng chống bão lũ, đặc biệt ở các vùng dễ bị lũ quét, vùng cửa sông.

Thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình thời tiết để cảnh báo nhân dân, chủ động phòng tránh, ứng phó với mọi tình huống. Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 05/6/2013 về công tác phòng, chống thiên tai, lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn năm 2013. Triển khai kịp thời các giải pháp phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn theo phương châm 4 tại chỗ, chủ động phòng tránh - đối phó kịp thời - khắc phục khẩn trương. Chủ động chuẩn bị tốt các phương tiện, trang thiết bị thông tin liên lạc, các vật tư, nhu yếu phẩm... để phòng, chống có hiệu quả khi có lụt bão xảy ra.

8. Triển khai xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2014: Dự báo tốt tình hình, gắn yếu tố tăng trưởng ổn định với xoá đói giảm nghèo, tái cơ cấu nền kinh tế. Quy trình kế hoạch phải được bàn bạc, thảo luận kỹ và có quyết tâm cao trong việc xác định các chỉ tiêu nhiệm vụ với mức phấn đấu cao nhất, phù hợp tình hình thực tế nhằm hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 2010-2015.

9. Tăng cường quốc phòng, an ninh

Tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng, an ninh, chủ động nắm chắc tình hình, địa bàn, xử lý kịp thời, hiệu quả các vấn đề xảy ra. Kiên quyết ngăn chặn và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm quy chế biên giới đất liền và trên biển. Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân. Thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội một cách đồng bộ, tổ chức truy quét các loại tội phạm; chú trọng phòng chống tội phạm ma túy ở các địa bàn phức tạp. Tập trung xây dựng thôn, xóm, làng, bản, cụm dân cư vững mạnh, phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, trưởng thôn, công an viên và cán bộ xã đội để triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển KT-XH và công tác quốc phòng an ninh ở cơ sở.

Tập trung tăng cường công tác quản lý, tuần tra kiểm soát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trật tự ATGT nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông, nhất là giảm số người chết, người bị thương; nâng cao trách nhiệm của chính quyền, đoàn thể các cấp và của từng gia đình trong việc thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn giao thông. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc thực hiện các điều kiện kinh doanh vận tải hành khách. Thực hiện rà soát một số tuyến đường, điểm giao cắt không an toàn, hay xảy ra tai nạn để có biện pháp điều chỉnh vị trí giao cắt, phân luồng hợp lý.

10. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

Tập trung chỉ đạo những lĩnh vực, chỉ tiêu còn đạt thấp; các dự án trọng điểm, những vấn đề nổi cộm, bức xúc, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Nâng cao hiệu qủa và chất lượng hoạt động công vụ, nâng cao trách nhiệm của các sở ban ngành trong việc tham mưu cho UBND tỉnh, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách. Bảo đảm sự chỉ đạo điều hành thống nhất kịp thời, sâu sát, tập trung hướng về cơ sở. Nâng cao chất lượng cán bộ công chức, viên chức; đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước; kiên quyết chấn chỉnh, khắc phục những biểu hiện tắc trách trong giải quyết công việc; chỉ đạo thực hiện nghiêm quy chế dân chủ cơ sở, bảo đảm công khai, dân chủ, công bằng, thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động của tỉnh về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của bộ máy nhà nước gắn với thực hiện tốt nghị quyết Trung ương IV (khóa XI) về một số giải pháp cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.

Nhiệm vụ còn lại của kế hoạch KT-XH năm 2013 là hết sức nặng nề trong điều kiện gặp nhiều khó khăn đòi hỏi sự đồng thuận, đoàn kết, nỗ lực cao của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp và toàn thể cán bộ, nhân dân trong tỉnh để hoàn thành các chỉ tiêu KT-XH đã đề ra. Tích cực chuẩn bị cho việc xây dựng, tổng hợp kế hoạch phát triển KT-XH, dự toán ngân sách Nhà nước năm 2014, kế hoạch vốn đầu tư 2014 và ứng phó với các diễn biến phức tạp của thời tiết, dịch bệnh, biến động thị trường, phục hồi kinh tế chậm... Phấn đấu hoàn thành kế hoạch năm 2013, tạo đà phát triển mạnh mẽ, vững chắc để hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm 2011-2015 mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đã đề ra./.



[1] 6 tháng đầu năm 2012, tốc độ tăng trưởng GDP là 6,2%

[2] 6 tháng chỉ tăng 5,9%, cùng kỳ tăng 9,2%. Nguyên nhân giá trị sản xuất dịch vụ tăng trưởng thấp so cùng kỳ: một là, sức mua của người dân giảm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ 6 tháng đầu năm 2013 tăng 14%, nếu loại trừ yếu tố giá chỉ tăng 5,9% (6 tháng đầu năm 2012 tăng 23%, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,7%); hai là, doanh thu các ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản đạt thấp hơn năm 2012; ba là, 6 tháng đầu năm 2012 lương cơ bản tăng 26,5%, nhưng năm nay tiền lương không tăng, cùng với chủ trương cắt giảm chi tiêu công của Chính phủ cũng tác động bất lợi đến tăng trưởng dịch vụ, làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế.

[3] Một số chỉ tiêu như: cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ dân cư thành thị được sử dụng nước sạch, tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sạch và hợp vệ sinh, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng và tỷ lệ che phủ rừng do mới 6 tháng nên chưa đủ điều kiện để tổng hợp, xin báo cáo với HĐND tỉnh vào kỳ họp cuối năm.

[4] Bộ Nội vụ đã có Công văn số 1734/BNV-CQĐP ngày 17/5/2013 trình Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương lập Đề án điều chỉnh địa giới hành chính huyện Quảng Trạch để thành lập thị xã Ba Đồn.

[5] Đã phê duyệt: Điều chỉnh QH chung xây dựng thị trấn Ba Đồn mở rộng và vùng phụ cận đến năm 2030, huyện Quảng Trạch; QH chi tiết xây dựng Khu công nghiệp Cam Liên, huyện Lệ Thủy tỷ lệ 1/2.000. 05 đồ án đã nghe báo cáo: QH chung xây dựng thị trấn huyện lỵ mới Quảng Trạch đến năm 2030; Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh đến năm 2030; QH chi tiết và cắm mốc chỉ giới QH trục đường 36 m, nối từ Quảng Phú – Lộc Ninh – KCN Tây Bắc Đồng Hới – Phan Đình Phùng, tỷ lệ 1/2.000; QH chung xây dựng Vườn QG Phong Nha – Kẻ Bàng đến năm 2025; QH chung xây dựng KKT Cửa khẩu Cha Lo đến năm 2030.

[6] Các huyện, thành phố đã phê duyệt quy hoạch gồm: Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy và Đồng Hới. 02 huyện còn lại (Quảng Trạch, Minh Hóa) đã tổ chức thẩm định, đang hoàn chỉnh để trình phê duyệt.

[7] QH tổng thể phát triển ngành văn hoá, TDTT đến năm 2020, QH phát triển sự nghiệp Giáo dục đào tạo tỉnh đến năm 2020, Quy hoạch hạ tầng viễn thông tỉnh Quảng Bình đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; rà soát QH 3 loại rừng...

[8] Diện tích gieo trồng thực hiện 53.662 ha, tăng 0,1% so cùng kỳ. Trong đó: lúa 29.044,4 ha, tăng 0,6%; ngô và cây lương thực có hạt khác bằng 96,8%; cây lấy củ có chất bột bằng 98,3%; cây mía tăng 6,7%; cây thuốc lá bằng 80%; cây lấy sợi 5 ha, tương đương năm ngoái; cây có hạt chứa dầu tăng 1,6%; cây rau đậu, hoa, cây cảnh tăng 2,2%; cây hàng năm khác bằng 99,1% so cùng kỳ.

[9] Năng suất đạt trên 75 tạ/ha.

[10] Trong đó: Thóc đạt 166.620 tấn, vượt 7,2% so kế hoạch, bằng 99,3% so cùng kỳ. Lương thực khác 19.742 tấn, bằng 99% so cùng kỳ, tăng 7,8% so kế hoạch. Các cây trồng khác đều tăng so cùng kỳ.

[11] Diện tích cây lâu năm: 22.669,8 ha, tăng 9,7% SCK; trong đó, diện tích cao su có: 17.579,1 ha, tăng 11,6%.

[12] Đến thời điểm 01/4/2013: tổng đàn trâu 32.401 con, bằng 97,1%; tổng đàn bò 92.135 con, bằng 95,6%; đàn lợn 348.916 con, bằng 98,5%; đàn gia cầm 2.401 ngàn con, tăng 2,2% so cùng kỳ.

[13] Dự ước sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng đạt 78.062m3, tăng 23,7%; sản lượng nhựa thông khai thác 2.150 tấn, bằng 84,8% so cùng kỳ; sản lượng song mây khai thác 170 tấn, bằng 37,7% so cùng kỳ. Diện tích rừng được chăm sóc 14.164 ha, tăng 0,1%; số lượng cây trồng phân tán 2.106 ngàn cây, tăng 3% SCK.

[14] toàn tỉnh chỉ xảy ra 01 vụ cháy rừng tại thôn Xuân Sơn xã Sơn Trạch với diện tích bị cháy 1,1 ha

[15] Tính đến 31/5/2013, đã phát hiện và lập biên bản xử lý 557 vụ vi phạm lâm luật; tịch thu 771,5 m3 gỗ các loại, 265,8kg động vật hoang giã, 1.837kg Huê, số tiền thu được 4,53 tỷ đồng.

[16] đến nay đã có 292 tàu cá được lắp đài tàu, trong đó đã có 222 tàu đã vào hoạt động trên vùng biển xa; đã thẩm định 13 đợt, giải ngân 24,8 tỷ đồng. Toàn tỉnh hiện có 4.149 tàu cá trong đó tàu >20CV là 1.553 chiếc, 6 tháng đầu năm đóng mới 13 tàu cá, cải hoán, thay máy 46 tàu cá.

[17] Sau 2 năm triển khai, toàn tỉnh có 1 xã đạt 17/19 tiêu chí, chiếm 0,7%; 5 xã đạt 13-16 tiêu chí, chiếm 3,5%; 16 xã đạt 10-12 tiêu chí, chiếm 11,3%; 83 xã đạt 5-9 tiêu chí, chiếm 58,9%; 37 xã đạt dưới 5 tiêu chí, chiếm 25,5%.

[18] cá biệt như ở thôn Thống Nhất, xã An Ninh, HTX đã tiến hành làm đất 40 ha nhưng nông dân vẫn không sản xuất; xã Đại Trạch đang bỏ hoang khoảng 50 ha… Sản xuất lúa tái sinh có chiều hướng tăng, ở Lệ Thủy 8.500/5.620 ha kế hoạch, Quảng Ninh: 1.000/200 ha kế hoạch.

[19] Mặc dù, 86% lượng tôm giống thả nuôi được kiểm dịch, tăng 12% so cùng kỳ, nhưng đến nay, diện tích nuôi tôm bị bệnh 33,27ha, bằng 200% so CK.

[20] Ngành khai thác quặng kim loại tăng 12%; ngành sản xuất đồ uống 9,4%; ngành sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 8,6%; khai khoáng khác (đá xây dựng) tăng 8,6%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải tăng 6,5%; ngành sản xuất trang phục tăng 5,5%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 5,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 4,2%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 0,9%...

[21] Quặng Titan tăng 12%; các hợp chất từ cao su tăng 46,2%; sản xuất bia đóng chai tăng 9,9%; đá xây dựng tăng 8,6%; xi măng tăng 4,1%; nước khoáng tăng 3,3%; tinh bột sắn tăng 1,8%; gạch lát nền tăng 2,6%; gạch tuynel (không kể gạch block bằng xi măng) giảm 5,6%; điện thương phẩm tăng 3,1%; nước máy sản xuất tăng 5,4% so cùng kỳ. Mực đông lạnh giảm 7,8%.

[22] 6 tháng đầu năm 2012 tăng 23% so cùng kỳ, nếu loại trừ yếu tố tăng giá tăng 9,7%

[23] Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: Cao su 15,5 ngàn tấn, tăng 32,6%; gỗ các loại 7,3 ngàn m3, tăng 22%; Dăm gỗ khô 110,1 ngàn tấn, bằng 87%; thuỷ sản 304,9 tấn, gấp 2,4 lần SCK.

[24] Khách du lịch lữ hành quốc tế ước đạt 17,6 ngàn lượt, tăng 64,7% so cùng kỳ.

[25] Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có 17 doanh nghiệp và hợp tác xã kinh doanh vận tải khách theo tuyến cố định gồm: 04 doanh nghiệp kinh doanh vận tải khách bằng taxi, 13 doanh nghiệp ngoại tỉnh cùng khai thác các tuyến cố định. Mỗi ngày có trên 258 chuyến xe khách xuất bến, với 376 xe của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tham gia hoạt động.

[26] Từ ngày 01/6/2013, Vietnam Airline khai thác 1 ngày 2 chuyến bay Hà Nội – Đồng Hới và ngược lại

[27] Trong đó doanh thu vận tải đường bộ ước đạt 903,8 tỷ đồng, doanh thu vận tải đường thủy ước đạt 27,4 tỷ đồng, doanh thu kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 27,4 tỷ đồng.

[28] Từ ngày 16/02/2013, đã phân cấp cho Chủ tịch UBND thành phố phê duyệt dự án có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ; Chủ tịch UBND các huyện phê duyệt dự án có tổng mức đầu tư dưới 10 tỷ; Chủ tịch UBND cấp xã phê duyệt dự án có tổng mức đầu tư dưới 1 tỷ đồng.

[29] chỉ đạo thành toán chi phí cho công tác tư vấn được thanh toán lần đầu tiên không quá 50% giá trị hợp đồng, các lần thanh toán sau theo tỷ lệ vốn được bố trí trên tổng mức đầu tư dự án được duyệt.

[30]Dự án Cầu Trung Quán, Trung tâm nhiệt điện Quảng Trạch I, Tỉnh lộ 16, Đường Mai Thuỷ - An Thuỷ, đường nối Khu Kinh tế Hòn La với khu xi măng tập trung Tiến - Châu - Văn Hoá,... Các công trình quan trọng khác như: Cầu Nhật Lệ 2, Trụ sở Tỉnh ủy, ... cũng đang tích cực triển khai thực hiện dự án.

[31] Có 4/14 khoản thu đạt tiến độ đề ra, 8/14 khoản thu tăng trưởng khá so cùng kỳ, trong đó có một số khoản thu chính như: thu thuế CTN ngoài QD, thu DNNN Trung ương, thu tiền thuê đất...

[32] Trong đó: thu nội địa 742,0 tỷ đồng, tăng 10,1% SCK, đạt 40,39% dự toán địa phương (thu DNNN TW 65 tỷ đồng, tăng 9,9% SCK, đạt 41,94% dự toán; thu DNNN ĐP 52,7 tỷ đồng, tăng 15,4% SCK, đạt 31,37% dự toán; thu ngoài QD 203 tỷ đồng, tăng 69,8% SCK, đạt 45,62% dự toán; thu tiền cấp quyền SD đất 140 tỷ đồng, bằng 83,9% SCK, đạt 24,39% dự toán năm...); thu thuế xuất, nhập khẩu 185 tỷ đồng, tăng 52,2% cùng kỳ, đạt 61,7% dự toán.

[33] Trong đó: chi đầu tư phát triển 316,1 tỷ đồng, đạt 40,08% dự toán; chi thường xuyên 1.933,8 tỷ đồng, đạt 50,61% dự toán.

[34] Dự ước đến 30/6/2013, tổng nguồn vốn huy động: 14.500 tỷ đồng, tăng 1,14% so đầu năm và tăng 20% so cùng kỳ; dư nợ cho vay: 16.900 tỷ đồng, tăng 0,5% so đầu năm. Kết quả đến cuối tháng 5/2013: cho vay nông nghiệp, nông thôn dư nợ đạt 2.063,7 tỷ đồng, chiếm 12,3% tổng dư nợ; cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách dư nợ đạt 2.095,4 tỷ đồng, chiếm 12,4% tổng dư nợ; cho vay theo NQ 30a dư nợ đạt 67,5 tỷ đồng.

[35] Cuối tháng 4/2013, tỷ lệ nợ xấu chiếm 1,6% tổng dư nợ; nợ nhóm 2 là 2.673 tỷ đồng, chiến 15,9% tổng dư nợ

[36] lĩnh vực được ưu tiên gồm: nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp hỗ trợ;doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao

[37] Trong 6 tháng đầu năm đã giải quyết thủ tục cho 22 đoàn ra với 174 lượt người xuất cảnh ra các nước ngoài với mục đích để xúc tiến đầu tư, dự hội nghị, khảo sát tình hình, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, tham quan học tập kinh nghiệm và đã có 101 đoàn vào với 585 lượt khách nước ngoài đến thăm, tham dự hội nghị và làm việc tại Quảng Bình.

[38] Các dự án kết thúc năm 2012 đang làm thủ tục thanh quyết toán: Dự án Thủy lợi Thượng Mỹ Trung, Dự án Đường từ thị trấn Kiến Giang đi Quy Hậu - Văn Thủy - Mỹ Thủy; Dự án cung cấp thiết bị cho Trường Trung cấp nghề Quảng Bình; các dự án chuẩn bị kết thúc năm 2013: DA Phát triển NTTH miền Trung tỉnh; DA Phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông Mê Kông.; Các dự án mới đang được khởi động như: Dự án Đường từ xã Hưng Thủy đi Liên Thủy, Dự án đầu tư xây dựng công trình khu neo đậu tránh trú bão Nhật Lệ đang triển khai các thủ tục để khởi động dự án.

[39] Dự án đầu tư công trình Rào Nan (WB), Dự án Phát triển nông thôn bền vững vì người nghèo tỉnh, Dự án phát triển hạ tầng thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh (AFD); Dự án Cải thiện hạ tầng nông thôn bền vững các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị (ADB), Dự án thoát nước và vệ sinh thị trấn Kiến Giang, huyện Lệ Thủy, thị trấn Quán Hàu huyện Quảng Ninh

[40] Đây là bộ chỉ số đo lường và đánh giá tính hiệu quả về quản trị và hệ thống hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam dựa vào cảm nhận và trải nghiệm của người dân khi thực hiện giao dịch với cơ quan hành chính Nhà nước do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam phối hợp với Trung tâm bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học, Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ trợ cộng đồng tổ chức khảo sát và đánh giá.

[41]gồm: Dự án khu du lịch sinh thái Bàu Rèng của công ty TNHH XDTH Thành Hưng, Dự án Nhà máy đóng tàu Composite để khai thác thủy sản và Dự án Khu du lịch sinh thái văn hóa tâm linh đền Liễu Hạnh Công Chúa của Công ty TNHH 1TV Nam Khánh, Dự án xây dựng vùng nguyên liệu tập trung - chế biến gấc xuất khẩu của Công ty CP Nông nghiệp Đông Phương.

[42] Khảo sát các dự án phát triển du lịch, chuyển giao kỹ thuật vật liệu mới thi công đường giao thông tại huyện Bố Trạch; ký kết tài trợ không hoàn lại 10 biển hướng dẫn giao thông, thực hiện chương trình hợp tác đào tạo với Đại học Mokpo, Hàn Quốc.

[43] Trong đó có 103 Công ty TNHH 2TV, 81 Công ty TNHH 1TV, 14 Công ty cổ phần, 25 doanh nghiệp tư nhân.

[44] Tính đến nay, có 281 HTX, 6 tháng đầu năm không thành lập mới HTX. Hiện nay có 620 trang trại theo tiêu chí mới. (302 trang trại trồng trọt; 52 tr.trại chăn nuôi; 53 tr.trại NTTS; 7 tr.trại lâm nghiệp và 206 tr.trại tổng hợp.

[45] Theo kết quả điều tra doanh nghiệp, toàn tỉnh có 2.459 DN đang thực tế hoạt động, 46 DN đang trong quá trình đầu tư chưa đi vào SXKD, 102 DN đã giải thể, 119 DN chờ giải thể, 90 DN không tìm thấy địa chỉ

[46] Đến nay đã có 135 xã được UBND huyện phê duyệt, còn 6 xã của TP Đồng Hới chưa phê duyệt.

[47] Đã giới thiệu địa điểm cho 26 công trình, dự án; giao đất cho 32 công trình với diện tích đất thu hồi 60,17 ha, diện tích đất đã giao 2.521,14 ha; cho thuê đất 22 công trình với diện tích 168,7 ha. Trích đo địa chính phục vụ GPMB cho 18 dự án, diện tích 58,95 ha.

[48] Tỷ lệ cấp giấy CNQSD đất toàn tỉnh 94,62%, trong đó ở đô thị đạt 93,37%; nông thôn đạt 92,43%, đất nông nghiệp đạt 87,3%, đất lâm nghiệp: 88,17%; đất cho các tổ chức đạt 98,05% về diện tích.

[49] Đã cấp 24 giấy phép hoạt động khoáng sản, trong đó: có 3 giấy phép thăm dò khoáng sản, 4 giấy phép phê duyệt trữ lượng, 17 giấy phép khai thác khoáng sản

[50] Đã tổ chức các hoạt động hưởng ứng kỷ niệm Ngày Môi trường thế giới (5/6), Ngày quốc tế đa dạng sinh học (25/6).; xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; triển khai các dự án xử lý ô nhiễm môi trường…

[51] Toàn tỉnh có 615 trường và cơ sở giáo dục; 100% xã, phường, thị trấn thành lập Trung tâm học tập cộng đồng. Số phòng học văn hóa được kiên cố đạt tỷ lệ 68,3%; số phòng học, phòng công vụ giáo viên có quyết định đầu tư kiên cố hoá so với kế hoạch cả giai đoạn 2008-2012 là 1.028/2.373 phòng học (đạt tỷ lệ 43,3%); 521/1.348 phòng công vụ giáo viên (tỷ lệ 38,65%).

[52] Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn: giáo viên mầm non đạt chuẩn 99,6% (trên chuẩn 48,5%); giáo viên tiểu học đạt chuẩn 99,96% (trên chuẩn 84,8%); giáo viên THCS đạt chuẩn 98,9% (trên chuẩn 70,8%); giáo viên THPT đạt chuẩn 100% (trên chuẩn 5,6%); giáo viên GDTX đạt chuẩn 100% (trên chuẩn 1,05%); TTKTTH-HN đạt chuẩn 85,4% (trên chuẩn 2,75%); GDCN đạt chuẩn 97,8% (trên chuẩn 25,5%).

[53]. 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn PCGDTH - CMC; 6/7 huyện, thành phố với 155/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn PCGDTH - ĐĐT (đạt 97,48%); 7/7 huyện, thành phố, với 158/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS (đạt 99,37%).

[54] Toàn tỉnh có 26/54 học sinh dự thi đạt giải lớp 12 ( 01 giải nhất, 03 giải nhì, 09 giải ba và 13 giải khuyến khích); thi Olympic Tiếng Anh trên Internet đạt 16 huy chương các loại (6HCB, 10HCĐ); Hội thi "Trạng nguyên nhỏ tuổi" là thứ XI và "Viết chữ đẹp Nét chữ - Nết người" toàn quốc có 5/5 học sinh tiểu học tham gia đạt giải (1 giải nhất, 2 giải 3 và 2 giải khuyến khích)

[55] 6 tháng đầu năm, tiến hành kiểm tra, thanh tra nhà nước về chất lượng đo lường cho 60 lượt cơ sở trên các lĩnh vực; kiểm định/hiệu chuẩn cho 70.000 phương tiện đo các loại; thực hiện thử nghiệm chất lượng 5.600 mẫu cho các lĩnh vực cơ lý vật liệu xây dựng và hoá sinh môi trường.

[56] như: vệ sinh phòng dịch, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, tuyên truyền phòng, chống dịch bệnh, phát động phong trào giữ gìn vệ sinh môi trường...,

[57] Chưa ghi nhận trường hợp nào mắc cúm A(H1N1, H5N1); các trường hợp mắc bệnh chân tay miệng, thủy đậu đều giảm so cùng kỳ

[58] Đã tổ chức kiểm tra 1880 cơ sở về vệ sinh ATTP trong đó có 603 cơ sở không đạt tiêu chuẩn, chiếm 32,1%. Đã tiến hành tiêu hủy nhiều hàng hóa kém chất lượng, quá hạn sử dụng, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ. Đã kiểm tra 116 cơ sở hành nghề y tế tư nhân, phát hiện 44 cơ sở có dấu hiệu vi phạm. Nhắc nhở, chấn chỉnh 31 cơ sở; phạt tiền 11 cơ sở với số tiền 26 triệu, đình chỉ hoạt động 3 cơ sở.

[59] Hiện nay toàn tỉnh có 159/159 xã, phường, thị trấn có trạm y tế, đạt tỷ lệ 100%; 61/159 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia theo bộ tiêu chí giai đoạn 2011-2015, đạt tỷ lệ 38,4%; 159/159 trạm y tế có bác sĩ, đạt tỷ lệ 100%; 100% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động được trả phụ cấp ổn định; 100% trạm y tế có đủ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh..

[60] Lễ kỷ niệm 83 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; 38 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc; kỷ niệm 123 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ chí Minh và 102 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước...

[61] Trong 6 tháng đầu năm đã đạt được 63 HC các loại (17 HCV, 22 HCB, 24 HCĐ). Tỷ lệ người luyện tập TDTT thường xuyên đạt 27,8%, tỷ lệ gia đình thể thao đạt 23,2%.

[62] Đến tháng 6/2013, trên địa bàn tỉnh có 07 đơn vị in được cấp phép, 3 công ty phát hành. Số xã, phường có báo đến trong ngày là 149/159 xã, phường, thị trấn. Hiện đang có 10 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính với 137 điểm giao dịch, 7 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông, internet với mật độ thuê bao cố định 6,28 thuê bao/100dân; thuê bao di động 64,62 thuê bao/100dân, thuê bao internet 3,12 thuê bao/100dân.

[63] Trong đó: tạo việc làm mới cho 10.701 lao động (đạt 53,5% KH năm), tạo thêm việc làm cho 7.219 lao động. Đưa 1.185 lao động trong tỉnh đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đạt 51,5% kế hoạch năm.

[64] Đến nay, đã hoàn thành: 6.108 nhà ở cho nghèo theo Chương trình 167; đã xây dựng hoàn thành 100 nhà chòi chống lũ theo Chương trình 716.

[65] Số hộ nghèo đầu năm 38.023, 6 tháng đầu năm giảm 4.553 hộ, tương đương giảm 2,1% kế hoạch, đưa số hộ nghèo đến thời điểm hiện nay 33.470 hộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 15,4%.

[66] 6 tháng đầu năm, thực hiện chế độ điều dưỡng tập trung cho 468 đối tượng người có công với cách mạng. Thực hiện chi trả trợ cấp và tổ chức thăm hỏi, tặng qua cho gần 30.000 đối tượng người có công trong dịp Tết Nguyên đán với tổng số tiền: 6,126 tỷ đồng.

[67] như: giới thiệu địa điểm, cấp đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp phép xây dựng cơ sở thờ tự...

[68] Quyết định số 826/QĐ-UBND ngày 10/4/2013 của UBND tỉnh.

[69] chào mừng các ngày Lễ lớn, thi đua hoàn thành nhiệm vụ phát triển KT-XH năm 2013, phong trào "Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới”.

[70] Trong 6 tháng đầu năm, đã tiến hành thẩm định, góp ý 19 văn bản địa phương soạn và tổ chức lấy ý kiến góp ý 08 văn bản QPPL của Trung ương; tổ chức 8.196 cuộc tuyên truyền pháp luật với 726.140 lượt người; thụ lý 1.815 vụ việc và đã hòa giải thành 1.520 vụ việc đạt 83,7%; trợ giúp pháp lý 748 vụ việc với 750 đối tượng.

[71] Đã đăng kết hôn có yếu tố nước ngoài cho 15 trường hợp; đăng ký kết hôn trong nước: 4.765 trường hợp; đăng ký khai sinh: 12.462 trường hợp; khai tử: 2.909 trường hợp; thay đổi, cải chính hộ tịch 151 trường hợp, cấp 1.911 phiếu lý lịch tư pháp; tiếp nhận 932 thông tin lý lịch tư pháp; các tổ chức giám định đã giám định 966 vụ việc; các văn phòng luật sự bào chữa 182 vụ việc; công chứng 2.020 việc, thu trên 628,9 triệu đồng phí và đã nộp ngân sách trên 314,4 triệu đồng; chứng thực 301.137 việc; đã tổ chức 38 cuộc bán đấu giá tài sản với tổng trị giá hơn 13,5 tỷ đồng, thu trên 209,9 triệu đồng phí đấu giá.

[72] Đã triển khai thực hiện 69 cuộc thanh tra và 72 đợt kiểm tra thuộc các lĩnh vực: quản lý tài chính, ngân sách, đầu tư, xây dựng, giao thông vận tải, y tế, nông nghiệp và PTNT...

[73] Trong 6 tháng đầu năm 2013, các ngành, các cấp trong tỉnh đã nhận 499 lượt đơn khiếu nại, tố cáo của công dân, tăng 173 lượt đơn. Trong đó: khiếu nại 358 lượt đơn; tố cáo 141 lượt đơn, tăng 14 lượt đơn so cùng kỳ. Đã giải quyết được 108/133 vụ khiếu nại, tố cáo thuộc thuộc thẩm quyền, đạt 81,2%, còn 25 vụ đang tiếp tục giải quyết, trong đó khiếu nại 76 vụ, tố cáo 32 vụ).

[74] Theo số liệu Thống kê, đến ngày 15/6/2013, toàn tỉnh xảy ra 233 vụ tai nạn giao thông, giảm 42 vụ so cùng kỳ; làm chết 79 người, giảm 3 người so cùng kỳ; bị thương 230 người, giảm 28 người SCK.

[75] Tính đến 31/5, phạm pháp hình sự 212 vụ với 351 đối tượng phạm tội, giảm 56 vụ, đối tượng phạm tội giảm 31 người; buôn bán, vận chuyển ma tuý bị phát hiện 17 vụ với 30 đối tượng vi phạm, giảm 7 vụ và 5 đối tượng

[76] Mục tiêu năm 2013: "Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường quốc phòng an ninh và bảo đảm ổn định chính trị- xã hội. Tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn những năm tiếp theo.”

[77] xã Quang Phú, thành phố Đồng Hới.


UBND tỉnh Quảng Bình

    Tổng số lượt xem: 1628
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)