Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 03/08/2009-10:10:00 AM
Tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2009 tỉnh Quảng Bình
Báo cáo số 76/BC-UBND ngày 06/7/2009 của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình về tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2009
I. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển KT-XH năm 2009, ngay từ cuối năm 2008 UBND tỉnh đã triển khai giao kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán ngân sách; đồng thời, triển khai đồng bộ các giải pháp chủ yếu nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế theo Nghị quyết 30/2008/NQ-CP của Chính phủ, phấn đấu đạt các chỉ tiêu KT-XH chủ yếu năm 2009 mà Nghị quyết HĐND tỉnh khoá XV, kỳ họp thứ 14 đã đề ra.
Trong 6 tháng đầu năm 2009, mặc dù phải chịu ảnh hưởng của tình hình suy giảm kinh tế chung của cả nước, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, điều kiện thời tiết không thuận lợi từ đầu vụ, tình hình dịch bệnh tiếp tục xảy ra..., nền kinh tế của tỉnh thực sự gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương; với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành linh hoạt, quyết liệt của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh; sự nỗ lực phấn đấu ngay từ đầu năm của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh nên nhìn chung tình hình KT-XH 6 tháng đầu năm vẫn tiếp tục tăng trưởng; hoạt động SXKD, dịch vụ vẫn ổn định và phát triển, các lĩnh vực văn hoá - xã hội có chuyển biến tích cực, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống nhân dân ổn định và từng bước được cải thiện.
Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu:
- Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 9,7% (kế hoạch cả năm 11 - 12%, thực hiện cùng kỳ 11,3%).
- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,2% (kế hoạch cả năm tăng 4 - 4,5%, thực hiện cùng kỳ 2,8%).
- Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân đạt 169.224 tấn, bằng 102,2% kế hoạch vụ Đông Xuân và bằng 101,4% so cùng kỳ, đạt 66% kế hoạch cả năm 2009.
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 18,4% (kế hoạch cả năm tăng 18 -18,5%, thực hiện cùng kỳ 22,2%).
- Giá trị các ngành dịch vụ tăng 10,2% (kế hoạch cả năm tăng 12,5 - 13%; thực hiện cùng kỳ 12,4%).
- Giá trị kim ngạch xuất khẩu: 16,3 triệu USD, đạt 24% kế hoạch, bằng 65,6% so cùng kỳ (chỉ tiêu cả năm 68 triệu USD).
- Thu ngân sách trên địa bàn: 517,3 tỷ đồng, đạt 69% dự toán TW, 54% dự toán địa phương, tăng 12,3% so cùng kỳ (kế hoạch cả năm 900 tỷ đồng).
- Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm còn 17,87% (kế hoạch cả năm giảm còn 15%).
- Giải quyết việc làm cho 16.518 người, đạt 56,96% kế hoạch; trong đó tạo việc làm mới cho 8.708 người (kế hoạch cả năm giải quyết việc làm cho 2,9 vạn lao động).
- Phổ cập THCS đạt 97,48% số xã, phường, thị trấn (kế hoạch cả năm 98,1%).
- Tỷ lệ các xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế 53,5% (kế hoạch cả năm 54,7%) và tỷ lệ trạm y tế xã, phường, thị trấn có bác sĩ đạt 68,6% (kế hoạch cả năm đạt 84,3%).
Đối với 3 chỉ tiêu xã hội còn lại là: giảm tỷ suất sinh, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng và tỷ lệ hộ nông thôn dùng nước hợp vệ sinh đang điều tra, xin báo cáo HĐND tỉnh vào kỳ họp cuối năm.
Nhìn chung, các chỉ tiêu đạt được trong 6 tháng đầu năm tăng trưởng chậm hơn so với cùng kỳ, hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu đang gặp khó khăn, thu ngân sách nếu không có các giải pháp đồng bộ tháo gỡ khó khăn cho SXKD của các thành phần kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng, tạo nguồn thu thì sẽ ảnh hưởng đến cân đối ngân sách; nguy cơ lạm phát quay trở lại trong các tháng cuối năm, thiên tai, dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp, khó lường; công tác chỉ đạo điều hành, trách nhiệm các cấp, các ngành trước yêu cầu nhiệm vụ mới còn có mặt bất cập, chưa quyết liệt, thiếu đồng bộ.
II. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRÊN CÁC LĨNH VỰC
1. Công tác quy hoạch
Công tác quy hoạch đạt được nhiều kết quả tiến bộ. Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh đến năm 2020 đã được các Bộ, ngành TW góp ý, hiện đang hoàn chỉnh để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong tháng 7/2009; triển khai quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của các huyện, thành phố đến năm 2020; đã đề nghị và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý hỗ trợ kinh phí và giao Bộ Xây dựng chủ trì tổ chức thi tuyển, lựa chọn tư vấn lập quy hoạch tổng thể Di sản TNTG Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; lựa chọn đơn vị tư vấn để triển khai điều chỉnh bổ sung quy hoạch chung thành phố Đồng Hới, quy hoạch chung Khu Kinh tế Hòn La, quy hoạch các khu đô thị mới...
Tuy nhiên, so với yêu cầu, việc triển khai xây dựng các quy hoạch chi tiết còn chậm, chất lượng quy hoạch chưa cao, chưa đáp ứng với yêu cầu của các nhà đầu tư; một số quy hoạch treo do năng lực tài chính, thực hiện của một số nhà đầu tư yếu, gặp khó khăn lúc suy giảm kinh tế, hoặc quy hoạch đã có nhưng chậm điều chỉnh bổ sung cho phù hợp nhu cầu đầu tư phát triển mới, lực lượng cán bộ làm quy hoạch còn thiếu... Đã làm ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện các dự án của các nhà đầu tư.
2. Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
a. Nông nghiệp:
- Trồng trọt: Vụ Đông xuân năm nay tuy gặp một số khó khăn, đầu vụ do rét đậm và mưa kéo dài trong thời gian gieo cấy làm một số diện tích lúa và hoa màu bị hư hại nặng, nhiều địa phương phải gieo cấy lại lần 3; cuối vụ mưa lớn nhiều ngày gây ngập, thiệt hại cục bộ đối với cây lúa ở huyện Lệ Thuỷ, Quảng Ninh; dịch bệnh gia súc, gia cầm, sâu bệnh gây hại trên các loại cây trồng diễn biến phức tạp... Nhưng nhờ sự chỉ đạo sát kịp thời của các cấp, các ngành, sự chủ động khắc phục khó khăn của các địa phương, của bà con nông dân và sự hỗ trợ của Nhà nước, nên vụ Đông Xuân năm nay được mùa toàn diện, đây là vụ có sản lượng cao nhất từ trước đến nay; Diện tích đạt giá trị thu nhập 50 triệu đồng/ha trở lên toàn tỉnh hiện chiếm tỷ lệ 11,52% tổng diện tích gieo trồng (mục tiêu đến năm 2010 là 15%) . Sau khi thu hoạch xong vụ Đông Xuân, các địa phương đã tập trung triển khai cày bừa, chuẩn bị đất, giống, vật tư, phân bón để sản xuất vụ Hè Thu theo đúng lịch thời vụ. Đến nay, vụ Hè Thu cây trồng phát triển tốt.
- Chăn nuôi: Chương trình chăn nuôi được các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo theo hướng nâng cao chất lượng tổng đàn gia súc, gia cầm và phát triển đa dạng loại hình chăn nuôi, chú trọng phát triển chăn nuôi trang trại; tiếp tục triển khai sind hoá đàn bò, nạc hóa đàn lợn đi đôi với việc tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm nên sản xuất chăn nuôi trên địa bàn có chiều hướng phát triển tốt cả về số lượng và chất lượng, cung cấp con giống tốt, kịp thời, hạn chế dịch bệnh; công tác quản lý giết mổ tập trung đã được chủ trọng, đảm bảo vệ sinh ATTP. Kết quả sản lượng thịt hơi gia súc và gia cầm xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 20.406 tấn, tăng 12,1% SCK đưa giá trị sản xuất chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp đến nay đạt 39,2% (mục tiêu đến 2010 là 40-42%).
b. Lâm nghiệp: Các doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh thực hiện khai thác gỗ theo kế hoạch được giao; tuy vậy, năm nay thời tiết mưa nhiều khai thác vận chuyển gặp khó khăn nên cũng ảnh hưởng tiến độ. Hiện nay đang mùa khô, các đơn vị đang tập trung đẩy mạnh khai thác . Trong 6 tháng đầu năm tập trung triển khai các hạng mục giao khoán bảo vệ rừng, phục hồi rừng bằng khoanh nuôi, tiến hành phát quang, chăm sóc rừng trồng và chuẩn bị mặt bằng, cây giống cho trồng rừng tập trung vào cuối năm theo kế hoạch. Công tác quản lý, bảo vệ vốn rừng được các cấp, các ngành, các chủ rừng quan tâm. Công tác phòng chống cháy rừng được triển khai đến tận cơ sở, đã chú trọng đến tuyên truyền, giáo dục ý thức về phòng chống cháy rừng nên trên địa bàn toàn tỉnh, đến nay chưa có vụ cháy nào xảy ra. Đã hoàn thành công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng 2008 - 2020 trình HĐND tỉnh xem xét thông qua
c. Thủy sản: Thời tiết trong những tháng đầu năm tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản, nên sản lượng thuỷ sản đạt 19.201 tấn, bằng 49,71% kế hoạch, tăng 9,9% SCK. Trong đó đánh bắt sản lượng đạt 16.704 tấn, đạt 53,4% kế hoạch và tăng 6,1% SCK; sản lượng nuôi trồng tuy chưa chính vụ nhưng đạt gần 2.500 tấn, bằng 33,3% kế hoạch, tăng 45,3% SCK. Chương trình thuỷ sản được các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo thực hiện và đã đạt được những kết quả tích cực, đánh bắt và nuôi trồng có sự tăng trưởng, phát triển khá; ngoài việc tiếp tục tập trung khai thác các sản phẩm có giá trị kinh tế cao phục vụ cho xuất khẩu như cá mú, cá hồng, mực, cá thu; từng bước chuyển đổi từ nuôi tôm sú sang nuôi tôm thẻ chân trắng ở những vùng có điều kiện, đồng thời nhân rộng mô hình nuôi cá - lúa. Tập trung chỉ đạo, tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất giống, nâng cao quy mô sản xuất và bảo đảm chất lượng; Đã tăng cường kiểm soát chặt chẽ nguồn giống sản xuất tại chỗ và đưa từ bên ngoài vào để phòng, chống dịch bệnh (đạt trên 52%).
Tuy vậy, trong sản xuất nông nghiệp vụ Đông Xuân được coi là năm được mùa ở đều khắp các địa phương, sản lượng lương thực đạt cao nhất từ trước tới nay. Nhưng giá thóc và một số nông sản giảm trong lúc giá vật tư, phân bón... cho sản xuất Hè Thu lại tăng, nông dân thiếu yên tâm trong đầu tư phát triển sản xuất. Một số địa phương, việc khai hoang chuẩn bị giống cây cao su triển khai chậm; chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản quy mô nhỏ còn khá phổ biến nên khó khăn trong việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và giảm chi phí sản xuất. Tình hình vi phạm lâm luật, xâm hại rừng và đất rừng trái phép vẫn còn xảy ra, nhất là việc khai thác gỗ trái phép . Công tác chế biến thuỷ sản chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu nguồn lực đầu tư đổi mới công nghệ; việc sản xuất và dịch vụ tôm giống tại chỗ vẫn chậm đáp ứng nhu cầu nên nguồn giống nhập bên ngoài còn lớn (chiếm 3/4 nhu cầu), trong khi công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng nguồn giống gặp không ít khó khăn.
3. Sản xuất công nghiệp – TTCN
Mặc dù trong khó khăn chung nhưng công nghiệp tỉnh ta vẫn giữ được mức tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng thực hiện 1.452 tỷ đồng, đạt 45,7% kế hoạch, tăng 18,4% SCK . Ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng chiếm tỷ trọng lớn (đạt 803,4 tỷ đồng, bằng 55% giá trị toàn ngành công nghiệp) có tốc độ tăng trưởng khá cao (tăng 20,6% SCK), là do nhu cầu đầu tư xây dựng tăng cao theo chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng của Chính phủ; công nghiệp của tỉnh sản phẩm chủ yếu phục vụ trong nước do vậy ít bị tác động của suy thoái kinh tế thế giới. Các sản phẩm tăng trưởng khá như: xi măng và clinke đạt 869 nghìn tấn, tăng 18,3% (trong đó: nhà máy xi măng sông Gianh đạt 519 nghìn tấn xi măng), gạch ceramic 583 nghìn m2, tăng 15%, gạch xây 136,6 triệu viên, tăng 10%, bia 11,4 triệu lít, tăng 19,2%, quần áo may sẵn tăng 13,5%... Một số địa phương 6 tháng đầu năm tuy có gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn duy trì được mức tăng khá SCK, tăng trưởng như: TP Đồng Hới tăng 13,5%, Quảng Trạch tăng 9,2%, Bố Trạch tăng 9,9%. Đặc biệt ngành CNSX phương tiện vận tải có thêm sản phẩm mới; cụ thể Công ty CP công nghiệp tàu thủy Quảng Bình đang đẩy nhanh tiến độ, đóng mới 2 tàu vận tải 260 TEU trong tháng 6 nghiệm thu đạt giá trị sản xuất 50 tỷ đồng. Một số dự án sản xuất công nghiệp sắp đi vào hoạt động như nhà máy sản xuất bột giấy và giấy Krapt, nhà máy thủy điện Hố Hô, nhà máy Xi măng Văn Hóa đang GPMB để chuẩn bị xây dựng, dự án Nhiệt điện Quảng Trạch đang đấu thầu tư vấn lập dự án...
Tuy vậy, do nhiều tác động, nhất là giá cả đầu vào tăng, thị trường bị thu hẹp; việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cụm, điểm công nghiệp đã được chú ý đầu tư, nhưng do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế nên việc huy động các cơ sở sản xuất đi vào hoạt động tiếp tục gặp trở ngại; vì vậy lĩnh vực TTCN và ngành nghề nông thôn phát triển chậm, đây vẫn là một khâu yếu trong tổ chức thực hiện chương trình phát triển sản xuất công nghiệp - TTCN và NNNT từ mấy năm.
4. Các ngành dịch vụ
- Nội thương: Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ 6 tháng ước đạt: 3.360 tỷ đồng, tăng 19,6% so cùng kỳ . Mạng lưới dịch vụ thương mại tiếp tục được củng cố và phát triển rộng khắp, với sự tham gia ngày càng rộng rãi của các thành phần kinh tế; các mặt hàng thiết yếu, mặt hàng chính sách phục vụ đồng bào dân tộc, miền núi được cung ứng kịp thời, đầy đủ. Công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng được tăng cường, nhất là trong điều kiện suy giảm kinh tế, một số nguồn hàng kém chất lượng từ bên ngoài nhập khẩu trái phép vào thị trường nội địa.
- Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng 16,3 triệu USD, đạt 24% kế hoạch, bằng 65,6% so cùng kỳ. Hầu hết các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu đều giảm so cùng kỳ như cao su, gỗ xẻ, quặng titan, chế biến thủy sản...
- Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu đạt thấp so với cùng kỳ, nhưng 2 tháng gần đây đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại, nhất là nguyên liệu thiết bị phục vụ SX; giá trị kim ngạch nhập khẩu 6 tháng 9,8 triệu USD, bằng 77,0% so cùng kỳ.
- Du lịch: Mặc dù, do suy giảm kinh tế, lượng khách đi du lịch đến Việt Nam giảm, nhưng lượng khách du lịch đến Quảng Bình lại tăng, đạt 280 nghìn lượt người, tăng 14,6% SCK, nguyên nhân tăng do năm nay tỉnh ta đã tổ chức nhiều hoạt động nhân các ngày lễ lớn, đặc biệt là Lễ kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh - Ngày truyền thống bộ đội Trường Sơn, cùng với nhiều hoạt động tuyên truyền, quảng bá, khuyến khích, mời gọi các cơ quan Trung ương tổ chức các cuộc họp, các hội thảo ở thành phố Đồng Hới, đẩy mạnh khai thác tuyến đường sắt và tuyến đường bay Đồng Hới đi Hà Hội... nên lượng khách du lịch đến Quảng Bình tăng khá. Hoạt động kinh doanh du lịch đã có nhiều chuyển biến tích cực, cả về hệ thống nhà hàng, khách sạn, cũng như thái độ chất lượng phục vụ; an ninh trật tư, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm...
- Vận tải và các loại hình dịch vụ khác: Hoạt động vận tải nhìn chung đã đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân, đặc biệt đã mở đường bay mới Đồng Hới - TP Hồ Chí Minh . Các loại hình dịch vụ khác như bưu chính, viễn thông, tài chính, bảo hiểm, khám chữa bệnh, tư vấn pháp luật... tiếp tục phát triển với nhiều tổ chức đơn vị cùng hợp tác và cạnh tranh tạo được nhiều sản phẩm mới, tiện ích đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
- Giá cả thị trường: Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng tương đối ổn định, chỉ tăng 1,57% so với tháng 12/2008.
Tuy vậy, do tác động của tình hình suy thoái kinh tế, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, nên hoạt động ngoại thương giảm (-36,4%) SCK; việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm cả thị trường nội địa và mở rộng thị trường xuất khẩu chưa đáp ứng yêu cầu. Hoạt động du lịch chưa thật sự có bước đột phá, nhất là chưa xây dựng đồng bộ gắn kết các Khu du lịch trọng điểm, sản phẩm du lịch vẫn còn đơn điệu; việc xây dựng quy hoạch phát triển du lịch ở thời kỳ phát triển mới còn chậm; QLNN đối với các hoạt động dịch vụ, nhất là viễn thông chậm được tăng cường kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật.
5. Tài nguyên, môi trường
Đã triển khai lập quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2020 của cấp tỉnh, cấp huyện. Đồng thời đẩy nhanh việc lập quy hoạch sử dụng đất các xã còn lại . Công tác giao đất, cấp giấy CNQSD, cho thuê đất được triển khai tích cực, đúng quy hoạch, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức, cá nhân và các nhà đầu tư; các công trình được giao và cho thuê đất sử dụng đúng mục đích . Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cấp giấy CNQSD đất cho các tổ chức và cá nhân. Chú trọng công tác kiểm tra, thanh tra, khắc phục tình trạng khai thác khoáng sản trái phép . Đã nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá tác động môi trường và kiểm tra, giám sát việc thực hiện đối với các dự án, cơ sở SXKD . Triển khai xây dựng xử lý nước thải ở tất cả các bệnh viên trong tỉnh.
Tuy vậy, công tác lập quy hoạch sử dụng đất cấp xã một số địa phương còn chậm. Việc cấp giấy CNQSD đất ở đô thị tuy đã được đẩy mạnh nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, tiến độ chậm. Quản lý cấp phép và kiểm tra, giám sát việc khai thác khoáng sản thiếu đồng bộ, chặt chẽ nên có một số trường hợp đơn vị khai thác vi phạm, ảnh hưởng môi trường..., nhưng xử lý thiếu kịp thời. Tình trạng khai thác cát sạn trái phép, gây ô nhiễm sông suối vẫn xảy ra nhiều nơi. Công tác quản nước thải, khí thải, rác thải chưa chặt chẽ.
6. Về quan hệ sản xuất
- Công tác đổi mới, sắp xếp DNNN: đến nay công tác sắp xếp các DNNN ở địa bàn tỉnh ta đã gần kết thúc theo đề án được Chính phủ phê duyệt. Một số DNNN tiếp tục giải quyết tồn đọng để hoàn thành cổ phần hóa và cổ phần hóa các đơn vị trực thuộc theo kế hoạch, tiến độ đề ra. Nhìn chung các doanh nghiệp sau sắp xếp, cổ phần hóa hoạt động cơ bản có hiệu quả rõ rệt.
- Đăng ký kinh doanh: Trong 6 tháng đã cấp giấy chứng nhận ĐKKD cho 231 doanh nghiệp tăng 11,6% SCK, với tổng số vốn đăng ký 896,62 tỷ đồng; nâng tổng số doanh nghiệp hiện đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 1.902 doanh nghiệp, với tổng số vốn hơn 7.617,23 tỷ đồng.
- Kinh tế HTX, kinh tế hộ gia đình có bước phát triển mạnh, nhiều mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả như kinh tế trang trại, liên kết hộ trong chăn nuôi lợn, bò, trồng rừng, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản …, góp phần thúc đẩy nhanh, mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn. Các HTX tiếp tục phát huy vai trò của mình trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho xã viên, người lao động. Xây dựng các tổ, đội hợp tác đánh cá trên biển để hỗ trợ cho nhau trong đánh bắt, phòng chống thiên tai; tiết kiệm nhiên liệu và phòng chống hành vi gây rối cướp giật trên biển.
Tuy vậy, việc sắp xếp đổi mới một số DNNN còn chậm, do có vướng mắc trong công tác tổ chức và giải quyết tồn đọng về tài chính, xác định giá trị doanh nghiệp... Công tác hậu kiểm chưa được thực hiện thường xuyên, công tác QLNN về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các HTX trên địa bàn chưa quan tâm đúng mức và thiếu giải pháp hỗ trợ đồng bộ.
7. Xây dựng cơ bản
Thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng tại Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ, trong đó đặc biệt là lĩnh vực XDCB, các cấp, các ngành, các chủ đầu tư triển khai các biện pháp tích cực nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, nhất là các công trình trọng điểm, công trình hoàn thành trong năm 2009. Triển khai thực hiện chỉ định thầu một số công trình theo hướng dẫn của Trung ương, phân bổ sớm nguồn vốn hoãn thu hồi trong dự toán ngân sách năm 2009, vốn trái phiếu Chính phủ... cho các đơn vị, các công trình, dự án; đã đề nghị TW cho ứng vốn đối với các công trình quan trọng hoàn thành trong năm 2009-2010, ưu tiên bổ sung vốn cho các công trình trọng điểm, công trình cấp bách như: cầu Quảng Hải, Tỉnh lộ 11, hạ tầng khu công nghiệp, hạ tầng phục vụ du lịch, các dự án xây dựng khu tái định cư, các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ... nên tiến độ thi công các công trình được đẩy mạnh. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư XDCB đạt khá so với cùng kỳ.
Vốn đầu tư phát triển do nhà nước quản lý thực hiện giải ngân 6 tháng ước đạt 535,788 tỷ đồng, đạt 36% kế hoạch, tăng 6% SCK (trong đó giá trị khối lượng hoàn thành 348 tỷ đồng, đạt 23,4% so KH, tăng 3% SCK) . Trong 6 tháng đầu năm 2009, các chủ đầu tư đã chú trọng phối hợp thực hiện công tác bồi thường GPMB, tranh thủ điều kiện thời tiết thuận lợi, đôn đốc các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ xây dựng và giải ngân các nguồn vốn đã bố trí. Nhìn chung, công tác QLNN về đầu tư XDCB có nhiều tiến bộ; việc phân bổ vốn được giao sớm cho các ngành, địa phương, đã tạo sự chủ động trong việc triển khai thực hiện, nâng cao trách nhiệm của các ngành, các địa phương trong việc lập, quản lý, thực hiện dự án.
Tuy vậy, vẫn còn một số tồn tại chưa được khắc phục: công tác bồi thường GPMB vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ tạm ứng trong tổng số vốn giải ngân còn cao (35%), nhưng chưa được quản lý, kiểm tra giám sát chặt chẽ; tiến độ thực hiện một số dự án triển khai chậm, nhất là nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho kiên cố hoá trường lớp học, nhà công vụ giáo viên và chương trình y tế tỉnh, huyện; một số dự án đã ghi chuẩn bị đầu tư từ năm 2008 đến nay vẫn chưa hoàn tất thủ tục để triển khai thi công, năng lực tư vấn yếu, trách nhiệm một số chủ đầu tư trong quản lý đầu tư xây dựng còn hạn chế... đã làm ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư XDCB chung của toàn tỉnh trong thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư của Chính phủ.
8. Tài chính - Tín dụng, ngân hàng
a. Tài chính: Ngành thuế đã kịp thời triển khai thực hiện chính sách miễn, giảm, gia hạn về thuế theo chủ trương kích cầu của Chính phủ cho hơn 600 doanh nghiệp. Số tiền được miễn, giảm, gia hạn 6 tháng đầu năm là 15.796 triệu đồng. Để bù đắp số giảm thu đảm bảo nguồn cân đối thực hiện theo dự toán chi, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, địa phương, thực hiện đẩy mạnh cải tiến thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp..., nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, tạo nguồn tăng thu cho ngân sách.
- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 517,3 tỷ đồng đạt 69% dự toán TW, bằng 54% dự toán ĐP giao và tăng 12,3% SCK, (trong đó thu doanh nghiệp quốc doanh TW tăng 51,2%, thu doanh nghiệp QDĐP tăng 28,5%, thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh tăng 20,8%, thu thuế trước bạ tăng 39,7% và một số phí và lệ phí tăng so cùng kỳ...).
- Tổng chi ngân sách Nhà nước 6 tháng: 1.152,7 tỷ đồng, đạt 50% dự toán TW, đạt 45,3% dự toán ĐP, tăng 2,2% SCK; trong đó: chi đầu tư phát triển 147,5 tỷ đồng, đạt 58,7% dự toán ĐP bằng 54,5% SCK; chi thường xuyên 707,9 tỷ đồng, bằng 58,7% dự toán ĐP tăng 14,6% SCK.
Nhìn chung, hầu hết các khoản thu ngân sách 6 tháng đầu năm đều tăng so cùng kỳ. Công tác quản lý, điều hành chi NSNN đã thực hiện theo đúng quy định của Luật NSNN và chủ trương, chính sách của Chính phủ về thắt chặt trong quản lý tài chính, tiền tệ, đáp ứng các nhiệm vụ phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an ninh, những nhiệm vụ quan trọng, đột xuất và góp phần tiết kiệm, phòng chống lãng phí, tham nhũng. Tuy vậy, thu tiền sử dụng đất đạt 54,9% dự toán địa phương nhưng lại giảm 13,5% SCK) và xử lý nợ đọng thuế tiến độ còn chậm...
b. Tín dụng, ngân hàng: Thực hiện các quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, UBND tỉnh đã tổ chức Hội nghị phổ biến các chính sách ưu đãi của Nhà nước đến tất cả các ngành, địa phương và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh để triển khai thực hiện kịp thời. Nhờ đó, nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đã được vay vốn hỗ trợ lãi suất mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, vượt qua khó khăn trước mắt. Đến cuối tháng 6/2009, có 7.854 lượt khách hàng vay hỗ trợ lãi suất với tổng dư nợ: 2.592 tỷ đồng . Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng thực hiện cơ cấu lại nợ, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay xuống 10,5% nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và để đảm bảo nguồn vốn cho vay hỗ trợ lãi suất, các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã áp dụng nhiều biện pháp huy động như: phát hành các chứng chỉ tiền gửi, tặng quà cho khách gửi tiền, kỳ phiếu dự thưởng... Nhờ đó, nguồn vốn huy động trong 6 tháng đầu năm đạt khá.
9. Kinh tế đối ngoại và xúc tiến đầu tư
- Các dự án ODA: Tranh thủ thời tiết thuận lợi, hiện các dự án tiếp tục đẩy mạnh tiến độ thực hiện theo kế hoạch đề ra và tăng cường kiểm tra, giám sát bảo đảm chất lượng công trình.
- Các dự án JBIC: Dự án đường Hiền-Xuân-An-Vạn cơ bản hoàn thành, dự kiến 30/6/2009 sẽ bàn giao công trình, đưa vào khai thác sử dụng; dự án Hệ thống cấp thoát nước thị trấn nông trường Việt Trung đang tiến hành thực hiện gói thầu xây lắp chính của dự án. Ngoài ra một số dự án ODA mới đang tiếp tục hoàn thiện thủ tục để thẩm định và cam kết vốn triển khai thực hiện.
- Các dự án NGO: Công tác vận động viện trợ được triển khai tích cực; hiện có 20 dự án đang thực hiện, trong 6 tháng đầu năm 2009 đã giải ngân được 1,69 triệu USD trên tổng số giá trị cam kết năm 2009 là 3,06 triệu USD.
Tiếp tục thực hiện chủ đề của năm 2009 là "Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh và phát triển nguồn nhân lực", UBND tỉnh tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp đồng bộ để cải thiện môi trường mạnh mẽ đầu tư kinh doanh theo hướng đề cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, chú trọng cải tiên thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả mô hình 1 cửa; đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá, đi đôi rà soát điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, cùng, địa phương đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư; thực hiện các chính sách ưu đãi khuyến khích thu hút các dự án đầu tư phù hợp với chủ trương mời gọi của tỉnh vào các ngành, lĩnh vực, sản phẩm địa phương có lợi thế... Đã tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước nhằm quảng bá, giới thiệu tiềm năng và kêu gọi đầu tư. Chương trình cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, trong đó công tác xúc tiến đầu tư trong 6 tháng đầu năm tiếp tục đạt nhiều kết quả tích cực, nhiều nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư ở tỉnh. Một số dự án lớn đã khởi công xây dựng như: dự án Nhà máy xi măng công suất 4 triệu tấn/năm (giai đoạn 1: 2 triệu tấn/năm) của Công ty TNHH VLXD Việt Nam, tại Văn Hoá, dự án Khu nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái Bang... Đặc biệt, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đang triển khai các thủ tục GPMB để chuẩn bị đầu tư dự án Trung tâm nhiệt điện Quảng Trạch tại Khu kinh tế Hòn La với công suất 2.400 MW, giai đoạn 1: 1.200 MW, đây là một dự án lớn có tầm quan trọng đặc biệt, là một cú hích lớn quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển KT-XH của tỉnh ta; cùng với các dự án quan trọng khác đã và đang triển khai tại khu vực này, sẽ tạo động lực phát triển cho tỉnh ở thời kỳ mới .Đã tiến hành đánh giá kết quả 2 năm thực hiện Chương trình Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nhằm rút ra một số kinh nghiệm cần thiết và đề ra những giải pháp thiết thực hơn trong việc đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào địa bàn tỉnh theo hướng chuyển từ mời gọi thu hút nặng về số lượng dự án đầu tư sang có chọn lựa có mục tiêu, vì lợi ích KT-XH và giảm thiểu ảnh hường môi trường, sinh thái.
Tuy vậy, trong hoạt động kinh tế đối ngoại, một số dự án ODA tiến độ triển khai còn chậm, do gặp khó khăn về công tác bồi thường GPMB và phải điều chỉnh tổng mức đầu tư dự án, điều chỉnh lại cơ cấu cấp vốn… Việc tạo mặt bằng sạch cho các nhà đầu tư mới bắt đầu thực hiện một vài nơi, do tỉnh còn thiếu kinh phí, nên nhiều dự án đã đủ điều kiện để triển khai, nhưng tiến độ đầu tư vẫn chậm. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn ít, hiệu quả hoạt động hạn chế.
10. Giáo dục đào tạo
Năm học 2008-2009, cùng với cả nước, ngành giáo dục tổ chức thực hiện mục tiêu “Năm học đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lý tài chính và triển khai phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, và cuộc vận động “hai không” với 4 nội dung đã được chú trọng chỉ đạo thực hiện nên chất lượng giáo dục đi dần vào thực chất hơn. Công tác xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã đạt được nhiều chuyển biến tiến bộ; đồng thời, tiếp tục phát triển, củng cố mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục . Đã tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT và bổ túc THPT nghiêm túc, đúng quy chế và đạt kết quả cao hơn kỳ thi năm học trước. Kết quả đậu tốt nghiệp THPT đạt tỷ lệ 79,01%; giáo dục thường xuyên đạt tỷ lệ 50,78%.
Về công tác dạy nghề: Ngoài các trường trung cấp dạy nghề của Tổng liên đoàn lao động, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, mạng lưới các trường, trung tâm dạy nghề, dịch vụ việc làm của các ngành, đoàn thể ở tỉnh, các huyện thành phố tiếp tục hình thành và hoạt động đa dạng với phương thức đào tạo dạy nghề linh hoạt đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động đang ngày càng tăng lên, góp phần đưa tỷ lệ người lao động qua đào tạo đến nay lên trên 35%, trong đó qua đào tạo nghề đạt 18,8% (trên mục tiêu tương ứng đến năm 2010 là 40%, trong đó qua đào tạo nghề là 22%) . Đào tạo Đại học và Trung học chuyên nghiệp tiếp tục được đẩy mạnh và phát triển cả về quy mô, cơ cấu ngành nghề, chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo, hướng vào mục tiêu phát triển nguồn nhân lực và nhu cầu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu KT-XH của tỉnh. Đến giữa năm học, tổng số học sinh, sinh viên hệ đào tạo tăng 14,8% so với năm học trước.
Tuy vậy, chất lượng giáo dục toàn diện của các cấp học và trình độ đào tạo nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu; tỷ lệ học sinh bỏ học ở vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, các trường bán công còn khá cao; việc thực hiện đưa chương trình tin học vào nhà trường đã triển khai nhưng chưa mạnh, công tác phổ cập giáo dục một số địa phương còn gặp khó khăn, như: huyện Minh Hoá, Bố Trạch; đội ngũ giáo viên một số địa phương, nhà trường còn thiếu đồng bộ; cơ sở vật chất, trường lớp, thiết bị dạy học, nhà ở cho giáo viên miền núi tuy đã được tăng cường, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia ở một số cấp học đạt thấp, chưa hoàn thành mục tiêu, kế hoạch đề ra. Công tác xã hội hoá giáo dục tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu nhất định, nhưng chưa huy động tối đa nguồn lực trong xã hội tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
11. Khoa học và công nghệ
Hoạt động khoa học công nghệ đã tập trung phục vụ mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các chương trình KT-XH trọng điểm của tỉnh. Một số đề tài nghiên cứu mang tính thực tiễn đã được triển khai . Công tác quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng có nhiều tiến bộ, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về đo lường - chất lượng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Triển khai hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2000. Phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật có nhiều tiến bộ.
Tuy vậy, tiến độ thực hiện một số đề tài còn chậm, chất lượng chưa cao và đưa vào ứng dụng thực tế còn gặp khó khăn. Việc đầu tư đổi mới công nghệ trong sản xuất kinh doanh chưa theo kịp nhu cầu do các doanh nghiệp khó khăn về nguồn vốn; sự phối hợp trong công tác QLNN về hoạt động KH&CN ở địa phương, cơ sở chưa thật sự hiệu quả. Các hoạt động phục vụ sản xuất kinh doanh, nâng cao giá trị sản xuất hàng hoá, thanh tra giám sát xử lý sản phẩm có nguy cơ gây hại cho người tiêu dùng chưa mạnh.
12. Y tế, dân số
Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân tiếp tục được đẩy mạnh; chủ động triển khai và khống chế có hiệu quả các loại dịch bệnh, đặc biệt triển khai các biện pháp dự phòng đối với dịch cúm A (H1N1) và dịch tả, nên 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh đã không xảy ra dịch bệnh lớn. Hầu hết các chỉ tiêu, nhiệm vụ thuộc chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình y tế khác đã được tổ chức thực hiện nhiệm vụ tích cực . Tăng cường công tác xã hội hóa thông qua hình thức liên kết đầu tư trang thiết bị và thực hiện các kỹ thuật cao để phục vụ chẩn đoán và nâng cao chất lượng điều trị. Triển khai tốt việc khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi. Hoạt động của hệ thống khám chữa bệnh công lập và tư nhân có chuyển biến tiến bộ. Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - CuBa Đồng Hới tiếp tục được Bộ Y tế và địa phương củng cố và quan tâm đầu tư, chất lượng khám, chữa bệnh người bệnh đã có nhiều tiến bộ. Cung ứng đủ thuốc cho các cơ sở điều trị. Giá thuốc 6 tháng đầu năm 2009 cơ bản ổn định và đáp ứng nhu cầu phòng bệnh, khám chữa bệnh cho nhân dân. Mạng lưới y tế xã tiếp tục được củng cố . Tích cực mở rộng các loại hình đào tạo cho cán bộ y tế các tuyến. Đã gửi đào tạo 41 bác sĩ theo địa chỉ để bổ sung nguồn nhân lực.
Công tác Vệ sinh ATTP được chú trọng tăng cường, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành y tế chủ động phối hợp các cấp, các ngành liên quan thực hiện nhiều cuộc kiểm tra, thanh tra, giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm; đến hết tháng 5/2009 đã tiến hành kiểm tra 2.545 cơ sở trên địa bàn toàn tỉnh, kết quả 1.816 cơ sở, chiếm tỷ lệ 71,35% đạt chuẩn VSATTP và 729 cơ sở, với tỷ lệ 28,65% không đạt chuẩn VSATTP và đã có biện pháp xử lý, chấn chỉnh theo quy định của pháp luật.
Tuy vậy, chất lượng công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe chưa thực sự đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Các Trung tâm Y tế dự phòng tuyến huyện chưa có trụ sở làm việc ổn định 74/159 trạm y tế xã có cơ sở vật chất hư hỏng, xuống cấp và chưa đáp ứng yêu cầu của chuẩn quốc gia về y tế. Điều kiện trang thiết bị còn thiếu thốn, lạc hậu ở tất cả các tuyến. Đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. Các dự án đầu tư xây dựng từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ triển khai chậm so với yêu cầu.
13. Văn hoá, thể thao, thông tin và truyền thông
Các hoạt động văn hoá, thông tin, phát thanh truyền hình, thể dục thể thao 6 tháng đầu năm hướng vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, phục vụ kỷ niệm các ngày lễ lớn và tiếp tục thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đặc biệt, là các hoạt động hướng tới sự kiện quan trọng Lễ kỷ niệm "50 năm mở đường Hồ Chí Minh - Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn (19/5/1959-19/5/2009)" diễn ra liên tục trong các tháng đầu năm với nhiều hoạt động trọng tâm, sôi nổi . Các chương trình đã để lại nhiều ấn tượng đẹp về lòng tri ân đối với các thế hệ những người đi trước, đã cống hiến, hy sinh anh dũng trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, góp phần quảng bá hình ảnh Quảng Bình với cả nước và quốc tế. Tiếp tục củng cố, xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá và đạt nhiều kết quả tích cực . Công tác QLNN về lĩnh vực văn hoá và các dịch vụ văn hoá được tăng cường, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh ở địa phương.
Phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển mạnh, nhiều hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn với nhiều hình thức ngày càng phong phú, đa dạng. Tiếp tục duy trì và phát triển cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thể dục thể thao theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Các cấp, các ngành đang tích cực triển khai các hoạt động chuẩn bị cho Đại hội TDTT .
Hoạt động quản lý báo chí, xuất bản, in và phát hành; bưu chính, viễn thông... tiếp tục được tăng cường, chấn chỉnh, đảm bảo đúng quy định của Nhà nước. Triển khai thực hiện hướng dẫn của Bộ Thông tin Truyền thông về quản lý việc thành lập, hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên thường trú ở trong nước của các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh. Tăng cường QLNN về hoạt động, bưu chính, viễn thông; lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin được các cấp, các ngành quan tâm đẩy mạnh triển khai, đã và đang triển khai hệ thống giao ban trực tuyến với Chính phủ và hệ thống quản lý văn bản và điều hành trên mạng của tỉnh...
Tuy vậy, việc quản lý kiểm tra chất lượng các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, như băng hình, internet còn hạn chế, chưa thường xuyên. Việc quản lý xây dựng hạ tầng mạng của các doanh nghiệp bưu chính viễn thông còn nhiều bất cập, (gần 80% trạm BTS trên địa bàn tỉnh chưa có giấy phép xây dựng). Phong trào xã hội hoá lĩnh vực văn hoá thông tin, thể dục thể thao triển khai chưa mạnh...
14. Lao động, Thương binh và xã hội
Tích cực thực hiện các chương trình KT-XH trọng điểm, các chương trình, dự án triển khai trên từng địa bàn để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, góp phần thực hiện có hiệu quả Chương trình giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo. Đẩy mạnh đào tạo nghề để tăng cường xuất khẩu lao động... Kết quả 6 tháng đầu năm đã giải quyết việc làm cho 16.518 lao động, đạt 56,96% kế hoạch và tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 19,64% đầu năm đến nay xuống còn 17,87%, tức giảm được 1,77% trên kế hoạch cả năm giảm 3,5-4% (mục tiêu cuối năm còn 15%). Thu nhập và đời sống của nhân dân tiếp tục được nâng lên, đặc biệt là đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, khó khăn. Tính đến nay, số nhà tạm hộ nghèo trên địa bàn toàn tỉnh là 4.426 nhà, đề án hỗ trợ nhà cho người nghèo đã được UBND tỉnh phê duyệt và đang được các cấp, các ngành triển khai thực hiện. Sáu tháng đầu năm, đã xóa mái tranh cho hộ nghèo bằng các nguồn vốn khác nhau được 250 nhà /kế hoạch cả năm là 966 nhà.
Công tác bảo trợ xã hội tiếp tục được đẩy mạnh, đời sống đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, đồng bào vùng bị thiệt hại nặng do thiên tai... được quan tâm, không để người dân thiếu đói nhất là trước, trong, sau dịp Tết và thời kỳ giáp hạt. Cụ thể UBND tỉnh đã phân bổ kịp thời 3.000 tấn gạo Chính phủ hỗ trợ. Thực hiện hỗ trợ kinh phí cho hộ nghèo đón tết Nguyên Đán đúng mục đích, công khai, minh bạch và kịp thời với số tiền 27.267 triệu đồng. Tiếp tục triển khai có kết quả các hoạt động bảo vệ và chăm sóc trẻ em theo kế hoạch; nhất là xúc tiến triển khai mô hình đào tạo nghề cho trẻ em lang thang kiếm sống và trẻ em lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại nguy hiểm ở một số huyện trọng điểm .
Thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch và chỉ đạo thực hiện xây dựng Đề án phát triển KT-XH đối với huyện Minh Hoá bảo đảm đúng tiến độ và yêu cầu, chất lượng đề ra.
Thực hiện chính sách xã hội, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng; các hoạt động nhân đạo, từ thiện được tăng cường .
Tuy vậy, tỷ lệ hộ đói nghèo ở một số địa bàn còn cao, một số vùng có nguy cơ tái nghèo, lao động chưa có việc làm, chưa qua đào tạo nghề còn lớn. Chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm triển khai chưa mạnh ở một số địa phương; tỷ lệ thất nghiệp bình quân chung toàn tỉnh là 1,42%, do khó khăn về quy giảm kinh tế nên đã có một số lao động xuất khẩu về nước trước thời hạn (6 tháng đầu năm đi xuất khẩu lao động được 885 người và về nước trước thời hạn là 267 người) Công tác thanh, kiểm tra còn nhiều hạn chế, công tác giải quyết chính sách cho người có công giải quyết còn chậm. Thực hiện chính sách hỗ trợ đời sống dịp Tết cho hộ nghèo một số nơi còn để xảy ra vi phạm chi sai đối tượng và chế độ quy định (với số tiền cấp sai là 1.570,988 triệu đồng trên tổng số 27.267 triệu đồng, chiếm 5,8%).
15. Thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo
Cơ sở hạ tầng của vùng đồng bào dân tộc tiếp tục được quan tâm đầu tư và phát huy hiệu quả; sản xuất và đời sống của đồng bào dân tộc từng bước được cải thiện và có bước phát triển hơn so với trước.
Hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh nhìn chung phù hợp với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo được các ngành, các cấp quan tâm tạo điều kiện cho bà con giáo dân, tín đồ Phật giáo tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, hoạt động tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo và nguy cơ tái nghèo vùng đồng bào dân tộc còn cao, người dân vẫn còn nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào nhà nước; trình độ sản xuất còn lạc hậu, việc du canh, du cư cục bộ ở một số địa phương vẫn còn tái diễn; một bộ phận cán bộ chủ chốt của xã, thôn, bản trình độ năng lực còn rất thấp; một số phong tục, tập quán lạc hậu chưa được khắc phục. Một số chức sắc tôn giáo tổ chức hành đạo trái quy định, một số xứ họ đạo xâm lấn đất, mở rộng khuôn viên nhà thờ và khai thác gỗ trái phép... chậm được ngăn chặn, xử lý kịp thời.
16. Quốc phòng, an ninh
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác quân sự - quốc phòng 6 tháng đầu năm được chú trọng đẩy mạnh thực hiện toàn diện, đặc biệt duy trì thường xuyên, nghiêm túc các chế độ sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành tốt các nội dung huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị cho các đối tượng theo quy định... Kết quả đã được Bộ tư lệnh Quân khu 4 kiểm tra, đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đã tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ chủ chốt của các sở, ban ngành cấp tỉnh, cấp huyện. Tăng cường các hoạt động xây dựng cơ sở ở các địa bàn biên giới.
Lực lượng công an đã thường xuyên nắm bắt tình hình, tổ chức nhiều đợt trấn áp tội phạm có hiệu quả; đẩy mạnh hoạt động phòng, chống ma tuý trên các địa bàn trọng điểm; triển khai và thực hiện tốt các kế hoạch đảm bảo an toàn cho các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các hoạt động KT-XH trên địa bàn.
Do thực hiện các biện pháp quyết liệt nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn toàn tỉnh, nên số vụ tai nạn giao thông đường bộ giảm mạnh so với cùng kỳ cả về số vụ, số người chết, bị thương . Về vụ chìm đò ở Quảng Hải (Quảng Trạch), thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh đã kiểm điểm nghiêm túc báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đã có công văn chỉ đạo kiểm điểm trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan ; tiếp tục chỉ đạo giải quyết hậu quả, nhất là quan tâm hỗ trợ đối với các gia đình có người tử nạn, nhằm ổn định đời sống và tình hình ở địa phương.
Cùng với lực lượng Công an, Bộ đội Biên phòng đã tích cực ngăn chặn xử lý kịp thời các hoạt động vi phạm chủ quyền biên giới, xuất cảnh trái phép trên 2 tuyến biên giới; tuy nhiên tội phạm trật tự xã hội vẫn diễn biến phức tạp, nhất là tệ nạn buôn bán ma túy, việc khai thác gỗ trái phép, hoạt động của tàu thuyền nước ngoài trên biển.
17. Tư pháp, Thanh tra
Công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL tiếp tục được chú trọng và nâng cao chất lượng. Cơ quan tư pháp các cấp đã chủ động xây dựng và tham mưu cho UBND cùng cấp ban hành văn bản QPPL đúng quy định và tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Luật, Pháp lệnh và các văn bản QPPL khác theo quy định của Trung ương.
Công tác thi hành án dân sự có chuyển biến tiến bộ.
Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tiếp tục được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo tích cực . Nội dung đơn khiếu nại tập trung vào các lĩnh vực tranh chấp đất đai, bồi thường GPMB, chính sách xã hội, y tế, giáo dục, môi trường... Nhìn chung, đơn khiếu nại, tố cáo đã được các tổ chức quan tâm giải quyết đúng trình tự, thủ tục, công khai dân chủ, nên đã hạn chế được những thiếu sót, hạn chế tái khiếu, tái tố. Các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung đơn tố cáo được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân.
Công tác thanh tra: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện theo kế hoạch được phê duyệt và triển khai thanh tra chuyên đề . Qua thanh tra đã phát hiện các dạng sai phạm về kinh tế và kiến nghị thu hồi và đã thu hồi được 785,584 triệu đồng trên tổng số tiền sai phạm 2,53 tỷ đồng. Tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng; tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tỉnh, chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện chương trình hành động phòng chống tham nhũng, lãng phí ở các cấp, các ngành với những việc làm cụ thể, thiết thực hơn.
Tuy vậy, một số vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định, thời gian giải quyết còn kéo dài. Kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý tố cáo, việc tổ chức thực hiện xử lý vi phạm sau thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo chưa kịp thời, thiếu kiên quyết. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, sở, ngành, cơ quan đơn vị chưa đi vào chiều sâu chưa sát thực với tình hình đơn vị mình...
18. Công tác nội vụ
Tổ chức bộ máy, xây dựng chính quyền: Trong 6 tháng đầu năm 2009, đã tiến hành giao chỉ tiêu biên chế theo Nghị quyết của HĐND tỉnh, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các địa phương, đơn vị, nhằm hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao . Tiến hành hợp nhất, sát nhập và điều chuyển nhiệm vụ, quyền hạn, biên chế, cán bộ theo đúng quy định của Nhà nước.
Công tác xây dựng chính quyền tiếp tục được tăng cường, bộ máy chính quyền cơ sở tiếp tục được củng cố và hoàn thiện; đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ, công chức cấp xã từng bước chuẩn hoá. Địa giới hành chính các cấp ổn định, các vụ tranh chấp địa giới hành chính, tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính giảm.
Quy chế dân chủ ở cơ sở đã được các cấp, các ngành, đơn vị quan tâm và triển khai thực hiện có hiệu quả, đã phát huy tinh thần dân chủ của người dân trong việc tham gia QLNN.
Cải cách hành chính: Tiếp tục triển khai và cụ thể hoá các nội dung CCHC theo tinh thần Nghị quyết TW5 (khoá X) về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt đã tích cực triển khai thực hiện đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính . Hầu hết các Sở, ban ngành cấp tỉnh đã có quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức theo cơ chế mới, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được chú trọng; công tác tinh giảm biên chế theo Nghị định số 132/NĐ-CP đã được triển khai (gồm 2 đợt: 331 người). Cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và nâng cao chất lượng QLNN của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh từng bước được hoàn thiện và tăng cường .
Thực hiện Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính, toàn tỉnh đã thống kê được 1.762 thủ tục hành chính, trong đó các cơ quan cấp tỉnh: 1.339 thủ tục, cấp huyện 250 thủ tục và cấp xã 174 thủ tục. Cuối tháng 6 năm 2009 UBND tỉnh ban hành bộ thủ tục hành chính áp dụng chung cho tất cả các huyện, thành phố và xã, phường, thị trấn.
Công tác thi đua khen thưởng: Phong trào thi đua tiếp tục được đẩy mạnh, các cơ quan, đơn vị, địa phương hưởng ứng triển khai các phong trào chào mừng các sự kiện nhân các ngày lễ lớn, phấn đấu thi đua hoàn thành kế hoạch nhà nước giao năm 2009 .
Tuy vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, nhất là cán bộ, công chức cấp xã; một số cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ chưa thật sự là công bộc của dân; thủ tục hành chính một số nơi vẫn còn rườm rà, cơ chế "một cửa" hiệu quả chưa cao; thực hiện đề án 30 ở không ít đơn vị, địa phương còn chậm, thiếu nghiêm túc, chuyển đổi vị trí công tác theo Nghị định 158/NĐ-CP tỷ lệ còn thấp; chất lượng phong trào thi đua có lúc, có nơi chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; việc triển khai và nhân rộng các điển hình tiên tiến chưa mạnh; công tác khen thưởng có lúc thực hiện thiếu chặt chẽ, chưa chú trọng chất lượng, còn nặng phong trào, khen thưởng còn dàn trải./.

Website UBND tỉnh Quảng Bình

    Tổng số lượt xem: 1550
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)