Triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong những tháng đầu năm 2014 trong bối cảnh Kinh tế cả nước còn nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh do những yếu kém nội tại của nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để, chậm được khắc phục. Tín dụng ngân hàng chưa dễ tiếp cận, sức tiêu thụ chung của thị trường và thị trường bất động sản chậm phục hồi, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ít đột phá ....
Mặc dù vậy, trong 6 tháng đầu năm 2014 với những cố gắng trong chỉ đạo điều hành của Đảng bộ và Chính quyền địa phương, với sự nổ lực của các ngành, các cấp; kinh tế xã hội tỉnh Bình Thuận có một số mặt chuyển biến tích cực. Sản xuất vụ đông xuân ổn định; Xuất khẩu thuỷ sản đạt khá; Hoạt động dịch vụ và du lịch tiếp tục tăng trưởng; Giá mặt hàng tiêu dùng giữ ổn; An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; Hoạt động kỷ niệm các ngày lễ được tổ chức trang trọng, tạo khí thế tự hào, phấn khởi trong nhân dân. Tuy vậy một số lĩnh vực gặp không ít khó khăn: Tiến độ xây dựng các khu công nghiệp chậm; Thu hút đầu tư nước ngoài ít; Xuất khẩu hàng nông sản giảm sút so với cùng kỳ … đã tác động không nhỏ đến đầu tư, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đời sống của các tầng lớp dân cư. Sau đây là tình hình cụ thể:
I. Nông Lâm Thuỷ sản
1. Nông nghiệp
Gieo trồng cây hàng năm vụ đông xuân 2013 - 2014 toàn tỉnh đạt 46.747 ha, đạt 110,8% KH vụ, tăng 8,9% so với đông xuân năm trước; trong đó nhóm cây lương thực đạt 39.954 ha, đạt 120,7% so với kế hoạch vụ, tăng 7,5% so với đông xuân năm trước (lúa35.903 ha đạt 119,3% so với kế hoạch, tăng 6,7% so với năm trước; bắp 4.051 ha đạt 135% kế hoạch, tăng 15,2% so với năm trước). Cây chất bột có củ đạt 351 ha, tăng 23,2% so với năm trước. Cây thực phẩm 4.508 ha, đạt 63,9% kế hoạch vụ, tăng 17,1% so với năm trước. Cây công nghiệp ngắn ngày 1.750 ha, đạt 107,4% so với kế hoạch vụ, tăng 17,2% so với năm trước.
Qua tổng hợp sơ bộ cho thấy năng suất lúa đạt 61,5 tạ/ha (đông xuân năm trước đạt 59,8 tạ/ha); năng suất bắp đạt 77,5 tạ/ha (đông xuân năm trước 75,4 tạ/ha). Ước sản lượng lương thực đông xuân năm nay đạt 252,4 ngàn tấn (tăng 24,8 ngàn tấn so với đông xuân năm trước), trong đó lúa 221 ngàn tấn (tăng 19,9 ngàn tấn); bắp 31,4 ngàn tấn (tăng 4,9 ngàn tấn).
Đạt được kết quả trên do thời tiết sản xuất tương đối thuận lợi. Ngay từ đầu vụ các hộ sản xuất nông nghiệp đã tận dụng những chân ruộng đảm bảo đủ độ ẩm, nguồn nước tưới được chủ động từ hệ thống các công trình thuỷ lợi mở rộng diện tích trồng lúa, xuống giống đồng loạt theo lịch, sử dụng các loại giống lúa xác nhận có năng suất cao.
Thực hiện Chương trình xã hội hoá giống lúa và mô hình cánh đồng lúa năng suất cao tiếp tục được triển khai vụ Đông xuân 2013 – 2014 đã thực hiện được 358 ha giống lúa xác nhận và triển khai được 1.854 ha sản xuất lúa theo mô hình cánh đồng lúa năng suất cao (Hàm Thuận Bắc 44 ha, Hàm Thuận Nam 10 ha, Đức Linh 300 ha, Tánh Linh 1.500 ha). Kết quả, năng suất lúa đạt khá cao như: Tánh Linh đạt 68 tạ/ha, Đức Linh đạt 60 tạ/ha, Hàm Thuận Bắc 58,2tạ/ha …
Tiến độ sản xuất vụ hè thu 2014:
Đến 10/6/2014 gieo trồng vụ hè thu đạt 84.967 ha đạt 87,59% kế hoạch, bằng 88,2% so với cùng kỳ năm trước; riêng cây lúa đạt 37.989 ha, bằng 93% so cùng kỳ năm trước (do thời gian xuống giống vụ mùa năm trước ở một số huyện bị trễ khoảng 20 ngày do khan hiếm nước nên làm ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất vụ hè thu này), trong đó: Đức Linh 8.021 ha, Tánh linh 7.650 ha, Tuy Phong 1.857 ha, Bắc Bình 7.100 ha, Hàm Thuận Nam 2.460 ha, Phan Thiết 80 ha, La Gi 559 ha, Hàm Tân 701 ha.
Ngoài lúa, một số cây trồng khác đã triển khai thực hiện như sau: Bắp 8.864 ha (huyện Hàm Tân 3.092 ha, Tánh Linh 1.050 ha,Đức Linh 837 ha, Bắc Bình 1.995 ha); cây có bột khác 27.179 ha (chủ yếu cây mỳ 25.669 ha); rau các loại 3.075 ha; đậu các lọai 1.796 ha; dưa lấy hạt 815 ha; cây công nghiệp ngắn ngày 5.249 ha (trong đó đậu phụng 746 ha, mè 4.446 ha).
Tình hình sâu bệnh:
- Trên lúa: Trong tháng rầy nâu gây hại trên cây lúa ở giai đoạn đẻ nhánh mật độ 800 – 1.000 con/m2 với diện tích nhiễm là 20 ha (gây hại ởhuyện Hàm Thuận Bắc); sâu cuốn lá gây hại rải rác trên lúa giai đoạn đẻ nhánh mật độ 5 - 10%, diện tích nhiễm bệnh 43 ha (ở huyện Tánh Linh và Tuy Phong); bệnh ốc bươu vàng trong giai đoạn mạ, diện tích nhiễm 103 ha (ở Thị xã La Gi, Hàm Thuận Bắc); bệnh cháy bìa lá 66 ha giai đoạn đang đẻ nhánh (huyện Tánh Linh, La Gi); bệnh đạo ôn lá 525 ha ở giai đoạn đẻ nhánh (huyện Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc). Các ngành chức năng đã phối hợp với các địa phương triển khai công tác phòng chống dịch rầy nâu, sâu cuốn lá, ốc bươu vàng, bệnh cháy bìa lá, ốc bươu vàng để quản lý phòng trừ dịch hại có hiệu quả.
- Trên cây mì, diện tích nhiễm bệnh nhện đỏ, rệp sáp, vàng lá, chổi rồng 115 ha (tại huyện Hàm Tân).
- Các cây trồng khác như Thanh long nhiễm bệnh đốm trắng (đốm nâu – tắc kè), diện tích nhiễm 238 ha (huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình, Phan Thiết); bệnh thán thư 141 ha (gây hại rải rác ở các huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, La Gi); bệnh vàng cành, cháy cành diện tích nhiễm bệnh 1.452 ha (toàn vùng trồng thanh long trong tỉnh); kiến, bọ trĩ, bọ xít 253 ha (huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình, La Gi).
- Trên cây điều, diện tích nhiễm khô bông, thán thư 18 ha (chủ yếu tại La Gi); sâu các loại diện tích nhiễm 46 ha (La Gi).
Phát triển cây lâu năm:
Tổng diện tích cây lâu năm hiện có 99.843 ha (tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước), trong đó: cây công nghiệp lâu năm 64.415 ha (tăng 3,8%); cây ăn quả lâu năm 31.870 ha (tăng 1,1%); cây lâu năm khác 3.558 ha (giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước). Một số cây trồng chính như sau:
- Thanh long: Diện tích hiện có 21.191 ha (tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước). Trong những năm gần đây giá bán thanh long có xu hướng liên tục tăng cao và ổn định nên cây thanh long đã phát triển một cách tự phát, tràn lan, thiếu qui hoạch, gây không ít khó khăn trong việc quản lí đất nông nghiệp. Riêng 6 tháng đầu năm 2014, diện tích trồng mới đã đạt 1.279 ha. Hiện nay, giá bán thanh long giảm mạnh (từ 15 – 17 ngàn đồng/kg ở tháng trước đã giảm xuống còn 8 - 10.000 đ/kg, loại xuất khẩu). Nguyên nhân do nhiều loại trái cây vào chính vụ nên thị trường dội hàng, hơn nữa đang vào thời điểm rộ thu hoạch chính vụ, sản lượng thu hoạch cao hơn nhiều so với chong điện nên giá bán giảm đi.
- Cao su: Diện tích hiện có đạt 42.783 ha (tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước). Những năm trước đây, giá tiêu thụ khá cao, song từ đầu năm 2013 đến nay giá bán liên tục giảm (từ 14 ngàn đồng/kg mủ tươi đã giảm xuống còn 8 ngàn đồng/kg). Nguyên nhân giảm do, lượng cao su tồn kho trên thế giới vẫn duy trì ở mức cao, thị trường tiêu thụ sản lượng lớn của tỉnh chủ yếu là Trung Quốc, nhưng giá xuất khẩu hiện tại sang thị trường này đang ở mức rất thấp (thấp nhất trong vòng 4 năm trở lại đây) nên các doanh nghiệp xuất khẩu đang ghim hàng chờ tăng giá, lượng hàng tồn kho tại các doanh nghiệp còn nhiều, giá thu mua mủ tươi vì thế giảm theo.
- Cây điều: Diện tích hiện có 17.918 ha (giảm 4,1% so với cùng kỳ năm trước). Do phần lớn diện tích điều trên địa bàn tỉnh đã già cổi, diện tích điều cao sản chưa được phát triển nhiều, đa số nông dân trồng điều chỉ áp dụng biện pháp thâm canh như: bón phân, phun thuốc, làm cỏ, tỉa cành (chủ yếu theo kinh nghiệm nên hiệu quả không cao). Cây điều lại được trồng trên những vùng đất bạc màu, vùng khô hạn nên gặp thời tiết sâu bệnh dễ phát triển làm giảm năng suất. So với các năm trước, giá điều hiện nay giảm mạnh do thị trường xuất khẩu nhân hạt điều bị thu hẹp, giá thành sản xuất cao hơn giá xuất khẩu, dẫn đến các doanh nghiệp hạ giá thu mua điều nguyên liệu. Năng suất kém, giá đầu ra thấp, là nguyên nhân dẫn đến diện tích cây điều trên toàn tỉnh ngày càng bi thu hẹp thế chỗ cho cây khác có giá trị cao hơn.
- Cây trôm: Diện tích hiện có 780 ha (tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước). Cây trôm phát triển, tập trung ở huyện Tuy Phong và Bắc Bình, có giá trị kinh tế cao, thích hợp với vùng đất cát khô hạn, đầu ra tương đối ổn định, giá thu mua tại vườn từ 220 – 250 ngàn đồng/kg, hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có Công ty thu mua đóng gói sản phẩm tiêu thụ trong nước, diện tích cây trôm dự kiến sẽ tăng thêm trong vài năm tới.
- Cây ca cao: Diện tích hiện có 253 ha (giảm 26,0% so với cùng kỳ năm trước). Những năm gần đây, cây ca cao được người dân huyện Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc trồng xen dưới tán điều, đã mang lại hiệu quả thiết thực cho không ít gia đình. Tuy nhiên ở thời điểm hiện tại giá ca cao giảm, ảnh hưởng một số loại sâu bệnh làm năng suất giảm, hiệu quả kinh tế thấp, một số người dân đã chặt bỏ dần diện tích.
Công tác thuỷ lợi: Đến 10/6/2014 trên địa bàn toàn tỉnh đã có những cơn mưa xuất hiện trên diện rộng, lượng nước trữ trong các hồ chứa thuỷ lợi được nâng cao. Đối với những diện tích đã xuống giống, Công ty TNHH một thành viên khai thác công trình thuỷ lợi tỉnh chủ động phối hợp với Chi cục thuỷ lợi, Công ty Cổ phần thuỷ điện Đại Ninh và Công ty thuỷ điện Đa Nhim – Hàm Thuận – Đa Mi quản lí chặt chẽ nguồn nước trong các hệ thống công trình thuỷ lợi, ao, bàu, vùng trũng nhằm phục vụ tốt cho người dân sản xuất. Công tác nạo vét, khai thông các kênh trục chính, tu bổ, gia cố, sửa chữa kênh, cống lấy nước, trạm bơm nước, kiểm tra toàn bộ hệ thống kênh tưới trong các công trình thuỷ lợi sẵn sàng cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp được ngành chức năng tích cực triển khai.
Đến nay diện tích tưới vụ Đông xuân 2013 - 2014 thuộc hệ thống công trình thuỷ lợi đạt 32.146 ha/ 34.615 ha kế hoạch (đạt 92,86% kế hoạch).
Riêng diện tích cây Thanh long và các loại cây trồng khác là 11.080 ha/10.935 ha kế hoạch (đạt 101,32% kế hoạch).
Diện tích tưới cây lúa, hoa màu vụ Hè thu 2014 thuộc hệ thống công trình thuỷ lợi đến nay đạt 29.045,9 ha/34.615,8 ha kế hoạch (đạt 83,9% kế hoạch).
Chăn nuôi:Theo kết quả điều tra 01/6/2014
- Đàn trâu có 8.808 con (tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước); đàn bò có 160.091 con (giảm 5,2%). Xu hướng chăn nuôi không phát triển thêm đàn bò do diện tích chăn thả bị thu hẹp, vào mùa khô không có cỏ tự nhiên để làm thức ăn.
- Đàn lợn toàn tỉnh có 246.100 con (tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước). Bình quân toàn tỉnh 11,26 con/hộ có chăn nuôi lợn, trong đó Hàm Tân đạt cao nhất (99,6 con/hộ), kế đến là Đức Linh (21,3 con/hộ), Phan Thiết (18,2 con/hộ) La Gi (18,9 con/hộ). Số lượng đàn lợn trong các trang trại vẫn duy trì được tính ổn định, tổng đàn lợn của các trang trại là 61.460 con tăng 1,03% so cùng kỳ. Các doanh nghiệp chăn nuôi lợn ngày càng phát triển, đàn lợn nuôi trong các doanh nghiệp đạt 23.540 con; quy mô bình quân một trang trại đạt 1.336 con/trang trại, bình quân đạt 5.885 con/doanh nghiệp. Đàn lợn phát triển ổn định, có xu hướng phục hồi nhanh do giá thức ăn gia súc, giá giống, giá tiêu thụ ổn định, dịch bệnh không xảy ra
- Đàn gia cầm có là 2.985 ngàn con (giảm 12,8% so cùng kỳ năm trước). Trang trại gia cầm hiện có 08 trang trại với 102 ngàn con chiếm (3,87% so với tổng đàn); doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nuôi gia cầm hiện có 01 doanh nghiệp với 38 ngàn con (chiếm 1,44% so với tổng đàn). Quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ (chủ yếu là hộ gia đình). Đàn gia cầm có xu hướng giảm do thời gian qua một số địa bàn xảy ra dịch cúm gia cầm.
Công tác phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm:
Sau đợt dịch cúm gia cầm xảy ra tại xã Nam Chính (huyện Đức Linh), các ngành, các cấp đã phối hợp chặt chẽ triển khai cấp bách các biện pháp phòng chống dịch bệnh nên dịch cúm gia cầm được khống chế hoàn toàn đàn gia cầm được giám sát chặt chẽ đến tận hộ chăn nuôi; lập chốt quản lý ra vào khu vực có dịch; nghiêm cấm việc mua bán, vận chuyển gia cầm và sản phẩm gia cầm trong vùng dịch; công tác kiểm tra, giám sát tình hình dịch bệnh trên đàn gia cầm được tiếp tục tăng cường, thành lập 03 chốt kiểm dịch động vật tạm thời nhằm kiểm soát tình trạng vận chuyển gia súc, gia cầm ra vào tỉnh. Sau khi hết dịch, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với UBND huyện Đức Linh thông báo việc giết mổ, mua, bán, vận chuyển gia cầm, sản phẩm gia cầm trên địa bàn xã Nam Chính, huyện Đức Linh được hoạt động trở lại bình thường và ngưng hoạt động các chốt kiểm dịch động vật đồng thời tiếp tục triển khai công tác phòng, chống dịch cúm gia cầm theo chỉ đạo của Trung ương, của UBND tỉnh; đề phòng phát sinh những ổ dịch mới và không để dịch bệnh tái phát.
Công tác tiêm phòng: Trong 6 tháng đầu năm 2014 các địa phương trên toàn tỉnh đã thực hiện tiêm phòng 3,348 triệu liều vắc xin (đàn trâu, bò 17 ngàn liều; đàn heo 325 ngàn liều; đàn gia cầm 3,0 triệu liều); trong đó có 455 ngàn liều Cúm gia cầm H5N1 do Trung ương hổ trợ để tiêm phòng bao vây khẩn cấp ổ dịch xã Nam Chính và các xã giáp ranh.
Kiểm dịch động vật: Trong 6 tháng đã kiểm dịch gia súc 535 ngàn con; gia cầm 406 ngàn con.
Kiểm soát giết mổ: Trong 6 tháng đã kiểm soát giết mổ gia súc 14,5 ngàn con; gia cầm 61 ngàn con.
2. Lâm nghiệp
Các địa phương trong tỉnh đã tích cực chủ động trong công tác phòng chóng cháy rừng (PCCR); kiện toàn Ban Chỉ huy về PCCR. Đã thành lập 9 ban chỉ huy PCCR huyện, 69 ban chỉ huy PCCR xã, 360 tổ, đội PCCR ở các địa phương; xây dựng 394,46 km đường băng cản lửa, 5 chòi canh lửa; trang bị 293 máy móc, 2.186 dụng cụ thủ công, sẵn sàng ứng phó khi có tình huống cháy khẩn cấp xảy ra. Ngoài ra còn yêu cầu các hộ dân sống trong khu vực có rừng ký cam kết bảo vệ rừng, không gây cháy hoặc phát hiện cháy phải báo ngay cho trạm bảo vệ rừng gần nhất.
Đến nay, các chủ rừng và các doanh nghiệp đã giống gieo tạo được 4.329.000 cây, trong đó Phi lao 125.000 cây, Keo lai 2.770.000 cây, Keo lá liềm 325.000 cây, Keo lá tràm 460.000 cây, Bạch đàn 600.000 cây, Trôm: 47.000 cây, Xoan chịu hạn 2.000 cây; chuẩn bị đất, tiếp tục chăm sóc cây giống để phục vụ trồng rừng khi điều kiện thời tiết thuận lợi.
Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Tình hình phá rừng, nhất là khai thác vận chuyển gỗ trái phép ở các vùng trọng điểm giáp ranh giữa Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc với huyện Đức Trọng, Di Linh tỉnh Lâm Đồng và khu vực nội tỉnh, nhất là địa bàn huyện Tánh Linh, Hàm Tân vẫn diễn biến phức tạp. Trong 6 tháng đầu năm, đã phát hiện 421 vụ vi phạm lâm luật, trong đó: phá rừng trái phép 21 vụ, khai thác gỗ và lâm sản khác 56 vụ, vi phạm về phòng chống cháy rừng 2 vụ, mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 162 vụ, vi phạm quy định về chế biến gỗ và lâm sản khác 8 vụ, vi phạm khác 172 vụ. Số vụ vi phạm đã xử lý 412 vụ (407 vụ hành chính, 5 vụ hình sự), tịch thu 244,6 m3 gỗ tròn, 179,8 m3 gỗ xẻ và một số phương tiện vi phạm. Tổng số tiền phạt, bán tang vật nộp vào ngân sách 2,93 tỷ đồng.
3. Thủy sản
Ngư trường trong 6 tháng đầu nhìn chung thuận lợi, các tàu đánh bắt xa bờ hoạt động liên tục, các loại cá nổi xuất hiện gần bờ khá dày. Các nghề hoạt động khá hiệu quả là: Lưới rê, câu khơi, câu mực, vay rút chì và một số nghề hoạt động ven bờ. Ước sản lượng hải sản khai thác 6 tháng đạt 78,66 ngàn tấn, tăng 4,6 ngàn tấn so cùng kỳ năm trước; trong đó: Phan Thiết tăng 2,5 ngàn tấn, La Gi tăng 2,0 ngàn tấn, Tuy Phong và Phú Quý tăng 1,0 ngàn tấn.
Toàn tỉnh có 7.516 tàu thuyền khai thác với tổng công suất 787.697cv. Trong 4 tháng đã đóng mới 7 chiếc/3.134 cv (bình quân mỗi chiếc đóng mới 447,7 cv). Bên cạnh đầu tư vốn vào đóng mới tàu thuyền, ngư dân đã đầu tư vào cải hoán, thay máy tàu thuyền từ công suất nhỏ lên công suất lớn và mua sắm mới nên loại tàu cá dưới 90cv giảm dần, loại tàu cá từ 90cv trở lên tăng nhanh, Đến nay đã có 2.233 tàu có công suất từ 90cv trở lên (so với cuối năm 2013 tăng thêm 58 chiếc, trong đó tàu từ 90 - 300cv tăng 41 chiếc; trên 300cv tăng 17 chiếc).
Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với các ngành hữu quan thường xuyên tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và triển khai thực hiện Chỉ thị cấm các tổ chức khai thác các loài hải đặc sản gồm sò lông, điệp, dòm nâu, bàn mai, nghêu lụa trên toàn vùng biển Bình Thuận từ ngày 1/4 đến 31/7/2014. Từ đầu năm đến nay đã xử lý 233 vụ vi phạm (tăng 39 vụ so với cùng kỳ năm trước). Đã xử phạt và thu nộp ngân sách nhà nước 1.021 triệu đồng.
Nuôi trồng thuỷ sản:
Diện tích thuỷ sản nuôi thả 6 tháng ước đạt 1.684 ha (tăng 29 ha so với cùng kỳ năm trước); trong đó diện diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 751 ha, tăng 9 ha, diện tích nuôi nước ngọt 933 ha, tăng 20 ha. Nhìn chung tôm nuôi phát triển khá ổn định do các địa phương tuân thủ tốt lịch thả nuôi và chất lượng con giống phù hợp, mật độ tôm nuôi thưa hơn, vệ sinh ao hồ cũng được chú trọng, nên hạn chế dịch bệnh. Trong những tháng đầu năm 2014 có hiện tượng tôm bỏ ăn, bị nhiễm bệnh ở một số địa phương trong tỉnh (có 3,7 ha diện tích nuôi tôm bị xả bỏ do tôm bỏ ăn chậm lớn và nghi bệnh hoại tử gan cấp tính và 14,6 ha thu hoạch sớm do có dấu hiệu bệnh đốm trắng tập trung ở các xã Vĩnh Tân, Phước Thể huyện Tuy Phong; xã Sơn Mỹ huyện Hàm Tân). So với cùng kỳ năm trước dịch bệnh trên tôm nuôi giảm khá nhiều. Dự ước năng suất tôm thẻ đạt 8,7 tấn/ha (cùng kỳ năm trước: 8,2 tấn/ha); giá tôm thương phẩm đang có xu hướng giảm so cùng kỳ, (giảm 5 - 10 ngàn đồng/kg) nên nhiều hộ nuôi chưa mạnh dạn thả giống.
Nuôi thủy sản trên biển gặp khó khăn về thị trường đầu ra, thời gian nuôi kéo dài, đối tượng nuôi cá mú cọp, tập trung nuôi nhiều ở vùng biển huyện Phú Quý, giá cả không ổn định (hiện nay giá bán đang giao động từ 170 - 240 ngàn đồng/kg, so với thời điểm cùng năm trước đã giảm từ 100 - 120 ngàn đồng/kg). Sản lượng thu hoạch 6 tháng ước đạt 56 tấn (giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước).
Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản 6 tháng ước đạt 6.487 tấn (tăng 1,32% so với cùng kỳ năm trước).
Sản xuất tôm giống ổn định, công tác kiểm dịch xét nghiệm mẫu được duy trì thường xuyên. Ước 6 tháng xuất bán 7,56 tỷ post (tăng 3,7% so cùng kỳ năm trước).
II. Công nghiệp; Đầu tư phát triển
1. Công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 6 tháng năm 2014 so với cùng kỳ năm trước ước đạt 104,78% (tăng 4,78%).
Tính theo giá so sánh 2010, dự ước giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đạt 8.569 tỷ đồng (tăng 10,5% so với 6 tháng năm trước); trong đó công nghiệp khai khoáng 379,5 tỷ đồng (tăng 13,7%); công nghiệp chế biến chế tạo 5.541,8 tỷ đồng (tăng 6,1%); sản xuất và phân phối điện đạt 2.573,8 tỷ đồng (tăng 20,8%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 73,9 tỷ đồng (tăng 8,2%).
Các sản phẩm tăng (giảm) so với 6 tháng năm trước là: khai thác cát xây dựng (tăng 2,3% so với 6 tháng năm trước), đá xây dựng (tăng 12,3%), gạch nung (giảm 10,8%), thủy sản đông lạnh (tăng 2,5%), thủy sản khô (tăng 2,6%), nước mắm (giảm 1,6%), hạt điều nhân (giảm 2,3%), đường (giảm 5,6%), nước uống đóng chai (tăng 0,7%), nước đá (tăng 3,6%), nước máy sản xuất (tăng 2,0%), muối hạt (tăng 2,6%), hàng may mặc (tăng 21,0%), điện sản xuất (tăng 20,1%).
Trong 6 tháng đầu năm tiếp tục thi công thuỷ điện Sông Luỹ, thuỷ điện Đan Sách 2,3; khởi công điện gió Phú Lạc; lập thủ tục chuẩn bị đầu tư điện gió Phước Thể, Phong điện 1- Bình Thuận (giai đoạn 2); đưa vào vận hành phát điện tổ máy số 1 (622 MW), lắp đặt tổ máy số 2 – Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2; khởi công Nhiệt điện Vĩnh Tân 4; thi công các tuyến đường dây 220KV Vĩnh Tân - Phan Thiết, Vĩnh Tân – Tháp Chàm.
Nhìn chung sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu có nhiều chuyển biến. Sản xuất các sản phẩm may mặc, thuỷ sản đông, khô, đồ gỗ tăng khá so với cùng kỳ năm trước do thị trường xuất khẩu tiếp tục giữ ổn định; đá xây dựng tăng khá do nhu cầu thi công mở rộng Quốc lộ 1A; sản lượng điện phát ra tăng khá; chế biến các sản phẩm lương thực, thực phẩm tiếp tục tăng do thị trường tiêu thụ trong tỉnh được giữ vững.
Tiến độ đầu tư và thu hút các Khu công nghiệp (KCN), Cụm công nghiệp (CCN)
+ KCN Phan Thiết giai đoạn 1: Hoàn chỉnh hạ tầng kĩ thuật, bảo đảm hoạt động của các doanh nghiệp. Lấp đầy 100% diện tích với 27 dự án, diện tích đất thuê 44,8 ha.
+ KCN Phan Thiết giai đoạn 2: Chủ đầu tư tiếp tục thi công các hạng mục công trình dịch vụ; khối lượng thi công đạt thấp (đạt 0,3 tỷ đồng/KH 2 tỷ đồng). Trong 6 tháng chưa thu hút thêm dự án nào; lũy kế thu hút đầu tư đến nay được 05 dự án, diện tích đất thuê 9,02 ha, tổng vốn đăng ký 135 tỷ đồng; lấp đầy 37,7% diện tích.
+ KCN Hàm Kiệm 1: Đến nay đã cơ bản hoàn chỉnh một số hạ tầng thiết yếu thu hút dự án đầu tư. Vốn đầu tư thực hiện 6 tháng ước đạt 3,2 tỷ đồng/KH 12,5 tỷ đồng; luỹ kế đến nay đạt 138,4 tỷ đồng (đạt 50,6% tổng vốn đầu tư). Trong 6 tháng thu hồi 01 dự án; thu hút thêm 02 dự án.Lũy kế thu hút đến nay được 08 dự án, diện tích đất thuê 29,89 ha, trong đó có 6 dự án đầu tư trong nước và 2 dự án đầu tư có vốn nước ngoài, với tổng vốn đầu tư là 886,65 tỷ đồng và 5,51 triệu USD.
+ KCN Hàm Kiệm 2: Đến nay đã cơ bản hoàn chỉnh hạ tầng thiết yếu giai đoạn 1, đang triển khai đầu tư hạ tầng giai đoạn 2. Vốn đầu tư thực hiện 6 tháng ước đạt 4/70 tỷ đồng; luỹ kế đến nay đạt 254 tỷ đồng (đạt 51,7% tổng vốn đầu tư). Trong 6 tháng thu hồi 01 dự án; thu hút 01 dự án; lũy kế thu hút đầu tư đến nay được 03 dự án, diện tích cho thuê 27,29 ha, với tổng đầu tư là 199,46 tỷ đồng và 19,8 triệu USD; lấp đầy 9,71% diện tích.
+ KCN Sông Bình: Đến nay thi công san lắp mặt bằng được 280 ha; vốn đầu tư thực hiện 6 tháng đạt 4/400 tỷ đồng; luỹ kế đến nay đạt 43,2 tỷ đồng (đạt 5,2% tổng vốn đầu tư) hiện đã thu hút được 2 dự án (trong đó có 1 dự án nước ngoài); với vốn đầu tư là 1.382,5 tỷ đồng và 40 triệu USD với diện tích cho thuê 57,56 ha.
+ KCN Sơn Mỹ I: hiện đang tiến hành công tác đền bù giải toả, chuẩn bị khởi công.
+ KCN Tân Đức; KCN Sơn Mỹ 2: hiện đang tiến hành điều chỉnh quy hoạch chi tiết do điều chỉnh giảm diện tích quy hoạch.
+ KCN Tuy Phong: hiện đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư và đã khởi công xây dựng vào ngày 12/4/2014.
Đến nay, đã có 20 cụm công nghiệp thành lập; trong đó có 6 cụm do doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, còn lại là do Trung tâm Phát triển cụm công nghiệp huyện làm chủ đầu tư hạ tầng hoặc UBND huyện quản lý. Một số CCN đầu tư hạ tầng đến nay như sau:
+ CCN hải sản Phú Hài, quy mô diện tích 14,8 ha: do Trung tâm Phát triển cụm công nghiệp thành phố Phan Thiết quản lý, cụm đã được đầu tư cơ bản về hạ tầng; từ năm 2012 được ngân sách tỉnh hỗ trợ đầu tư khu xử lý nước thải tập trung và nâng cấp một số tuyến giao thông, đầu tư hệ thống chiếu sáng trong cụm.
+ CCN gạch ngói Gia An quy mô diện tích 32,5 ha do Trung tâm Phát triển CCN huyện Tánh Linh làm chủ đầu tư, hiện ngân sách tỉnh hỗ trợ đầu tư hạ tầng giao thông đấu nối cụm.
+ CCN Nghị Đức quy mô diện tích 10 ha do Công ty TNHH Đức Mạnh làm chủ đầu tư. Hiện đã triển khai đầu tư trục giao thông của cụm và san lấp mặt bằng đảm bảo thu hút dự án đầu tư thứ cấp.
+ CCN Thắng Hải 1 quy mô diện tích 50 ha và CCN Thắng Hải 2 quy mô diện tích 40 ha do Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển công nghiệp Bảo Thư làm chủ đầu tư, hiện đã triển khai đầu tư hạ tầng cơ bản, đảm bảo đủ điều kiện để thu hút dự án đầu tư thứ cấp.
+ CCN Vũ Hòa quy mô diện tích 17 ha, trước đây quy mô diện tích cụm là 71 ha (chủ yếu là các cơ sở sản xuất gạch) do UBND huyện Đức Linh làm chủ đầu tư, đã triển khai đầu tư một số tuyến giao thông trong cụm; nay giao Trung tâm Phát triển cụm công nghiệp huyện Đức Linh. Sau khi thực hiện chủ trương xóa bỏ lò gạch thủ công, chuyển đổi sang lò gạch hoffman, UBND tỉnh đã thống nhất điều chỉnh diện tích cụm công nghiệp còn lại 17 ha, khu vực này hiện là đất trống chưa đầu tư hạ tầng.
Nhìn chung, từ đầu năm đến nay, tiến độ đầu tư xây dựng các KCN, CCN chậm, một số dự án trong quá trình triển khai thực hiện còn gặp nhiều khó khăn.
2. Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách địa phương 6 tháng ước đạt 607 tỷ đồng, đạt 55,3% KH năm; trong đó: Vốn cân đối ngân sách cấp tỉnh đạt 468 tỷ đồng (đạt 59,1% KH); Vốn cân đối ngân sách cấp huyện đạt116 tỷ đồng (đạt 40,8% KH).
Các công trình trọng điểm được triển khai khá tích cực, nhất là các công trình giao thông trọng điểm, cấp bách được thực hiện quyết liệt để sớm hoàn thành, đưa vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Dù tình hình kinh tế chưa thoát khỏi khó khăn, tỉnh đã bổ sung từ nguồn tạm ứng ngân sách địa phương để khởi động dự án đường ven biển Hòa Thắng - Hòa Phú.
Thực hiện dự án cải tạo, mở rộng Quốc lộ 1; đến cuối quý I/2014 tỉnh đã hoàn thành bàn giao mặt bằng được 169 km để thi công. Công tác di dời các công trình hạ tầng như công trình điện hạ thế, đường ống dẫn nước, viễn thông được thực hiện đúng kế hoạch.
Dự ước Vốn đầu tư phát triển xã hội 6 tháng trên địa bàn đạt khoảng 8.000 tỷ đồng.
Trong 6 tháng đã cấp đăng ký mới cho 256 doanh nghiệp, vốn đăng ký 906,14 tỷ đồng; cấp đăng ký thay đổi 410 doanh nghiệp; thông báo giải thể 47 doanh nghiệp, xóa tên 12 chi nhánh và văn phòng đại diện; thông báo tạm ngừng hoạt động 36 doanh nghiệp. Đã cấp giấy chứng nhận đầu tư 24 dự án và cấp điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư 22 dự án, với tổng vốn đăng ký thực hiện tăng 1.274 tỷ đồng.
III. Thương mại, Giá cả; Du lịch; Xuất nhập khẩu; Giao thông vận tải, Thông tin truyền thông
1. Thương mại, Giá cả
Tổng mức bán lẻ hàng hóa 6 tháng ước đạt 10.815 tỷ đồng, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng 8,1%).
Hàng hoá trên thị trường phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã, đáp ứng nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng. Trong dịp Tết, giá cả hàng hoá không có biến động tăng cao, các mặt hàng thiết yếu giữ ổn định. Việc cung ứng hàng hóa phục vụ Tết đáp ứng nhu cầu mua sắm của dân cư trên khắp địa bàn, không xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá. Đã tổ chức thực hiện 20 Chương trình “Đưa hàng Việt về nông thôn” đến các vùng quê, miền núi, hải đảo tại các huyện Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Tân, Đức Linh, Tánh Linh, Phú Quý; tổ chức Hội chợ triển lãm Công thương vùng kinh tế Đông Nam bộ (tại TP Phan Thiết) nhằm thúc đẩy giao thương quảng bá sản phẩm, tìm kiếm thị trường giữa các tỉnh. Trong dịp này các doanh nghiệp có cơ hội thiết lập kênh phân phối tiêu thụ hàng hóa tại các địa phương.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2014 là 100,19% (tăng 0,19% so với tháng trước). So với tháng 12/2013, chỉ số giá tiêu dùng là 102,56% (sau 6 tháng tăng 2,56%). Nhìn chung so với đầu năm, hầu hết các nhóm hàng đều tăng, song tăng ở mức thấp trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống; đồ uống và thuốc lá; may mặc, mũ nón, giày dép; thiết bị đồ dùng gia đình; giao thông tăng cao hơn so với mức tăng chung (tăng trên 2,56% so với tháng 12/2013). Nếu so với cùng kỳ năm trước (sau 1 năm) thì chỉ số giá tiêu dùng là 106,48% (tăng 6,48%); trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, may mặc, mũ nón, giầy dép, nhà ở và vật liệu xây dựng, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng cao hơn mức tăng chung. Nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép là nhóm tăng cao nhất (tăng 9,54%).
Công tác Quản lý thị trường được tiếp tục tăng cường như chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại, an toàn vệ sinh thực phẩm, ổn định giá các mặt hàng thiết yếu trên địa bàn tỉnh. Trong gần 5 tháng (đến 10/5/2014), lực lượng Quản lý thị trường đã kiểm tra 1.297 vụ, phát hiện và xử lý 707 vụ vi phạm; đã xử phạt vi phạm hành chính và thu nộp ngân sách Nhà nước trên 3,5 tỷ đồng.
Về kiểm tra các mặt hàng trọng tâm: Đã kiểm tra 23 lượt/96 cơ sở kinh doanh xăng dầu, 56 lượt/186 cơ sở kinh doanh khí dầu mỏ hoá lỏng, 79 lượt/235 cơ sở kinh doanh thuốc lá, thực phẩm.
2. Du lịch
Hoạt động du lịch tiếp tục phát triển. Năm nay số ngày nghỉ Tết Nguyên đán; nghỉ lễ 30/4, 1/5 kéo dài nhiều ngày hơn (do được hoán đổi ngày nghỉ) nên lượt khách đến và số ngày lưu trú khá hơn các năm trước. Vào các ngày lễ, tết, ngày nghỉ cuối tuần, khách du lịch đến nghỉ dưỡng khá đông, công suất buồng phòng đạt trên 95%. Khu du lịch Hàm Tiến, Mũi Né (TP Phan Thiết) vẫn luôn là điểm đến được đông đảo du khách lựa chọn.
Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch được duy trì thường xuyên. Đã thực hiện phóng sự truyền hình giới thiệu hoạt động mừng Xuân 2014 và quảng bá hình ảnh điểm đến du lịch trên chuyên mục "Năng động Du lịch Việt" kênh HTV7; phóng sự chuyên mục du lịch đón tết Giáp Ngọ 2014 phát trên sóng Đài Phát thanh truyền hình Bình Thuận; vận động các doanh nghiệp du lịch tỉnh tham gia Hội chợ du lịch MITT Liên Bang Nga, ngày Hội Du lịch thành phố Hồ Chí Minh năm 2014. Cập nhật 300 tin, bài, ảnh hoạt động du lịch trên các báo, tạp chí và trang website du lịch trung ương, địa phương phục vụ nhu cầu thông tin về hoạt động ngành Du lịch cho du khách và nhà đầu tư.
Toàn tỉnh hiện có 271 cơ sở lưu trú du lịch đang hoạt động kinh doanh với tổng số 10.253 phòng. Đã xếp hạng 169 cơ sở lưu trú với 6.815 phòng, trong đó đạt tiêu chuẩn 5 sao 03 cơ sở với 348 phòng, 4 sao có 22 cơ sở với 2.214 phòng, 3 sao có 12 cơ sở với 891 phòng, 2 sao có 32 cơ sở với 1.248 phòng, 1 sao có 30 cơ sở với 772 phòng, nhà nghỉ du lịch có 52 cơ sở với 1.100 phòng, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê có 18 cơ sở với 242 phòng.
Về kinh doanh lữ hành: Toàn tỉnh có 44 đơn vị hoạt động kinh doanh lữ hành, trong đó có 06 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế, 28 doanh nghiệp lữ hành nội địa, có 10 chi nhánh văn phòng đại diện của các hãng lữ hành. Ngoài ra có trên 54 hộ, đơn vị đăng ký kinh doanh liên quan đến đại lý lữ hành, bán vé xe chất lượng cao phục vụ khách du lịch.
Dự ước 6 tháng, lượt khách đến nghỉ dưỡng, du lịch tại Bình Thuận đạt 1.863 ngàn lượt khách (tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước) với 2.712 ngàn ngày khách (tăng 8,8%).
Khách du lịch quốc tế 6 tháng ước đạt 227 ngàn lượt khách (tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước). Hàng tháng, khách quốc tế đến Bình Thuận có gần 100 nước, khu vực; trong đó du khách Nga, Trung Quốc, Đức chiếm tỷ trọng khá trong số du khách quốc tế.
Doanh thu du lịch 6 tháng ước đạt 3.185 tỷ đồng (tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước).
3. Xuất nhập khẩu
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 6 tháng ước đạt 124,4 triệu USD, tăng 3,9% so cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm hàng thuỷ sản đạt 50,4 triệu USD (tăng 30,5% so với cùng kỳ năm trước), hàng nông sản đạt 11,8 triệu USD (giảm 46,2%), hàng hoá khác 62,1 triệu USD (tăng 5,2%); với một số mặt hàng chủ yếu: hải sản đông 7.029 tấn; hải sản khô 615 tấn; nhân hạt điều 168 tấn; quả thanh long 7.572 tấn; cao su 545 tấn; hàng may mặc 46,9 triệu USD.
Kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản tăng khá do thị trường tiêu thụ giữ ổn định, trong đó thị trường Châu Á chiếm tỷ trọng lớn. Xuất khẩu nông sản gặp nhiều khó khăn do các mặt hàng nhân hạt điều, quả thanh long, cao su giảm sút so với cùng kỳ năm trước. Một số hàng hóa khác như: sản phẩm may mặc, đồ gỗ duy trì được thị trường tiêu thụ, xuất khẩu tăng khá đã tác động đến kim ngạch xuất khẩu chung giữ được ổn định và tăng hơn cùng kỳ năm trước.
Đáng chú ý là từ đầu năm đến nay, giá mặt hàng quả thanh long duy trì ở mức giá cao, song lượng hàng xuất khẩu đạt thấp so với cùng kỳ năm trước (lượng hàng xuất khẩu 6 tháng ước đạt 7.572 tấn, với giá trị 8,5 triệu USD, giảm 40,6% so với cùng kỳ năm trước).
Xuất khẩu dịch vụ du lịch 6 tháng ước đạt 64,4 triệu USD; tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu 6 tháng ước đạt 54,0 triệu USD, giảm 2,6% so cùng kỳ năm trước, trong đó máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu đạt 43,2 triệu USD (tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước).
4. Giao thông vận tải
Vận tải hàng hoá, hành khách tiếp tục ổn định và phát triển. Ước tính khối lượng luân chuyển hàng hóa đường bộ 6 tháng đạt 235 triệu tấn/km (tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước); luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 2.881 ngàn tấn/km (tăng 13,6%); luân chuyển hành khách đường bộ đạt 434,5 triệu lượt người/km (tăng 11,7%); luân chuyển hành khách đường thuỷ đạt 2.822 ngàn lượt người/km (tăng 14,7%).
Công tác tuần tra, kiểm soát trật tự an toàn giao thông, bảo vệ công trình giao thông, hành lang an toàn đường bộ luôn được duy trì thường xuyên. Đã xử lý nghiêm các lỗi vi phạm và các phương tiện chở quá khổ, quá tải.
Trong 6 tháng đầu năm 2014 (từ 16/12/2013 - 15/6/ 2014), toàn tỉnh xảy ra 379 vụ tai nạn giao thông (TNGT), làm 120 người chết, 320 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước giảm 32,7% số vụ, 28,6% số người chết và 36,4% số người bị thương. Phần lớn TNGT xảy ra trên tuyến QL1A và các tuyến đường đô thị. Nguyên nhân chủ yếu do đi không đúng phần đường, làn đường, vi phạm quy trình thao tác lái xe, vượt không đúng quy định, uống rượu bia khi tham gia giao thông … . Các địa phương có số vụ TNGT giảm từ 10% trở lên là: Phan Thiết, Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Tân, Hàm Thuận Nam, Đức Linh, Tánh Linh.
IV. Thu ngân sách; Hoạt động tín dụng
1. Thu ngân sách
Thu ngân sách trên địa bàn 6 tháng ước đạt 3.233,1 tỷ đồng, đạt 50% dự toán năm, (tăng 0,55% so với cùng kỳ năm trước). Nếu loại trừ thu từ dầu thô và thuế xuất nhập khẩu thì kết quả thu nội địa đạt 1.804,6 tỷ đồng, đạt 47% dự toán năm; tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu thuế phí 1.708,6 tỷ đồng (đạt 50,2% DT năm; tăng 6,1% so cùng kỳ năm trước).
Trong thu ngân sách, các khoản thu 6 tháng đạt và tăng (giảm) so với cùng kỳ năm trước như sau: thu từ doanh nghiệp nhà nước 290,1 tỷ đồng (tăng 20,7% so với cùng kỳ năm trước); thu ngoài quốc doanh 430,3 tỷ đồng (giảm 7,3%); thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 218,8 tỷ đồng (tăng 54,4%), thu xổ số kiến thiết 261,1 tỷ đồng (tăng 32,0%); các loại phí, lệ phí 102,3 tỷ đồng (giảm 41,5%); thu tiền sử dụng đất 96,0 tỷ đồng (tăng 15,9%), thuế xuất nhập khẩu 151,5 tỷ đồng (giảm 58,0%), thu từ dầu thô 1.276,9 tỷ đồng (tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước).
Trong những tháng qua, ngành Thuế đã có nhiều cố gắng tập trung cho công tác quản lý thuế; khai thác nguồn thu mới, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chống thất thu; xử lý nợ đọng thuế có hiệu quả; đẩy mạnh khai thác nguồn thu từ đất, quản lý kê khai thuế qua mạng Internet, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế. Tuy vậy công tác quản lý thuế trong xử lý vi phạm thuế, cưỡng chế thu nợ thuế, chống thất thu thuế còn hạn chế. Công tác thanh, kiểm tra thuế sau khi các doanh nghiệp “tự khai, tự nộp” chưa được thực hiện rộng khắp; việc quản lý thuế khoán của khu vực kinh tế hộ chưa chặt chẽ; tình trạng sót hộ kinh doanh, xác định doanh thu tính thuế chưa sát thực tế vẫn còn xảy ra.
2. Hoạt động tín dụng
Đến 31/5/2014, vốn huy động đạt 17.220 tỷ đồng, tăng 9,5% so với đầu năm, (cả nước tăng 4,35%); tăng 4,86% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: tiền gửi tiết kiệm chiếm 83,68% nguồn vốn huy động toàn địa bàn. Khối Ngân hàng thương mại Nhà nuớc (kể cả NHTM cổ phần có vốn Nhà nước chi phối) chiếm ưu thế với 65,7% tổng nguồn huy động toàn địa bàn. Kết quả trên cho thấy huy động vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn đạt mức tăng trưởng khá cao. Các TCTD trên địa bàn chấp hành nghiêm túc quy định trần lãi suất huy động ngắn hạn theo Thông tư 06,07 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Các TCTD thực hiện mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động tín dụng. Từ nguồn vốn huy động và vốn hỗ trợ của Hội Sở chính, các chi nhánh NHTM trên địa bàn đã mở rộng cho vay đến các đối tượng khách hàng, phục vụ nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội địa phương. Thị trường tín dụng trên địa bàn tương đối ổn định, diễn biến phù hợp với tính quy luật hàng năm. Mặt bằng lãi suất giảm đã tạo đà cho tăng trưởng tín dụng. Đến 31/5/2014, tổng dư nợ cho vay đạt 19.519 tỷ đồng, tăng 5,65% so với đầu năm (cả nước tăng 1,51%), giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó dư nợ ngắn hạn chiếm 56,9% tổng dư nợ. Nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5) là 315 tỷ đồng, chiếm 1,62% tổng dư nợ.
Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, trong đó: dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 5.244 tỷ đồng, chiếm 26,86% tổng dư nợ toàn địa bàn; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 602 tỷ đồng, chiếm 3,08% tổng dư nợ toàn địa bàn; dư nợ cho vay DNNVV đạt 5.443 tỷ đồng, chiếm 28,83% tổng dư nợ.
Cho vay các đối tượng chính sách Nhà nước cũng tiếp tục được quan tâm: dư nợ cho vay tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển đạt 392 tỷ đồng, dư nợ cho vay các đối tượng chính sách theo 10 chương trình cho vay tại Chi nhánh NHCSXH đạt 1.625 tỷ đồng.
Cho vay các chương trình khác: cho vay thu mua lúa gạo xuất khẩu đạt 91,4 tỷ đồng; cho vay hỗ trợ lãi suất tiền vay nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản theo Quyết định 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 (thay thế Quyết định 63/2010/QĐ-TTg) đạt 2,72 tỷ đồng.
Các TCTD cũng đã quan tâm cơ cấu lại kỳ hạn nợ, tăng khả năng tiếp cận vốn cho khách hàng. Trong 5 tháng đầu năm 2014, các TCTD trên địa bàn đã gia hạn và điều chỉnh kỳ hạn nợ cho 496 khách hàng với dư nợ đạt 1.068 tỷ đồng; điều chỉnh giảm lãi suất các hợp đồng tín dụng cũ về mức lãi suất hiện hành của đơn vị đạt 5.012 tỷ đồng/13.050 khách hàng. Nhờ triển khai thực hiện tốt các giải pháp trên đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tăng khả năng tiếp cận vốn, giảm được một phần chi phí hoạt động để duy trì, mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Ước đến 30/6/2014, nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn đạt khoảng đạt 17.614 tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm, tăng 5,3% cùng kỳ năm trước; dư nợ cho vay đạt 19.583 tỷ đồng, tăng 6,0% so với đầu năm.
Tiếp tục đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, đã triển khai xây dựng kế hoạch đẩy mạnh thanh toán qua POS giai đoạn 2014 - 2015 của Chính phủ, tăng cường việc thực hiện trả lương qua tài khoản theo tinh thần Chỉ thị 20 của Thủ tướng Chính phủ. Đến nay, trên địa bàn có 134 máy ATM (tăng 06 máy so với cuối năm 2013), 848 máy POS (tăng 167 máy so với cuối năm 2013) và được kết nối liên thông các ngân hàng với nhau.
Thị trường ngoại tệ và vàng nhìn chung ổn định, không có biến động nhiều. Tỷ giá niêm yết tại các Ngân hàng thương mại cũng biến động theo xu hướng của tỷ giá liên ngân hàng và thấp hơn mức trần cho phép.
Nhìn chung hoạt động các tổ chức tín dụng trên địa bàn ổn định, góp phần tích cực trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển. Đã triển khai thực hiện kịp thời chính sách tín dụng và các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường; tiếp tục mở rộng tín dụng, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tiếp cận vay vốn ngân hàng, nhất là các lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu và DNNVV) với mức lãi suất cho vay giảm dần. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại ngày càng phát triển sâu rộng, hỗ trợ tích cực cho việc trả lương qua tài khoản.
Tuy vậy nợ xấu đang có xu hướng gia tăng (cuối năm 2012 nợ xấu chiếm tỷ trọng 0,88% tổng dư nợ; cuối năm 2013 chiếm 1,45%, cuối tháng 5/2014 nợ xấu chiếm 1,62% tổng dư nợ) do một số doanh nghiệp sau khi được cơ cấu lại nợ nhưng hoạt động kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến nợ xấu phát sinh; việc xử lý tài sản thu hồi nợ, nhất là các khoản nợ liên quan đến thi hành án của một số TCTD còn gặp khó khăn, tiến độ chậm.
V. Một số vấn đề xã hội
1. Văn hóa, Thể thao
Công tác tuyên truyền, cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị kịp thời, đặc biệt là trong dịp lễ, tết, nhất là phục vụ mừng Đảng, mừng Xuân Giáp Ngọ năm 2014, ngày Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 3/2, 39 năm giải phóng quê hương Bình Thuận (19/4), giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4), 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ; ngày Quốc tế Hạnh phúc (20/3), Đại hội TDTT tỉnh lần thứ VII/2014 và các nội dung: Chương trình "Tiếng hát Tuyền hình Bình Thuận lần thứ I - 2014", cuộc thi Hoa hậu Đại Dương Việt Nam năm 2014, Giờ trái đất, Tuần lễ quốc gia vệ sinh an toàn lao động và phòng, chống cháy nổ … với 15.070 giờ phát thanh xe loa, phóng thanh, cắt dán 14.635 m băng rôn khẩu hiệu, kẻ vẽ 13.958 m2 panô, 6.230 pa nô dọc, treo 4.500 lượt cờ các loại; phát hành 150 đĩa CD mừng Đảng, mừng Xuân và 1.800 tập san Thông tin. Trưng bày, triển lãm: “Biển, đảo Việt Nam”, "Biên giới và biển đảo Việt Nam", “Bình Thuận 21 năm đổi mới và phát triển”; ảnh nghệ thuật “Bình Thuận Xanh”; "Sắc Xuân quê hương" và tranh cổ động “Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ”. Đội Tuyên truyền lưu động tỉnh thực hiện 45 buổi văn nghệ tuyên truyền về an toàn giao thông với kịch bản “Cho đường phố bình yên” và chương trình ca múa nhạc mừng Đảng, mừng Xuân tại các huyện Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân và thị xã La Gi.
Hoạt động văn hóa, nghệ thuật tiếp tục chuyển mạnh về cơ sở. Đã thực hiện 07 chương trình văn nghệ quần chúng và các chương trình ca múa nhạc phục vụ Tết Nguyên đán Giáp Ngọ 2014, các ngày lễ, sự kiện, ngày kỷ niệm quê hương đất nước. Tham gia Lễ hội Văn hóa miền Đông - Đà Lạt năm 2014 (đạt huy chương Vàng toàn Đoàn); Liên hoan Đờn ca tài tử cấp Quốc gia lần thứ I tại Bạc Liêu năm 2014 (đạt 02 HCV, 01 HCB tiết mục và 01 HCV toàn Đoàn). Tổ chức chương trình nghệ thuật “Âm vang Điện Biên” kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2014).
Thư viện Tỉnh đã cấp mới Cấp mới 872 thẻ (thiếu nhi 408 thẻ), phục vụ 35.699 lượt (6.085 lượt thiếu nhi), luân chuyển 179.066 lượt (thiếu nhi 86.986 lượt). Tuyên truyền, giới thiệu sách mới, sách chuyên đề tuyên truyền kỷ niệm 84 năm ngày Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2014); mừng Đảng, mừng Xuân Giáp Ngọ; tuyên truyền biển, hải đảo Việt Nam ... với 690 bản sách và 251 tài liệu, 185 tin, bài; phát hành 70 tập Thông tin tư liệu Bình Thuận quý I/2014 và 100 tập Thông tin mừng Đảng, mừng Xuân Giáp Ngọ, bổ sung 1.693 bản sách mới.
Hoạt động bảo tồn, bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Bình Thuận: Đón và phục vụ 973 đoàn, với 76.737 lượt người, trong đó có 658 lượt khách nước ngoài. Bảo tàng tỉnh sưu tầm, khai quật và tiếp nhận 70 hiện vật. Tổ chức khảo sát di tích tháp Chăm Pô Đam thôn Lạc Trị, xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong để chuẩn bị khai quật đợt 2. Tổ chức lễ đón nhận bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với 03 di tích lịch sử - văn hóa: Chùa Phú Sơn (xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong), đình làng Lâm Lộc (xã Hòa Minh, huyện Tuy Phong), đình làng Võ Đắt (thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh).
Ban Quản lý Di tích tháp Pô Sah Inư đã đón 42.497 lượt khách, trong đó có 6.945 khách nước ngoài; tổ chức biểu diễn văn nghệ dân gian Chăm, với 18 suất diễn; triển lãm ảnh nghệ thuật và chiếu phim tư liệu về văn hóa Chăm, con người, quê hương Bình Thuận; tăng cường công tác thuyết minh, tổ chức các hoạt động, dịch vụ phục vụ du khách.
Trung tâm Trưng bày Văn hóa Chăm Bình Thuận đã đón 3.696 lượt khách tham quan, trong đó có 24 lượt khách nước ngoài; tổ chức trưng bày hiện vật, Hội thi "Tay nghề Gốm và Dệt lần thứ IV/2014".
Hoạt động thể thao: Đã tổ chức thành công Đại hội TDTT tỉnh Bình Thuận lần thứ VII/2014; các giải thể thao, Hội thao chào mừng ngày lễ, tết, kỷ niệm của quê hương, đất nước, tiêu biểu: Hội thi leo núi Tà Cú; ngày Hội Đua thuyền truyền thống trên sông Cà Ty, Hội thi “Chạy vượt đồi cát Mũi Né”; “Ngày Chạy vì sức khỏe - chào năm mới 2014; giải Lướt ván buồm Quốc tế Mũi Né - Fun Cup lần thứ XV/2014; giải Bida Carom 3 băng tỉnh Bình Thuận mở rộng - Cup Duy Sơn. Các Câu lạc bộ, hội, liên đoàn thể thao được củng cố và phát triển, phối hợp với các ngành tổ chức các hoạt động, các giải thể thao thu hút hàng ngàn hội viên và vận động viên tham gia; đăng cai tổ chức các giải thể thao do Liên đoàn Quốc gia ủy nhiệm và xây dựng lực lượng tham gia các giải thể thao quốc gia, khu vực. Đã cử các đội thể thao tỉnh tham gia các giải toàn quốc, khu vực, trẻ, câu lạc bộ giành được 55/87 huy chương, trong đó 23 huy chương vàng, 11 huy chương bạc, 21 huy chương đồng.
Nhìn chung những hoạt động thể thao duy trì tổ chức tốt, an toàn. Các giải thường niên ở các địa phương trong tỉnh đã trở thành truyền thống thu hút đông đảo du khách tham gia.
2. Y tế
Ngành Y tế tiếp tục triển khai đẩy mạnh các hoạt động chương trình y tế Quốc gia. Công tác phòng chống bệnh dịch được tiếp tục chú trọng và theo dõi thường xuyên. Công tác phòng chống các bệnh xã hội; công tác phòng chống HIV/AIDS duy trì đều. Các bệnh dịch truyền nhiễm được giám sát chặt chẽ, nhất là dịch bệnh cúm A N5N1, H7N9, dịch sởi, sốt xuất huyết, tay chân miệng. Từ đầu năm đến nay (16/6/2014), có 94 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó mắc bệnh sởi 24 ca; sốt xuất huyết: 235 ca, trong đó sốt xuất huyết nặng : 06 và tay chân miệng: 176 ca, không có tử vong.
Công tác khám chữa bệnh đáp ứng được nhiệm vụ. Các cơ sở khám chữa bệnh công lập triển khai thực hiện tốt Luật Bảo hiểm y tế, không để xảy ra sai sót chuyên môn gây hậu quả nghiêm trọng, không có cán bộ, CCVC vi phạm y đức.
Ước 6 tháng đầu năm, khám 98.500 lượt phát hiện bệnh phong; 2.201 lượt bệnh lao, số bệnh nhân thu dung điều trị: 895, số bệnh nhân lao phổi AFB (+) mới: 550. Đã xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm làm 07 người mắc, tử vong 1 người.
3. Giáo dục
Chất lượng dạy và học ở các cấp phổ thông tiếp tục có nhiều chuyển biến. Qua kết quả học kỳ I, năm học 2013 - 2014 cho thấy như sau:
- Bậc Tiểu học:
Tỉ lệ học sinh đạt điểm 5 trở lên: Môn tiếng Việt là 96,16% (tăng 0,23% so với cùng kỳ năm học trước); Môn Toán 95,96% (tăng 0,33%); Môn Khoa học (lớp 4 và 5) 99,62% (tăng 0,84%); Môn Lịch sử và Địa lý (lớp 4 và 5) 99,51%, (tăng 0,80%).
- Bậc Trung học cơ sở:
Tỉ lệ học sinh xếp loại học lực loại Giỏi: 15,22% (tăng 1,23% so với cùng kỳ năm học trước); loại Khá: 28,89%, (tăng 0,64%); loại Yếu: 18,99%, (giảm 1,05%).
- Bậc Trung học phổ thông:
Tỉ lệ học sinh xếp loại học lực loại Giỏi: 4,32% (tăng 1,05% so với cùng kỳ năm học trước); loại Khá: 24,59% (tăng 2,44%); loại Yếu: 25,90% (giảm 3,6%).
Các Kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh và cấp quốc gia được tổ chức thực hiện đúng quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Kỳ thi giải toán trên máy vi tính cầm tay cấp tỉnh năm học 2013 - 2014 có 67 thí sinh đạt giải, trong đó 6 giải nhất, 14 giải nhì và 47 giải ba. So với năm học trước, tăng 21 giải (Giải nhì tăng: 05; giải ba tăng: 16).
- Kỳ thi học sinh giỏi giải toán trên máy tính cầm tay khu vực phía Nam năm học 2013 - 2014 có 4 học sinh đạt giải, trong đó 3 thí sinh đạt giải ba, 01 thí sinh đạt giải khuyến khích.
- Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2013 - 2014 có 08 học sinh đạt giải, trong đó: 01 giải nhì, 02 giải ba và 5 giải khuyến khích. So với năm học trước, tăng 01 giải nhì và 02 giải ba; giải khuyến khích giảm 02 giải.
- Kỳ thi Olympic tiếng Anh qua Internet cấp toàn quốc dành cho học sinh lớp 5, lớp 9 và lớp 11 tỉnh Bình Thuận có 27 học sinh đạt giải, cụ thể:
+ Lớp 5: 01 Huy chương Vàng và 04 giải khuyến khích;
+ Lớp 9: 01 Huy chương Vàng và 05 giải khuyến khích;
+ Lớp 11: 02 Huy chương Bạc, 05 Huy chương Đồng và 10 giải khuyến khích.
So với năm học trước tăng: 01 Huy chương Bạc, 03 Huy chương Đồng và 01 giải khuyến khích.
- Kỳ thi Olympic các trường Chuyên phía Nam, trường THPT Chuyên Trần Hưng Đạo, Bình Thuận đã xuất sắc đạt 43 Huy chương, xếp thứ 15/131 trường dự thi, cụ thể: 15 Huy chương Vàng; 21 Huy chương Bạc; 07 Huy chương đồng. So với năm học trước tăng: 06 Huy chương Vàng, 04 Huy chương Bạc.
Kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2014, khối trung học phổ thông toàn tỉnh có 12.455 thí sinh đỗ tốt nghiệp, đạt 98,48% (giảm 0,02% so với năm trước); trong đó, có 266 thí sinh đỗ tốt nghiệp loại giỏi (đạt tỷ lệ 2,13%); 1.937 thí sinh đạt loại khá (đạt tỷ lệ 15,55%). Hệ giáo dục thường xuyên có 497 thí sinh đỗ tốt nghiệp, đạt tỷ lệ 81,07% (tăng 20% so với năm trước). Có 02 trường đỗ tốt nghiệp 100% gồm THPT chuyên Trần Hưng Đạo và THPT Lê Lợi.Trường có tỷ lệ tốt nghiệp thấp nhất là THPT Nguyễn Trường Tộ (95,17%).
4. Lao độngXã hội, Chính sách
Trong 6 tháng đầu năm, giải quyết việc làm cho 11.000 lao động, đạt 45,83% so với KH năm, trong đó: cho vay vốn giải quyết việc làm 340 lao động, (đạt 17% so với KH năm). Đưa 25 lao động đi làm việc nước ngoài; cung ứng lao động cho các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương 1.800 lao động. Đào tạo nghề cho 4.723 người, trong đó, dạy nghề lao động nông thôn 3.338 người.
Đã giải quyết cho 1.340 hộ nghèo vay vốn sản xuất với tổng kinh phí thực hiện 19.500 triệu đồng; giải ngân vốn vay mới cho 6.549 sinh viên với kinh phí 35.216 triệu đồng. Cấp 64.988 thẻ BHYT cho người nghèo; 4.728 thẻ BHYT cho người cận nghèo; 15.203 thẻ BHYT cho người thuộc hộ cận nghèo mới thoát nghèo và 10.475 người thoát nghèo trước năm 2013. Xây dựng hoàn thành 327 căn nhà cho hộ nghèo (do VietinBank tài trợ năm 2013). Trong 6 tháng đã vận động tài trợ cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn 1 tỷ đồng, đạt 50% KH năm. Giải ngân các nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia được 450 triệu đồng đạt 16,72% so KH năm.
Nhìn chung công tác giải quyết việc làm trong 6 tháng đầu năm đạt được một số kết quả nhất định. Hoạt động dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm tiếp tục hoạt động có hiệu quả, tạo cơ hội cho người lao động tìm kiếm được việc làm, nâng cao thu nhập. Công tác giải quyết nhà ở cho người có công và người nghèo tiếp tục được triển khai. Các chính sách an sinh xã hội đảm bảo tốt.
Tuy vậy so với kế hoạch đề ra, đào tạo nghề trong 6 tháng đầu năm đạt còn thấp. Tiến độ giải ngân các nguồn vốn Chương trình Mục tiêu Quốc gia còn chậm.
Tóm lại, với kết quả thực hiện 6 tháng đầu năm 2014 cho thấy tình hình kinh tế xã hội tỉnh Bình Thuận có những mặt được và những mặt khó khăn sau:
Những mặt được:
- Sản xuất vụ đông xuân thuận lợi; gieo trồng cây lương thực vượt kế hoạch và tăng so với cùng kỳ năm trước, dự ước sản lượng đạt 252 ngàn tấn (tăng 24,8 ngàn tấn so với năm trước). Chăn nuôi gia súc (đàn lợn) tiếp tục được hồi phục.
- Khai thác hải sản ổn định, dự ước đạt 78,6 ngàn tấn (tăng 4,6 ngàn tấn so với cùng kỳ năm trước). Sản xuất tôm giống tiếp tục duy trì được thị trường tiêu thụ (6 tháng đạt 7,56 tỷ Post, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước).
- Sản xuất công nghiệp có xu hướng hồi phục, công nghiệp chế biến thuỷ sản phát triển ổn định; sản xuất điện tăng khá hơn năm trước.
- Hoạt động thương mại dịch vụ tiếp tục phát triển. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội 6 tháng tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng 8,1%). Công tác Quản lý thị trường được tiếp tục tăng cường đạt kết quả tốt, góp phần ngăn chặn các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại địa bàn tỉnh.
- Hoạt động du lịch tiếp tục phát triển (tuy tốc độ tăng trưởng chậm hơn các năm trước); lượt khách đến tăng 7,1%; ngày khách tăng 8,8%; doanh thu du lịch tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước). Khách đến du lịch, nghỉ dưỡng dài ngày hơn. Khách Nga vẫn chiếm tỷ trọng cao trong khách quốc tế.
- Giá hàng hóa, dịch vụ giữ ổn định và không tăng đột biến. Sau 6 tháng giá tiêu dùng tăng 2,56%. Đây là mức tăng thấp so với nhiều năm trước đây.
- Xuất khẩu hàng thuỷ sản; hàng may mặc tăng khá so với cùng kỳ năm trước (tăng 30%).
- Vận tải hàng hoá, hành khách ổn định; luân chuyển hàng hoá tăng 10,6%; luân chuyển hành khách tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước. Công tác tuần tra, kiểm soát trật tự an toàn giao thông, bảo vệ công trình giao thông, hành lang an toàn đường bộ luôn được duy trì thường xuyên. Tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí: số vụ, số người bị thương, số người chết.
- Thu nội địa đạt khá, 6 tháng đạt 47% dự toán năm (tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước); trong đó thu thuế phí đạt 50,2% DT năm (tăng 6,1% so cùng kỳ năm trước).
- Hoạt động tín dụng ổn định và tiếp tục phát triển theo hướng tập trung phục vụ phát triển sản xuất – kinh doanh. Đến cuối tháng 5/2014 vốn huy động tại địa phương tăng 9,5% so với đầu năm, (cả nước tăng 4,35%); dư nợ cho vay tăng 5,65% so với đầu năm (cả nước tăng 1,51%).
- Các vấn đề xã hội tiếp tục có nhiều mặt chuyển biến. Trong 6 tháng chưa xảy ra các dịch bệnh nguy hiểm; các bệnh xã hội được tiếp tục chú trọng, quan tâm điều trị kịp thời. Chương trình y tế quốc gia được triển khai đều ở các tuyến. Chất lượng dạy và học ở các cấp phổ thông được tiếp tục chú trọng, từng bước nâng lên. Giải quyết việc làm cho người lao động có nhiều cố gắng. Công tác xoá đói giảm nghèo, chăm sóc các gia đình, những người có công với nước được tiếp tục quan tâm.
Những tồn tại, hạn chế:
- Chăn nuôi gia cầm chưa thật ổn định. Giá một số mặt hàng nông sản như: thóc, cao su, hạt điều vẫn đứng ở mức thấp. Tình trạng phát triển cây thanh long “tự phát” trên đất lúa ở một số địa bàn chưa được ngăn chặn triệt để. Nuôi trồng thuỷ sản gặp khó khăn do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, sản lượng tăng không đáng kể so với cùng kỳ năm trước.
- Sản xuất công nghiệp địa phương tăng trưởng thấp. Hầu hết các sản phẩm sản xuất có tăng nhưng ở mức thấp; một số sản phẩm như: hạt điều nhân, đường, gạch nung sụt giảm do thị trường tiêu thụ không ổn định. Năng lực sản xuất mới phát sinh còn hạn chế; sản phẩm chế biến tiêu thụ chậm, đa số các doanh nghiệp hoạt động tập trung hướng về “ổn định sản xuất”, nhu cầu đầu tư mở rộng quy mô còn ít. Tiến độ triển khai đầu tư xây dựng các khu công nghiệp rất chậm.
- Hạ tầng thương mại phát triển chậm; đầu tư xây dựng mạng lưới Chợ nông thôn còn ít. Công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu triển khai chưa đủ mạnh, doanh nghiệp tham gia chưa nhiều.
- Xuất khẩu hàng nông sản gặp khó khăn; các mặt hàng thanh long , nhân hạt điều, cao su đạt kế hoạch rất thấp (đạt dưới 30%) và giảm sút so với cùng kỳ năm trước.
- Công tác quản lý thuế trong xử lý vi phạm thuế, cưỡng chế thu nợ thuế, chống thất thu thuế còn hạn chế. Công tác thanh, kiểm tra thuế sau khi các doanh nghiệp “tự khai, tự nộp” chưa được thực hiện rộng khắp; việc quản lý thuế khoán của khu vực kinh tế hộ chưa chặt chẽ; tình trạng sót hộ, xác định doanh thu tính thuế chưa sát thực tế vẫn còn xảy ra.
- Thiết chế hoạt động thể thao từ tỉnh đến cơ sở còn thiếu và chưa đồng bộ; phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển chưa đều, phần lớn tập trung ở các thị trấn, thị xã, thành phố, lực lượng vận động viên của các môn thể thao còn mỏng; các Hội, Liên đoàn thể thao quần chúng của tỉnh hoạt động cầm chừng, không có định hướng cho hoạt động.
- Công tác đào tạo nghề đạt còn thấp. Tiến độ giải ngân các nguồn vốn Chương trình Mục tiêu Quốc gia còn chậm.
Từ kết quả thực hiện trên, dự ước tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) 6 tháng năm 2014 tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,8%; công nghiệp xây dựng tăng 6,7% (công nghiệp tăng 5,8%, xây dựng tăng 8,7%); dịch vụ tăng 10,5%./.
Website Cục thống kê Bình Thuận