Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 30/11/2022-13:59:00 PM
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 năm 2022 tỉnh Bình Thuận

Trong tháng sản xuất nông nghiệp ở lĩnh vực trồng trọt vào giai đoạn cuối vụ, các hoạt động gieo trồng cơ bản hoàn thành; giá vật tư nguyên liệu đầu vào vẫn còn tăng cao. Chăn nuôi tiếp tục phát triển; khai thác thủy sản ổn định vào những tháng cuối năm. Cây trồng được cơ cấu lại phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường; hình thành các vùng chuyên canh quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, sạch, hữu cơ đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

1. Trồng trọt

1.1. Cây hàng năm

Tính đến ngày 15/11/2022 diện tích xuống giống vụ mùa đạt 85.797,3 ha, giảm 3% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó cây lương thực đạt 47.326,5 ha, giảm 3,4% (cây lúa đạt 42.525,5 ha, giảm 3,6%; cây bắp đạt 4.801,6 ha, giảm 3,6%). Diện tích lúa cả vụ giảm ở hầu hết các huyện trong tỉnh, đặc biệt giảm mạnh ở các huyện Bắc Bình giảm 700 ha, Tánh Linh giảm 437 ha, Đức Linh giảm 105 ha; do chi phí đầu vào tăng cao trong khi giá bán sản phẩm đầu ra thấp, cùng với đó năng suất vụ mùa thấp, người dân đã chủ động cắt giảm diện tích chuyển sang gieo trồng sớm cho vụ đông xuân năm sau; riêng huyện Tuy Phong giảm 185 ha do thời điểm xuống giống muộn hơn so với năm 2021.

Cây có hạt chứa dầu diện tích xuống giống đạt 2.059,6 ha (diện tích chủ yếu là cây đậu phụng 1.858,6 ha), giảm 8,6% so với cùng kỳ năm 2021; do người dân đã chuyển một số diện tích trồng đậu phụng qua trồng mè, diện tích trồng mè ước đạt 201 ha, tăng gấp 4 lần so với cùng kỳ năm 2021. Cây thực phẩm diện tích xuống giống đạt 6.612,1 ha, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm 2021 (rau các loại đạt 3.143,7 ha, giảm 0,6%; đậu các loại đạt 3.468,4 ha, giảm 9,5%). Cây hàng năm khác diện tích xuống giống đạt 788,8 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm 2021.

1.2. Cây lâu năm

Trong tháng chủ yếu chăm sóc diện tích cây hiện có; một số loại cây chủ lực gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ, chi phí sản xuất tăng, trong khi giá sản phẩm đầu ra không ổn định nên người dân hạn chế trồng mới, thậm chí còn giảm diện tích (như cây thanh long). Tình hình sản xuất một số cây chủ lực như sau:

- Cây Thanh long: Đang vào mùa chong đèn trái vụ, tuy nhiên do thị trường Trung Quốc giảm lượng nhập khẩu, giá bán giảm sâu (có lúc còn từ 1.000 đến 2.000 đồng/kg), trong khi chi phí về phân bón tăng, người trồng thanh long thua lỗ, dẫn đến phá bỏ cây thanh long chuyển sang trồng cây khác hoặc bỏ hoang diện tích. Trong tháng 11 giá thanh long tăng trở lại, có thời điểm từ 10.000 đến 15.000 đồng/kg nhưng ít nhà vườn có sản phẩm để bán. Dự ước trong những tháng cuối năm người dân sẽ chong đèn trở lại để chuẩn bị cho dịp Tết sắp đến, tuy nhiên để tránh trình trạng giá bán lên, xuống thất thường người trồng cần nghiên cứu kỹ thị trường để tránh rủi ro thiệt hại về kinh tế. Đến thời điểm 15/11/2022, toàn tỉnh có 9.193,7 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap (trong đó Hàm Thuận Nam 6.029,4 ha; Hàm Thuận Bắc 2.427,1 ha; Bắc Bình 419,6 ha; Phan Thiết 32,0 ha; Hàm Tân 97,2 ha; La Gi 121 ha; Tuy Phong 72 ha).

- Cây cao su: Đang trong mùa thu hoạch, tuy nhiên nhu cầu nhập khẩu cao su của các nước, đặc biệt là thị trường Trung Quốc vẫn chưa có dấu hiệu khả quan; nhu cầu tiêu thụ trong nước tăng nhẹ, dự tính trong thời gian tới diện tích cao su trên địa bàn tỉnh tăng nhưng không nhiều.

- Cây điều: Đã kết thúc vụ thu hoạch, vài năm trở lại đây một số địa phương triển khai trồng điều ghép nên năng suất thu hoạch ngày được cải thiện hơn; tuy nhiên diện tích điều truyền thống, già cổi hiện vẫn còn rất cao. Để tạo điều kiện phát triển bền vững trong những năm tới tỉnh cần hổ trợ về giống, vốn, kỹ thuật… nhằm cải tạo, thay thế diện tích cũ bằng các giống điều cao sản năng suất cao, có như vậy mới đem lại hiệu quả, tạo điều kiện phát triển nguồn nguyên liệu đầu vào xuất khẩu cho ngành điều.

- Cây tiêu: Diện tích trồng mới phát triển không nhiều, do giá tiêu thấp trong một thời gian dài nên người trồng tiêu chặt bỏ một số diện tích già; hiện nay, giá tiêu tăng trở lại nhưng chưa cao, trong khi chi phí sản xuất lớn, trên cây lại thường xuyên xuất hiện nhiều sâu bệnh không thuốc đặc trị (bệnh chết nhanh chết chậm), không có lãi, nhiều rủi ro nên người trồng hạn chế đầu tư.

1.3. Tình hình dịch bệnh

Trong tháng công tác phòng, chống và kiểm soát dịch bệnh trên các loại cây trồng được kiểm soát nên dịch bệnh nghiêm trọng không xảy ra. Diện tích nhiễm một số bệnh phổ biến như sau:

- Cây lúa: Bệnh đạo ôn lá diện tích nhiễm 926 ha, giảm 86 ha so với cùng kỳ năm 2021. Chuột gây hại 410 ha, giảm 270 ha. Sâu đục thân 394 ha, giảm 591 ha. Bệnh bạc lá (cháy bìa lá) diện tích nhiễm 212 ha, giảm 729 ha. Bệnh sâu cuốn lá nhỏ 204 ha. Các đối tượng sâu bệnh khác gây hại rải rác trên lúa vụ mùa.

- Cây thanh long: Bệnh đốm nâu diện tích nhiễm 5.040 ha, giảm 34 ha so với cùng kỳ năm 2021. Bệnh thối rễ tóp cành 1.093 ha. Ốc sên gây hại 1.054 ha, giảm 670 ha. Bệnh nám vàng cành 927 ha.

- Cây khoai mì: Bệnh khảm lá virus diện tích nhiễm 1.329 ha, giảm 5 ha so với cùng kỳ năm 2021.

- Cây bắp: Bệnh sâu keo mùa thu diện tích nhiễm 46 ha.

1.4. Tình hình thiệt hại do thiên tai trong sản xuất nông nghiệp

Trong tháng xảy ra 03 vụ thiên tai; trong đó có 02 vụ liên quan đến sản xuất nông nghiệp do mưa lớn kéo dài gây ngập lụt, lũ quét xảy ở huyện Hàm Tân và Hàm Thuận Bắc làm 14 tàu cá và 17 thúng bị chìm, nhiều ngư cụ bị cuốn trôi; diện tích hoa màu bị ngập lụt gồm 676 ha lúa (chủ yếu lúa trên 35 ngày tuổi và đang làm đồng); 45 ha cây thanh long; 130 ha hoa màu, rau các loại.

Riêng ở xã Trà Tân, huyện Đức Linh theo báo cáo nhanh tình hình thiệt hại do mưa lớn kéo dài kèm theo gió lốc giật mạnh xảy ra ngày 21/11/2022 làm khoảng 43 ha lúa và rau màu các loại bị ngã, đổ, hư hỏng.

1.5. Tình hình thủy lợi phục vụ sản xuất

Ngành chức năng tiếp tục duy trì các biện pháp nhằm tăng cường quản lý, khai thác sử dụng hiệu quả các nguồn nước hiện có để phục vụ sản xuất vụ mùa năm 2022, đảm bảo nước sinh hoạt của nhân dân và quản lý an toàn hệ thống công trình thủy lợi trong mùa mưa lũ. Diện tích cấp nước sản xuất vụ mùa 2022 được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện là 51.631 ha. Trong đó cây lúa, cây màu 31.236 ha; cây thanh long, cây ăn quả 19.984 ha; nuôi trồng thủy sản 411 ha.

2. Chăn nuôi (thời điểm 15/11/2022)

- Chăn nuôi trâu, bò: Toàn tỉnh có 8.410 con trâu, giảm 2% so với cùng kỳ năm 2021, do giá thịt trâu hơi giảm một số hộ giảm đàn. Chăn nuôi bò phát triển ổn định, một số mô hình trồng cỏ công nghiệp chăn nuôi bò vỗ béo đang được tiếp tục thực hiện, là xu hướng phát triển kinh tế của nhiều hộ nông thôn ở một số địa phương trong tỉnh; toàn tỉnh có 175.800 con, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm 2021.

- Chăn nuôi lợn: Toàn tỉnh có 348.200 con lợn (không tính lợn con chưa tách mẹ), tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2021. Đàn lợn tăng do có thêm 01 chi nhánh của Công ty LinkFram tại huyện Hàm Thuận Bắc với quy mô 30.000 con, bắt đẩu thả nuôi vào tháng 10/2022. Dự tính trong những tháng cuối năm nhu cầu tiêu thụ thịt lợn vào dịp lễ, tết tăng cao, các đơn vị chăn nuôi tăng quy mô, tổng đàn lợn cũng như sản lượng thịt xuất chuồng sẽ tăng lên đáng kể.

- Chăn nuôi gia cầm:Toàn tỉnh có 6.535 ngàn con, tăng 41,1% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó đàn gà 5.250 ngàn con, tăng 57,9%. Đàn gia cầm tăng chủ yếu ở đàn gà do Công ty TaFa Việt ở huyện Đức Linh tăng thêm quy mô nuôi gà đẻ trứng 300 ngàn con; tăng thêm 01 trang trại ở huyện Bắc Bình; Công ty LinkFram phát sinh thêm chi nhánh quy mô 850 ngàn con; tất cả bắt đầu hoạt động từ thời điểm 01/10/2022.

* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật

Trong tháng trên địa bàn toàn tỉnh không xuất hiện các ổ dịch bệnh nguy hiểm như: Cúm gia cầm; bệnh viêm da nổi cục trâu, bò; lở mồm long móng ở gia súc, bệnh heo tai xanh. Một số bệnh truyền nhiễm khác có xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm nhưng ở mức độ lẻ tẻ không lây lan thành dịch.

- Công tác tiêm phòng vắc xin: Trong tháng đã tổ chức tiêm phòng 2.125,9 ngàn liều. Trong đó trâu bò 13,3 ngàn liều; lợn 66,3 ngàn liều; gia cầm 2.044,3 ngàn liều. Lũy kế 11 tháng năm 2022 đã tiêm phòng 22.113 ngàn liều; trong đó trâu, bò 254,9 ngàn liều; lợn 544,6 ngàn liều; đàn gia cầm 21.293,3 ngàn liều.

- Kiểm dịch động vật: Trong tháng đã kiểm dịch 140,2 ngàn con lợn; 592 con trâu bò; 709,8 ngàn con gia cầm; 284,6 tấn thịt các loại; 4,3 triệu quả trứng gia cầm; 55,1 tấn sơ chế. Lũy kế 11 tháng năm 2022 đã kiểm dịch 1.327,9 ngàn con lợn; 3,6 ngàn con trâu bò; 4.663,8 ngàn con gia cầm; 3.431 tấn thịt các loại; 40,9 triệu quả trứng gia cầm; 527,4 tấn thịt sơ chế.

- Kiểm soát giết mổ: Trong tháng kiểm soát giết mổ 186 con trâu bò; 3,9 ngàn con lợn; 1,1 ngàn con gia cầm; 97 con dê. Lũy kế 11 tháng năm 2022 kiểm soát 2,5 ngàn con trâu bò; 42,5 ngàn con lợn; 18,9 ngàn con gia cầm; 1,5 ngàn con dê.

3. Lâm nghiệp

- Công tác trồng rừng: Trong tháng công tác trồng rừng tập trung và chăm sóc. Diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 190 ha; lũy kế 11 tháng năm 2022 trồng được 3.573 ha, tăng 55,3% so với cùng kỳ năm 2021.

- Công tác phòng cháy chữa cháy rừng: Trong tháng không xảy ra cháy rừng trên địa bàn tỉnh. Lũy kế 11 tháng năm 2022, toàn tỉnh đã xảy ra 05 trường hợp cháy thực bì (lá, cỏ khô...) dưới tán rừng với diện tích 4,81 ha, giảm 21 trường hợp so cùng kỳ năm 2021, các trường hợp cháy được phát hiện sớm và chữa cháy kịp thời nên không gây thiệt hại tài nguyên rừng.

- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Trong tháng ngành chức năng phối hợp cùng với các đơn vị chủ rừng, chính quyền địa phương tăng cường các hoạt động tuần tra, kiểm tra, truy quét, tăng cường kiểm tra theo dõi tình hình quản lý sử dụng đất lâm nghiệp của các dự án; chú trọng theo dõi, nắm bắt diễn biến, tình hình tại vùng giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận và các vùng trọng điểm nội tỉnh, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm Luật lâm nghiệp, đất đai. Trong tháng lực lượng quản lý, bảo vệ rừng đã phát hiện, xác lập hồ sơ xử lý 25 vụ vi phạm Luật lâm nghiệp gồm: Phá rừng 01 vụ, với 0,3 ha; khai thác rừng trái pháp luật 10 vụ; vận chuyển lâm sản trái pháp luật 11 vụ; tàng trữ, mua bán, chế biến lâm sản trái pháp luật 03 vụ.

4. Thuỷ sản

- Nuôi trồng thủy sản: Diện tích nuôi trong tháng ước đạt 216,7 ha, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2021; lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 2.564,3 ha, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2021 (trong đó diện tích nuôi cá đạt 1.717 ha, tăng 3,3%; diện tích nuôi tôm đạt 804,3 ha, giảm 0,4%). Sản lượng nuôi trồng trong tháng tương đối ổn định, ước đạt 1.064 tấn, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2021; lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 10.883,1 tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2021 (trong đó cá các loại ước đạt 6.625,7 tấn, giảm 3,5%; tôm nuôi nước lợ ước đạt 4.187,4 tấn, tăng 12,2%). Hiện nay, giá tôm thương phẩm đang duy trì ở mức cao nên người nuôi thủy sản tiếp tục cải tạo ao nuôi và bổ sung giống nhằm gia tăng sản lượng cho dịp cuối năm.

Toàn tỉnh hiện có 135 bè nuôi thuỷ sản tại huyện Phú Quý; các xã Vĩnh Tân, Bình Thạnh, Phan Rí Cửa của huyện Tuy Phong; xã Tân Thành của huyện Hàm Thuận Nam, xã Hòa Thắng của Bắc Bình và phường Mũi Né của Tp. Phan Thiết. Đối tượng nuôi chủ yếu là các loại cá biển như cá bớp, cá mú, cá bè quỵt, cá bè đưng và các loại tôm hùm. Trong tháng, tình hình nuôi tương đối ổn định, trong quá trình nuôi có hao hụt nhưng số lượng không lớn. Tại khu vực nuôi lồng bè phường Mũi Né Tp. Phan Thiết sau khi chịu thiệt hại lớn do hiện tượng tảo nở hoa quá mức (tảo tàn) đến nay tình hình nuôi đã ổn định và các hộ nuôi đã tiến hành thả giống nuôi vụ mới.

- Khai thác thủy sản: Trong tháng hoạt động đánh bắt xa bờ tương đối ổn định. Giá nhiên liệu đặc biệt là dầu hiện vẫn đang ở mức cao, có lúc đứt gãy nguồn cung. Các mặt hàng khác phục vụ cho hoạt động khai thác thủy sản vẫn chưa giảm. Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng ước đạt 18.654 tấn, tương đương so với cùng kỳ năm 2021 (trong đó khai thác biển ước đạt 18.592 tấn), đây cũng là thời điểm đầu của vụ bấc, vụ có sản lượng đạt thấp trong năm. Lũy kế 11 tháng năm 2022 sản lượng khai thác ước đạt 212.708,3 tấn, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2021 (trong đó khai thác biển ước đạt 212.141,2 tấn, tăng 0,5%).

- Sản xuất giống thuỷ sản: Sản lượng tôm giống sản xuất trong tháng ước đạt 2,5 tỷ con, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2021; lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 23,8 tỷ con, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2021. Công tác quản lý chất lượng giống thuỷ sản, nhất là giống tôm bố mẹ luôn được tăng cường giám sát chặt chẽ.

- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Tiếp tục thực hiện công tác đăng ký tàu cá, cấp giấy phép khai thác, cấp chứng nhận nguồn gốc thủy sản khai thác, giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm tàu cá. Thực hiện đăng kiểm tàu cá thường kỳ tại địa bàn thị xã La Gi và đăng kiểm tàu cá bổ sung tại các địa bàn huyện Tuy Phong và Phú Quý. Công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên biển tiếp tục tăng cường; tại cảng cá tiếp tục phối hợp với cơ quan liên quan kiểm tra, kiểm soát nghề cá phục vụ phòng, chống khai thác IUU. Trong tháng không có tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài, lũy kế 11 tháng năm 2022 các lực lượng chức năng phát hiện 03 vụ/03 thuyền với 23 lao động vi phạm vùng biển nước ngoài bị bắt giữ; việc điều tra, xác minh đang được khẩn trương thực hiện. Trong tháng đã xử phạt 134,5 triệu đồng; với các hành vi vi phạm: 02 trường hợp tàng trữ công cụ kích điện, 01 trường hợp chủ tàu cá không mua bảo hiểm thuyền viên theo quy định, 02 trường hợp không có nhật ký khai thác, 01 trường hợp giấy an toàn khai thác hết hạn, 01 trường hợp không thông báo đầy đủ các thông tin theo quy định cho tổ chức quản lý cảng cá trước khi vào cảng cá theo quy định, 01 trường hợp viết số đăng ký tàu cá không đúng quy định, 03 trường hợp sử dụng tàu cá không đăng ký hoặc không đăng ký lại.

II. Công nghiệp; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư

1. Công nghiệp

Hoạt động sản xuất công nghiệp trong 11 tháng năm 2022 tiếp tục phục hồi; các Hiệp định thương mại như EVFTA, CPTPP phát huy hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi để ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh giữ được tăng trưởng và phát triển; tình hình lạm phát gia tăng; ảnh hưởng xung đột giữa Nga và Ukraine; giá nhiên nguyên vật liệu đầu vào tăng cao dẫn đến tăng chi phí sản xuất, vận chuyển; nhu cầu tiêu dùng ở nhiều nước đang có xu hướng giảm dần… đã tác động làm chậm đà tăng trưởng hoạt động sản xuất công nghiệp.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 11 ước so với cùng kỳ tăng 6,75%. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 25,60%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 17,50%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 2,69%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,94%. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 11 tăng cao so với tháng trước chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 49,4% do trong tháng 10 năm 2022 các nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4 và Vĩnh Tân 4 mở rộng ngừng chạy phát điện theo Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia giao chỉ tiêu.

Lũy kế 11 tháng năm 2022 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 1,24% so với cùng kỳ. Trong đó ngành khai khoáng và công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao (ngành khai khoáng tăng 26,9% do xây dựng tuyến đường cao tốc Bắc - Nam phía đông, đoạn Phan Thiết - Dầu Giây; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,45%); ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 3,25%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,49%.

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) tháng 11 ước đạt 3.494,05 tỷ đồng, tăng 14,86% so với tháng trước và tăng 13,73% so với cùng kỳ năm 2021. Lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 35.408,01 tỷ đồng, đạt 91,49% kế hoạch năm, tăng 8,48% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó công nghiệp khai khoáng 2.611,08 tỷ đồng, tăng 30,2%; công nghiệp chế biến chế tạo 18.597,25 tỷ đồng, tăng 16,30%; sản xuất và phân phối điện đạt 13.964,37 tỷ đồng, giảm 3,17%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 235,32 tỷ đồng, tăng 5,79%.

Các sản phẩm sản xuất 11 tháng năm 2022 tăng so với cùng kỳ gồm: Cát sỏi các loại tăng 13,65%; đá xây dựng tăng 36,18%; gạch các loại tăng 13,72%; thủy sản đông lạnh tăng 17,13%; thủy sản khô tăng 23,06%; nước mắm tăng 11,25%; hạt điều nhân tăng 37,10%; quần áo may sẵn tăng 32,69%; nước khoáng (không tính nước khoáng tinh khiết) tăng 13,61%; nước máy sản xuất tăng 4,70%; thức ăn gia súc tăng 3,52%; giày, dép các loại tăng 12,3%; sơ chế mũ cao su tăng 12,07%. Sản phẩm giảm gồm: điện sản xuất giảm 18,88%; Muối hạt giảm 9,98%; đồ gỗ và các sản phẩm gỗ giảm 7,14%.

* Tình hình hoạt động của các khu công nghiệp (KCN)

Tính đến ngày 30/10/2022, có 66 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh/tổng số 85 dự án còn hiệu lực (gồm 44 dự án có vốn trong nước và 22 dự án có vốn đầu tư nước ngoài). Có 6 khu công nghiệp tiếp tục triển khai đầu tư hạ tầng với giá trị 55,26 tỷ đồng, đạt 22,81% kế hoạch cả năm 2022. Dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, các doanh nghiệp đều đã thực hiện tương đối tốt các quy định về chế độ tiền lương, tiền thưởng cho người lao động, ký kết hợp đồng lao động, đóng bảo hiểm xã hội cho công nhân... không để xảy ra đình công, lãn công và khiếu nại, khiếu kiện đông người. Có 331 lao động của 19 doanh nghiệp được chi hỗ trợ theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ với số tiền là 493,5 triệu đồng.

2. Đầu tư phát triển

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện tháng 11 ước đạt 526,4 tỷ đồng, tăng 2% so với tháng trước và tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước (đạt 10,8% so với kế hoạch năm); Lũy kế 11 tháng năm 2022, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 4.155,7 tỷ đồng, tăng 18,1% so với cùng kỳ, đạt 85,5% kế hoạch. Trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 3.535,4 tỷ đồng, tăng 21,7%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 549 tỷ đồng, tăng 0,3%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 71,3 tỷ đồng, tăng 4,5%.

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn NSNN

do địa phương quản lý 11 tháng

Đơn vị tính: tỷ đồng

https://cucthongke.vn/fckeditor/editor/filemanager/connectors/aspx/FCKeditor/img/image/2022/KTXH/Von%2011.jpg

3. Đăng ký kinh doanh

Trong tháng (từ ngày 15/10 - 14/11/2022), có 122 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 50 đơn vị trực thuộc), tăng 28,42% so với năm 2021; tổng vốn đăng ký mới 422,31 tỷ đồng, giảm 37,66%; giải thể 19 doanh nghiệp (trong đó có 10 đơn vị trực thuộc), giảm 5% so với cùng kỳ; tạm ngừng hoạt động 12 doanh nghiệp (trong đó có 02 đơn vị trực thuộc), tăng 50%; chuyển đổi loại hình 10 doanh nghiệp tăng gấp 2,5 lần so với cùng kỳ; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 5 doanh nghiệp, giảm 61,53% so với cùng kỳ; đăng ký thay đổi 126 doanh nghiệp (trong đó có 26 đơn vị trực thuộc), tăng 28,57%.

Lũy kế 11 tháng năm 2022 (tính đến ngày 14/11/2022), có 1.394 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 597 đơn vị trực thuộc), tăng 59,31% so với cùng kỳ năm 2021; vốn đăng ký 8.220,91 tỷ đồng, tăng 1,62%; có 228 doanh nghiệp hoạt động trở lại (trong đó có 51 đơn vị trực thuộc), tăng 6,05%; tạm ngừng hoạt động 366 doanh nghiệp (trong đó có 75 đơn vị trực thuộc), tăng 39,69%; số doanh nghiệp đăng ký thay đổi 1.375 doanh nghiệp (trong đó có 314 đơn vị trực thuộc), tăng 31,33%; chuyển đổi loại hình 86 doanh nghiệp, tăng 50,88% so với cùng kỳ năm 2021. Số doanh nghiệp đã giải thể 294 doanh nghiệp (trong đó có 187 đơn vị trực thuộc), tăng 50,77%.

4. Đăng ký đầu tư

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không có dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; lũy kế 11 tháng năm 2022 trên địa bàn tỉnh có có 15 dự án được cấp quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư, với tổng diện tích đất 139,89 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 561,74 tỷ đồng. Lũy kế từ trước đến nay có 1.607 dự án được cấp phép đầu tư, với tổng diện tích đất 50.105 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 332.726 tỷ đồng.

Trong tháng không có dự án thu hồi; lũy kế 11 tháng năm 2022 có 03 dự án khởi công, 09 dự án thu hồi và không có dự án nào đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng.

III. Thương mại; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải; bưu chính viễn thông

1. Thương mại, giá cả

Tình hình thương mại trong tháng có mức tăng trưởng tương đối ổn định, hàng hoá luôn đáp ứng kịp thời cho người dân. Các doanh nghiệp chủ động xây dựng chương trình khuyến mãi với nhiều nội dung, hình thức đa dạng phù hợp với ngành hàng kinh doanh của mình nhằm kích cầu tiêu dùng, đưa người dân tiếp cận được nhiều hàng hoá tốt nhất với giá ưu đãi. Các cơ sở kinh doanh bắt đầu lên kế hoạch kinh doanh và dự trữ hàng hoá cho Tết Nguyên đán sắp đến. Riêng mặt hàng xăng dầu trong tháng tiếp tục tăng đã làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là các đơn vị vận tải. Các ngành kinh doanh ăn uống, nhà hàng, các cơ sở lưu trú và các hoạt động dịch vụ khác hoạt động ổn định, đáp ứng nhu cầu cho người dân địa phương và du khách.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng ước đạt 7.095,3 tỷ đồng, tăng 1,89% so với tháng trước và tăng 32,67% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 4.895,2 tỷ đồng, tăng 1,55% so với tháng trước và tăng 14,28% so với cùng kỳ năm 2021 (nhóm lương thực, thực phẩm dự ước đạt 2.481,1 tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 12,65% so với cùng kỳ năm 2021; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình dự ước 414,8 tỷ đồng tăng 1,55% so với tháng trước và tăng 14,04% so với cùng kỳ năm 2021; nhóm xăng dầu ước đạt 751,8 tỷ đồng, tăng 1,57% so với tháng trước và tăng 17,71% so với cùng kỳ năm 2021). Luỹ kế 11 tháng năm 2022 tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 67.139,5 tỷ đồng, tăng 24,56% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 46.981 tỷ đồng, tăng 15,36%; doanh thu dịch vụ ước đạt 7.304,4 tỷ đồng, tăng 49,14%; doanh thu lưu trú-ăn uống ước đạt 12.854,1 tỷ đồng, tăng 55,3%.

* Công tác quản lý thị trường

Lực lượng Quản lý thị trường thường xuyên kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Tăng cường kiểm tra các loại hàng hoá kinh doanh trên đại bàn, để tránh xảy ra các trường hợp đầu cơ, găm hàng, hàng giả kém chất lượng được lưu thông trên thị trường làm ảnh hưởng đến đời sống người dân. Trong tháng 10/2022, đã kiểm tra 36 vụ, phát hiện và xử lý 02 vụ vi phạm, 02 vụ hàng nhập lậu và thu nộp ngân sách nhà nước 234,5 triệu đồng. Luỹ kế 10 tháng 2022 đã kiểm tra 615 vụ, phát hiện và xử lý 229 vụ vi phạm, trong đó 03 vụ hàng cấm; 101 vụ hàng nhập lậu; 01 vụ vi phạm về hàng giả, hàng kém chất lượng và sở hữu trí tuệ; 02 vụ vi phạm về đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá; 47 vụ vi phạm trong kinh doanh và 75 vụ vi phạm khác; xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 4.282,9 triệu đồng.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2022 tăng 0,47% so với tháng trước, tăng 4,37% so với cùng kỳ năm 2021, tăng 4,27% so với tháng 12 năm 2021; CPI bình quân 11 tháng đầu năm 2022 tăng 3,56% so với bình quân cùng kỳ năm 2021.

So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 8 nhóm hàng tăng giá: Giao thông tăng 2,51%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,6%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,29%; Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,25%; May mặc, mũ nón và giầy dép tăng 0,25%; Đồ uống và thuốc lá tăng 0,21%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,18%; Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,07%. Có 3 nhóm hàng ổn định: Thuốc và dịch vụ y tế 100%; Bưu chính viễn thông 100%; Giáo dục 100%.

2. Hoạt động du lịch

Trong tháng hoạt động du lịch tiếp tục phát triển, lượng khách đến tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước. Hướng đến năm du lịch quốc gia 2023 tỉnh Bình Thuận đăng cai tổ chức, tỉnh đã chủ động tuyên truyền, quảng bá tạo sự lan toả rộng rãi đến du khách trong nước và quốc tế. Đồng thời đẩy mạnh phát triển du lịch nông thôn, phát huy tiềm năng lợi thế của mỗi địa phương. Hoạt động của các đơn vị lữ hành tương đối ổn định, thường xuyên tổ chức các tour du lịch phục vụ nhu cầu du khách. Các công ty du lịch lữ hành đẩy mạnh phối hợp với các công ty lữ hành các tỉnh, vùng lân cận thiết kế những tour riêng chuyên về du lịch biển, du lịch sinh thái; các hoạt động hỗ trợ, dịch vụ vui chơi giải trí hoạt động ổn định, tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước.

Lượng khách du lịch trong tháng ước đạt 580,3 ngàn lượt khách, tăng 2,49% so tháng trước và tăng 74,8 lần so với cùng kỳ năm 2021; ngày khách phục vụ ước đạt 1.072,8 ngàn ngày khách, tăng 2,64% so với tháng trước và tăng 59,4 lần so với cùng kỳ năm 2021. Lũy kế 11 tháng năm 2022 lượt khách du lịch ước đạt 5.119,5 ngàn lượt khách, tăng 2,9 lần so với cùng kỳ năm 2021; ngày khách du lịch ước đạt 9.160 ngàn ngày khách, tăng 3 lần so với cùng kỳ năm 2021.

Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng ước đạt 1.508,9 tỷ đồng, tăng 2,62% so với tháng trước và tăng 28,1 lần so với cùng kỳ năm 2021. Lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 12.140,6 tỷ đồng, tăng 3 lần so với cùng kỳ năm 2021.

Vào thời điểm này hàng năm khách du lịch quốc tế bắt đầu đến Bình Thuận để trú đông; tuy nhiên năm nay lượng khách đến rất ít, dù trước đó các doanh nghiệp du lịch đã có nhiều giải pháp để thu hút khách quốc tế; nguyên nhân một phần bị ảnh hưởng bởi xung đột giữa Nga và Ukraine, tình hình lạm phát kinh tế đang diễn trên nhiều quốc gia trên thế giới nên lượng khách quốc tế đến du lịch tại địa phương bị hạn chế. Lượng khách quốc tế trong tháng ước đạt 10,4 ngàn lượt khách, tăng 4,52% so với tháng trước và tăng 12,9 lần so với cùng kỳ năm 2021; ngày khách phục vụ dự ước đạt 41,6 ngàn ngày khách, tăng 4,82% so với tháng trước và tăng 15 lần so với cùng kỳ năm 2021. Lũy kế 11 tháng năm 2022 lượng khách ước đạt 71,1 ngàn lượt khách, tăng 3,2 lần so với cùng kỳ năm 2021; ngày khách phục vụ ước đạt 280,2 ngàn ngày khách, tăng 3,3 lần so với cùng kỳ năm 2021.

3. Xuất nhập khẩu

Tình hình dịch Covid-19 trên phạm vi toàn cầu cơ bản được khống chế, đã tạo điều kiện thúc đẩy phục hồi kinh tế thế giới. Mặc dù hiện nay, một số thị trường lớn trên thế giới đang có xu hướng tiêu dùng hàng hóa chậm lại, nhưng chưa giảm mạnh, vẫn tạo động lực cho các doanh nghiệp trong tỉnh sản xuất, tăng cường xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Đây cũng là thời điểm cuối năm các doanh nghiệp trong tỉnh đang cố gắng để duy trì sản lượng và hoàn thành các đơn hàng cuối năm với các đối tác đúng kế hoạch hợp đồng.

- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng ước đạt 64,3 triệu USD, tăng 11,2% so với tháng trước và tăng 17,62% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó nhóm hàng thủy sản ước đạt 20,37 triệu USD, tăng 6,13% so với tháng trước và tăng 17,14% so với cùng kỳ năm 2021; nhóm hàng nông sản ước đạt 1,31 triệu USD, tăng 21,17% so với tháng trước và giảm 18,32% so với cùng kỳ năm 2021; nhóm hàng hóa khác ước đạt 42,62 triệu USD, tăng 13,51% so với tháng trước và tăng 19,46% so với cùng kỳ năm 2021. Lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 702,79 triệu USD, tăng 26,6% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó nhóm hàng thủy sản đạt 225,08 triệu USD, tăng 44,11%; nhóm hàng nông sản đạt 13,25 triệu USD, giảm 23,27%; nhóm hàng hóa khác đạt 464,45 triệu USD, tăng 21,69%.

+ Xuất khẩu trực tiếp lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 695,02 triệu USD, tăng 26,88% so với cùng kỳ năm 2021. Xuất sang thị trường Châu Á ước đạt 450,73 triệu USD, tăng 27,57%; xuất đi các nước như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Philippin. Xuất sang thị trường Châu Âu đạt 75,3 triệu USD, tăng 25,87%; xuất đi các nước như Anh, Italia, Đan Mạch, Bỉ, Đức, Hà Lan. Xuất sang thị trường Châu Mỹ đạt 157,97 triệu USD, tăng 21,48%; xuất đi các nước như Mỹ, Canada, Belizo.

Một số sản phẩm xuất khẩu chủ yếu như tôm thẻ chân trắng xuất đi Mỹ, Nhật, Đức, Anh. Mực tươi đông lạnh xuất đi Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ. Thủy sản các loại xuất đi Nhật Bản, Côlômbia, Mỹ, Đan Mạch. Các loại quặng xuất đi Trung Quốc. Các sản phẩm may mặc xuất đi Nhật Bản. Giày dép các loại xuất đi Mỹ, Hà Lan, Canada, Italia.

+ Ủy thác xuất khẩu lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 7,77 triệu USD, tăng 5,84% so với cùng kỳ năm 2021.

- Nhập khẩu trong tháng ước đạt 114,54 triệu USD, giảm 6,35% so với tháng trước và tăng 0,28% so với cùng kỳ năm 2021. Lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 1.246,76 triệu USD, tăng 14,27% so với cùng kỳ năm 2021. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu để sản xuất như hàng thủy sản, nguyên liệu dệt may, da giày, gỗ và sản phẩm gỗ, giấy các loại; mặt hàng thức ăn gia súc được nhập khẩu để phục vụ cho hoạt động mua bán. Một số mặt hàng chủ yếu như hàng thủy sản chiếm 11,76% tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu; nguyên liệu dệt may, da giày chiếm 12,39%; nguyên liệu thức ăn chăn nuôi chiếm 72,13%.

4. Hoạt động vận tải

Hoạt động vận chuyển hành khách có nhiều chuyển biến tốt, nhu cầu đi lại của người dân tăng cao. Các cơ sở vận tải hành khách hoạt động ổn định và sẽ tăng vào những tháng cuối năm do nhu cầu du lịch, nghĩ dưỡng dịp cuối năm. Hoạt động vận chuyển hành khách các tuyến liên tỉnh và nội tỉnh được đảm bảo. Hoạt động vận tải hàng hóa ổn định đáp ứng được nhu cầu vận chuyển những tháng cuối năm được thông suốt.

- Vận tải hành khách:

+ Ước tháng 11 vận chuyển 867,06 nghìn hành khách, tăng 5,53% so với tháng trước và tăng gấp 4,34 lần so với cùng kỳ năm 2021; luân chuyển 81,73 triệu hk.km, tăng 6,16% so với tháng trước và tăng 18,95 lần so với cùng kỳ năm 2021. Luỹ kế 11 tháng năm 2022 vận chuyển 12.984,58 nghìn hành khách, tăng 69,45% so với cùng kỳ năm 2021 và luân chuyển 878,18 triệu hk.km, tăng 2,53 lần so cùng kỳ năm 2021.

+ Xét theo lĩnh vực, tháng 11 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 835,21 nghìn hành khách, tăng 5,54% so với tháng trước và tăng gấp 4,20 lần so với cùng kỳ; lũy kế 11 tháng năm 2022 đạt 12.630,48 nghìn hành khách, tăng 65,95% so với năm cùng kỳ năm 2021. Vận chuyển hành khách đường sắt đạt 20,81 nghìn hành khách, tăng 4,96% so với tháng trước; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 190,69 nghìn hành khách. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 11,04 nghìn hành khách, tăng 5,70% so với tháng trước và tăng 15,07 lần so với cùng kỳ năm 2021; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 163,41 nghìn hành khách, tăng 3,14 lần so với cùng kỳ năm 2021. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 68,30 triệu hk.km, tăng 6,38% so với tháng trước và tăng gấp 16,14 lần so với cùng kỳ; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 756,20 triệu hk.km, tăng 2,21 lần so với cùng kỳ năm 2021. Luân chuyển hành khách đường sắt đạt 12.487,81 nghìn hk.km, tăng 4,96% so với tháng trước; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 106.951,02 nghìn hành khách.km. Luân chuyển hành khách đường thủy đạt 938,58 nghìn hk.km, tăng 5,91% so với tháng trước và tăng gấp 11,62 lần so với cùng kỳ năm 2021; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 15,03 triệu hk.km, tăng 2,66 lần so với cùng kỳ năm 2021.

- Vận tải hàng hoá:

+ Ước tháng 11 vận chuyển hàng hoá đạt 413,00 nghìn tấn, tăng 6,17% so với tháng trước và tăng gấp 3,07 lần so với cùng kỳ năm 2021; luân chuyển hàng hoá đạt 42,62 triệu tấn.km, tăng 4,40% so với tháng trước và gấp 4,18 lần so với cùng kỳ năm 2021. Luỹ kế 11 tháng năm 2022 đã vận chuyển 6.043,51 nghìn tấn hàng hoá, tăng 35,78% so với cùng kỳ năm 2021 và luân chuyển hàng hoá đạt 472,30 triệu tấn.km, tăng 92,29% so với cùng kỳ năm 2021.

+ Xét theo lĩnh vực, tháng 11 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 406,55 nghìn tấn, tăng 6,20% so với tháng trước và tăng gấp 3,03 lần so với cùng kỳ năm 2021; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 5.977,41 nghìn tấn, tăng 34,45% so với cùng kỳ năm 2021. Vận chuyển hàng hoá đường sắt đạt 5,38 nghìn tấn, tăng 4,77% so với tháng trước; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 57,03 nghìn tấn. Vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 1,06 nghìn tấn, tăng 4,53% so với tháng trước, tăng 3,47% so với cùng kỳ năm 2021; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 9,06 nghìn tấn, tăng 79,34% so với cùng kỳ năm 2021. Luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 114,91 triệu tấn.km, tăng 4,54% so với tháng trước và tăng gấp 3,25 lần so với cùng kỳ năm 2021; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 980,49 triệu tấn.km, tăng 68,66% so với cùng kỳ năm 2021. Luân chuyển hàng hoá đường sắt đạt 3.766,67 nghìn tấn.km, tăng 4,78% so với tháng trước; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 45.333,11 nghìn tấn.km. Luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 114,91 nghìn tấn.km, tăng 4,54% so với tháng trước, tăng 3,25 lần so với cùng kỳ năm 2021; luỹ kế 11 tháng năm 2022 đạt 980,49 nghìn tấn.km, tăng 68,66% so với cùng kỳ năm 2021.

- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi tháng 11 ước đạt 212,47 tỷ đồng, tăng 6,53% so với tháng trước và tăng gấp 4,84 lần so với cùng kỳ năm 2021. Luỹ kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 2.109,0 tỷ đồng, tăng 2,15 lần so với cùng kỳ năm 2021; trong đó doanh thu vận tải hành khách ước đạt 916,20 tỷ đồng, tăng 2,92 lần; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.074,68 tỷ đồng, tăng 68,13%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 113,65 tỷ đồng, tăng 4,09 lần; doanh thu bưu chính, chuyển phát ước đạt 4,49 tỷ đồng.

- Khối lượng hàng hóa vận chuyển qua Cảng quốc tế Vĩnh Tân tháng 10 đạt 108,64 ngàn tấn, trong đó xuất cảng 79,95 ngàn tấn (tro bay, muối xá…); nhập cảng 28,69 ngàn tấn (muối xá, xi măng). Tháng 11 ước đạt 115.000 tấn; Lũy kế khối lượng hàng hóa vận chuyển qua Cảng 11 tháng năm 2022 đạt 1.197,64 ngàn tấn. Loại hàng hóa chủ yếu là muối xá, quặng ilmenite, tro bay, xi măng…

5. Bưu chính viễn thông

Hạ tầng bưu chính, mạng viễn thông tiếp tục được phát triển mở rộng; đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước, người dân và các tổ chức, doanh nghiệp. Hệ thống truyền dẫn cáp quang, mạng internet băng rộng di động 3G, 4G và cố định đã phủ đến 100% các xã, phường, thị trấn. Mạng lưới phục vụ bưu chính, viễn thông với 1.270 cơ sở kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông, đạt bán kính phục vụ bình quân là 1,4 km/cơ sở. Tổng số thuê bao điện thoại ước đạt 1.870.250 thuê bao, mật độ 149 thuê bao/100 dân. Tổng số thuê bao Internet các loại 175.000 thuê bao; tỷ lệ người sử dụng Internet (quy đổi) đạt 70%.

V. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng

1. Thu, chi ngân sách

Ước thu ngân sách tháng 11 năm 2022 đạt 550 tỷ đồng. Lũy kế 11 tháng năm 2022 ước 10.305,43 tỷ đồng, đạt 121,41% dự toán năm và giảm 6,53% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó thu nội địa 9.351,65 tỷ đồng, đạt 130,1% dự toán năm, giảm 0,34%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí và thu khác 8.063,89 tỷ đồng, đạt 136,49% dự toán năm, tăng 4,33%; thu tiền nhà, đất 1.287,75 tỷ đồng, đạt 100,61% dự toán năm, giảm 22,14% (trong đó thu tiền sử dụng đất 996,34 tỷ đồng, đạt 90,58% dự toán năm, giảm 29,74% so với cùng kỳ năm 2021); thu thuế xuất nhập khẩu 953,78 tỷ đồng, đạt 73,37% dự toán toán năm và giảm 41,90%. Riêng khối huyện, thị xã, thành phố kết quả thu 11 tháng năm 2022, có 10/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách đạt và vượt dự toán năm, 9/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách tăng so với cùng kỳ năm 2021.

Tổng chi trong tháng ước thực hiện 500 tỷ đồng. Lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 13.695,01 tỷ đồng; Chi ngân sách nhà nước ước đạt 9.965,05 tỷ đồng, trong đó đầu tư phát triển 4.309,65 tỷ đồng, chi thường xuyên 5.654,75 tỷ đồng.

2. Hoạt động tín dụng

Đến 31/10/2022, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 78.212 tỷ đồng, tăng 5,41% so với đầu năm (cùng kỳ năm trước tăng 6,23%). Trong đó, dư nợ cho vay bằng VND đạt 76.904 tỷ đồng, chiếm 98,3% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 46.997 tỷ đồng, chiếm 60% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay phân theo các mức lãi suất: lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng 6%/năm chiếm khoảng 2,1% tổng dư nợ, lãi suất từ 6-7%/năm chiếm khoảng 3,7% tổng dư nợ, lãi suất từ 7-9%/năm chiếm 29,2% tổng dư nợ; lãi suất từ 9-12%/năm chiếm khoảng 53,3% tổng dư nợ, lãi suất trên 12%/năm chiếm khoảng 11,6% tổng dư nợ. Ước đến 30/11/2022, tổng dư nợ đạt 79.017 tỷ đồng, tăng 6,5% so với đầu năm.

Từ ngày 25/10/2022, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 3,5%-6%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng là 4,2-8,5%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên là 5,2-8,85%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 5,5%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân là 6,5%/năm), các lĩnh vực khác từ 8,5-12%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 9-13%/năm.

Vốn huy động ước đến 31/10/2022 đạt 53.330 tỷ đồng, tăng 8,96% so với đầu năm (cùng kỳ năm trước tăng 10,73%). Ước đến 30/11/2022, nguồn vốn huy động đạt 54.327 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm. Đến 31/10/2022, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn là 874 tỷ đồng, chiếm 1,12% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu tăng 0,28% so với đầu năm.

Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 42.974 tỷ đồng, chiếm 54,9% tổng dư nợ; dư nợ cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao đạt 292 tỷ đồng, chiếm 0,37% tổng dư nợ; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 530 tỷ đồng, chiếm 0,68% tổng dư nợ; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 17.063 tỷ đồng, chiếm 21,8% tổng dư nợ.

Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ (nội bảng) 229,2 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 56,9 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 171 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 1,2 tỷ đồng). Nợ xấu (nội bảng) là 134,1 tỷ đồng/20 tàu, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 64,4 tỷ đồng/45 tàu, nợ ngoại bảng là 694,3 tỷ đồng/61 tàu. Các đối tượng chính sách vay theo các chương trình tín dụng ưu đãi với dư nợ cho vay đạt 3.778,2 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP đạt 123,1 tỷ đồng/334 hộ; dư nợ cho vay đối với cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là 6 tỷ đồng, cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn để mua máy tính, thiết bị phục vụ học trực tuyến là 14,7 tỷ đồng theo Nghị quyết số 11/NQ-CP.

Đến 31/10/2022, dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ 276 tỷ đồng/488 khách hàng; lũy kế giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 23/01/2020 đến 31/10/2022 là 2.903 tỷ đồng/14.910 khách hàng; Miễn, giảm, hạ lãi suất cho khách hàng với tổng số tiền 161,69 tỷ đồng, trong đó miễn, giảm lãi là 5,86 tỷ đồng, hạ lãi suất cho vay với số tiền lãi đã hạ là 155,83 tỷ đồng; Cho vay mới đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với lãi suất thấp hơn so với trước khi dịch bệnh xảy ra với doanh số cho vay mới lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến 31/10/2022 là 76.079 tỷ đồng/102.934 khách hàng.

Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động được vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất theo Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg và Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Cho vay đến 31/3/2022 dừng, Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh đã giải ngân cho vay 45.891 triệu đồng cho 11 doanh nghiệp để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất cho 13.981 người lao động, đến 31/10/2022, dư nợ là 44,2 tỷ đồng/5 doanh nghiệp.

Thực hiện Chỉ thị 03/CT-NHNN ngày 16/8/2022 về việc triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất 2% từ nguồn ngân sách nhà nước 40.000 tỷ theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP và Thông tư số 03/2022/TT-NHNN. Kết quả thực hiện đến ngày 30/9/2022, doanh số cho vay hỗ trợ lãi suất là 133.457 triệu đồng, dư nợ hỗ trợ lãi suất là 59.902 triệu đồng, số khách hàng được hỗ trợ lãi suất là 10 khách hàng, số tiền đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng là 137 triệu đồng.

Doanh số mua bán ngoại tệ trong 10 tháng năm 2022 đạt 508 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 139,8 triệu USD. Đến 31/10/2022, trên địa bàn có 200 máy ATM, tăng 13 máy so với đầu năm và 1.601 máy POS, tăng 19 máy so với đầu năm. Các máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Đã tích cực triển khai chuyển đổi số, đến nay tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản thanh toán đang còn hoạt động tại các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn khoảng trên 77%. Tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn trong thanh toán điện tử và thanh toán thẻ nhằm tạo điều kiện thúc đẩy, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư.

VI. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội

1. Hoạt động văn hóa - Thể dục thể thao

1.1. Hoạt động văn hóa

- Hoạt động văn nghệ: Trong tháng, đã tổ chức tuyên truyền và chiếu phim lưu động phục vụ nhân dân, đồng bào vùng sâu, miền núi, thiếu nhi các huyện với 16 buổi. Tổ chức 02 chương trình nghệ thuật phục vụ nhân dân và du khách nhân Ngày Du lịch Bình Thuận 24/10; tổ chức vòng sơ khảo Liên hoan “Tiếng hát Học sinh - Sinh viên” tỉnh Bình Thuận lần thứ I năm 2022,...

- Hoạt động thư viện: Trong tháng cấp mới 61 thẻ, phục vụ 260.931 lượt bạn đọc; luân chuyển 14.276 lượt sách, tài liệu; sưu tầm 138 tin, bài thông tin tư liệu Bình Thuận; trưng bày giới thiệu 21 bản sách mới trên website, 259 tài liệu tuyên truyền. Lũy kế đến ngày 30/10/2022 đã cấp mới 877 thẻ, phục vụ 2.274.538 lượt bạn đọc; luân chuyển 2.024.270 lượt sách, tài liệu; sưu tầm 1.477 tin, bài thông tin tư liệu Bình Thuận; trưng bày giới thiệu 187 bản sách mới trên website, 2.885 tài liệu tuyên truyền.

- Hoạt động bảo tồn, bảo tàng: Trong tháng đã đón 15.478 lượt khách (376 lượt khách quốc tế). Lũy kế đến ngày 30/10/2022, đã đón 229.212 lượt khách (1.550 lượt khách quốc tế). Sưu tầm, khảo sát 05 hiện vật về văn hóa Chăm; triển khai các phần việc thuộc Dự án “Xây dựng Đai trưng bày Nhà Tưởng niệm - Trưng bày tại Khu di tích Căn cứ Tỉnh ủy Bình Thuận trong kháng chiến chống Mỹ ở xã Đông Giang, huyện Hàm Thuận Bắc.

1.2. Hoạt động thể thao

Trong tháng, đã tổ chức thành công Ngày hội Xe đạp phong trào toàn quốc lần thứ III năm 2022 tại Bình Thuận; Hội thao Công đoàn Viên chức tỉnh năm 2022; Hội thao ngành Y tế lần thứ I năm 2022; Hội thao - Văn nghệ ngành Thuế Bình Thuận năm 2022; lượt về giải Futsal HDBank vô địch quốc gia năm 2022.

Thể thao thành tích cao: Trong tháng cử Đội tuyển Điền kinh tham dự giải vô địch Điền kinh Thiếu niên U18 Châu Á (01 huy chương vàng, 01 huy chương bạc, 05 huy chương đồng); Đội tuyển Vovinam tham dự giải vô địch Vovinam Cụm miền Đông Nam bộ tỉnh Bình Dương mở rộng năm 2022 (01 huy chương vàng). Lũy kế đến ngày 30/10/2022, tổng số huy chương đạt được là 208 huy chương (59 huy chương vàng; 49 huy chương bạc; 101 huy chương đồng).

2. Giáo dục và Đào tạo

Trong tháng, tăng cường triển khai kế hoạch trường học an toàn, đẩy mạnh hiệu quả công tác giáo dục thểchất, y tếtrường học đểthích ứng với tình hình dịch Covid-19, thiên tai và các dịch bệnh truyền nhiễm khác, nhằm bảo đảm an toàn cho học sinh, giáo viên, củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục. Tiếp tục duy trì tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi, duy trì phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1.

Tổng số học sinh phổ thông có mặt đầu năm học 2022-2023: 242.166 học sinh (trong đó: 124.606 học sinh tiểu học, 78.904 học sinh trung học cơ sơ và 38.656 học sinh trung học phổ thông).

Trong tháng, đã ban hành Quyết định công nhận 392 học sinh đạt danh hiệu Học sinh giỏi lớp 12 Trung học phổ thông cấp tỉnh năm học 2022-2023; trong đó có 06 giải nhất, 40 giải nhì và 346 giải ba (so với năm học trước tăng 64 giải, cụ thể: giảm 04 giải nhất, giảm 25 giải nhì, tăng 93 giải ba).

Tính đến thời điểm tháng 11, toàn tỉnh có 274/536 trường chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 51,11%; trong đó Mầm non có 52/142 trường (36,62%), Tiểu học có 128/238 trường (53,78%), Trung học cơ sở có 80/130 trường (61,54%), Trung học phổ thông có 14/26 trường (53,85%). Ngoài ra, có 02 trường Mầm non, 02 trường Tiểu học đã thực hiện đánh giá ngoài, hiện đang trình tỉnh hồ sơ công nhận đạt chuẩn quốc gia.

3. Y tế

Trong tháng (từ ngày 15/10-14/11/2022), toàn tỉnh có 1.622 cas mắc sốt xuất huyết, giảm 26,9% (giảm 597 cas) so với tháng trước và tăng gấp 6 lần so với tháng cùng kỳ năm 2021, có 01 cas tử vong; lũy kế 11 tháng năm 2022 toàn tỉnh có 9.579 cas mắc sốt xuất huyết, tăng gấp 4 lần so với cùng kỳ năm trước, có 06 trường hợp tử vong, 278 cas mắc sốt huyết nặng. Bệnh tay chân miệng có 42 cas mắc, giảm 66,4% (giảm 83 cas) so tháng trước; lũy kế 11 tháng năm 2022 có 805 ca mắc, có 01 trường hợp tử vong.

Số bệnh nhân mắc bệnh phong: Trong tháng không có bệnh nhân mới và không có bệnh nhân phong mới tàn tật độ II. Luỹ kế 11 tháng năm 2022 có 386 bệnh nhân phong đang quản lý và 01 bệnh nhân phong mới bị tàn tật độ II.

Bệnh dại: Trong tháng không có xảy ra bệnh dại và tử vong. Lũy kế 11 tháng năm 2022, toàn tỉnh ghi nhận 02 trường hợp mắc bệnh dại và 02 ca tử vong do dại.

Công tác phòng chống Lao: Có 743 tổng số lượt khám, số bệnh nhân thu dung điều trị 124 ca và 79 ca bệnh nhân lao phổi AFB(+). Lũy kế 11 tháng năm 2022 có 1.419 tổng số lượt khám, số bệnh nhân lao phổi AFB(+) mới 845 ca.

Số nhiễm HIV: Trong tháng có 07 ca nhiễm mới, không có ca nhiễm chuyển sang AIDS và không có ca tử vong. Luỹ kế 11 tháng năm 2022 có 63 ca nhiễm HIV mới, 18 ca nhiễm đã chuyển sang AIDS, 05 ca tử vong. Lũy kế từ trước đến nay có 1.722 ca nhiễm HIV, số ca nhiễm đã chuyển sang AIDS 1.104 và 541 ca tử vong.

Công tác phòng, chống dịch bệnh đã triển khai đồng bộ các hoạt động giám sát, các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn toàn tỉnh, các ca bệnh được quản lý chặt chẽ, cập nhật kịp thời và xử lý triệt để các ổ dịch. Tăng cường công tác phòng, chống bệnh Đậu mùa khỉ... Tình hình dịch cúm A H5N1, H7N9, Ebola, Zika; phòng chống dịch cúm lây truyền từ gia cầm sang người, bệnh đậu mùa khỉ; tiếp tục tăng cường triển khai xử lý các ổ dịch Covid-19 theo quy định.

Trong tháng không có xảy ra ngộ độc thực phẩm; các bệnh viện, các đơn vị điều trị chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân; thực hiện đầy đủ các quy định chuyên môn của Bộ Y tế; tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn; đảm bảo đầy đủ cơ số thuốc, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị cho công tác phòng, chống dịch và công tác khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn. Trong tháng, số lượt bệnh nhân đến khám, chữa bệnh 54.945 lượt, số bệnh điều trị nội trú 10.532 số bệnh nhân chuyển viện 772, số bệnh nhân tử vong 35. Công suất sử dụng giường bệnh tại các tuyến đạt từ 93% đến 118,5%.

Công tác chống dịch Covid-19 tiếp tục triển khai thực hiện. Tính từ ngày 27/4/2021 đến 18 giờ ngày 22/11/2022, toàn tỉnh đã ghi nhận 53.658 ca mắc Covid-19 (Phan Thiết 9.133, Tánh Linh 8.907, Hàm Thuận Bắc 6.459, Hàm Thuận Nam 6.229, Tuy Phong 5.138, La Gi 4.334, Hàm Tân 4.313, Đức Linh 3.666, Phú Quý 2.749, Bắc Bình 2.730). Trong đó có 50 ca đang được điều trị tại cơ sở y tế, 53.154 ca đã điều trị khỏi và xuất viện, 483 ca tử vong (29 ca tử vong ngoài tỉnh). Có 902.752 người đã tiêm vắc xin mũi 1 (100%); 902.752 người tiêm vắc xin mũi 2 (100%); 517.512/762.532 tiêm vắc xin mũi 3 (67,9%) và 112.636/114.862 tiêm vắc xin mũi 4. Tiêm nhắc lần 1 cho trẻ từ 12 đến 17 tuổi (mũi 3): 55.876 (46,0%). Tiêm cho trẻ từ 05 đến 11 tuổi: 105.624 mũi 1 (83,3%); 65.765 mũi 2 (51,8%).

5. Lao động - xã hội

Trong tháng (tính đến ngày 10/11/2022) đã giải quyết việc làm cho 1.130 lao động, lũy kế 11 tháng năm 2022 giải quyết việc làm 21.691 lao động, đạt 108,45% so kế hoạch, tăng 50,5% so với cùng kỳ năm 2021. Cho vay vốn giải quyết việc làm 5.291 lao động, gấp 3,78 lần so với kế hoạch. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp cho 1.097 người, lũy kế 11 tháng năm 2022 số người tuyển mới đào tạo nghề nghiệp 15.402 người, đạt 154,02% so với kế hoạch và tăng 2,17 lần so với cùng kỳ năm 2021.

Quỹ Đền ơn đáp nghĩa vận động 9,83 tỷ đồng, đạt 163,8% so với kế hoạch năm và tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2021. Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh vận động 843,772 triệu đồng đạt 42,19% so kế hoạch năm và giảm 9,13% so với cùng kỳ năm 2021.

Trên địa bàn tỉnh có 3.290 người nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý; trong đó đang quản lý, giáo dục, lao động trị liệu và chăm sóc sức khỏe tại cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh là 400 (trong đó có 04 nữ); quản lý trong tại tạm giam, nhà tạm giữ 91 người; tự điều trị bằng thuốc thay thế Methadone tại cơ sở y tế 596 người; 2.122 người đang được các ban, ngành, đoàn thể ở nơi cư trú quản lý giáo dục. Có 111 xã, phường, thị trấn có người sử dụng trái phép chất ma tuý chiếm 89,52% số xã, phường, thị trấn.

Trong tháng đã ban hành các quyết định thực hiện trợ cấp mai táng phí và trợ cấp một lần cho 53 hồ sơ; trợ cấp thờ cúng liệt sĩ cho 60 hồ sơ; giải quyết hưởng thêm trợ cấp ưu đãi đối với thương binh cho 18 trường hợp và tổ chức đưa 160 người có công đi thủ đô Hà Nội để viếng Lăng Bác.

6. Hoạt động bảo hiểm

Tính đến ngày 31/10/2022 toàn tỉnh có 96.448 người tham gia BHXH bắt buộc, tăng 14,1% so với cùng kỳ; có 87.768 người tham gia BHTN, tăng 15,6% so với cùng kỳ; số người tham gia BHXH tự nguyện 10.147 người, giảm 11,2% so với cùng kỳ; số người tham gia BHYT 1.024.670 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 11.371 người), tăng 5,3% so với cùng kỳ. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh ước đạt 88,6% dân số.

Đến hết tháng 10/2022, toàn tỉnh có 238.730 em học sinh, sinh viên (HSSV) tham gia BHYT, đạt tỷ lệ 98,3%. Trong đó: Có 206.182 em tham gia tại trường học, có 32.548 em tham gia theo nhóm khác (hộ nghèo, cận nghèo, …), còn 4.021 em chưa tham gia BHYT, chiếm tỷ lệ 1,7%, chủ yếu là HSSV tham gia có thời hạn ngắn (3 tháng, 6 tháng) hết hạn thẻ chưa tham gia lại, người dân tộc thiểu số không còn được ngân sách đóng BHYT theo Quyết định số 861/QĐ-TTg.

Đã xét duyệt, giải quyết cho 52.956 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, tăng 17,2% so với cùng kỳ. Trong đó hưởng các chế độ BHXH dài hạn 824 lượt người; hưởng trợ cấp thất nghiệp 9.427 người; hưởng trợ cấp BHXH một lần 10.695 lượt người; hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức-phục hồi sức khỏe 32.010 lượt người.

Tổng số đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng tính đến đầu tháng 11/2022 là 17.427 người. Tính đến ngày 31/10/2022, tổng số thu 2.143,578 tỷ đồng, tăng 9,3% so với cùng kỳ. Tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 163,494 tỷ đồng, tăng 1,4% so với cùng kỳ.

7. Tai nạn giao thông

Trong tháng (từ ngày 15/10-14/11/2022), xảy ra 22 vụ tai nạn giao thông, tăng 03 vụ so với tháng trước và giảm 02 vụ so với cùng kỳ năm 2021; số người bị thương 11 người, giảm 02 người so với tháng trước và giảm 10 người so với cùng kỳ năm 2021; số người chết 16 người, tăng 04 người so với tháng trước và tăng 16 người so với cùng kỳ năm 2021.

Luỹ kế 11 tháng năm 2022 đã xảy ra 232 vụ (trong đó có 07 vụ đường sắt), so với cùng kỳ năm 2021 giảm 04 vụ; số người bị thương 123 người (trong đó đường sắt 01 người) giảm 17 người so với cùng kỳ năm 2021; số người chết 162 người (trong đó đường sắt 06 người), so với cùng kỳ năm trước tăng 16 người.

Tai nạn giao thông tháng 10 giảm 0,9% so với cùng kỳ, chủ yếu xảy ra trên quốc lộ 1A, đường bộ, ở khu vực ngoài đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát, có rượu bia khi tham gia giao thông.

8. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường

- Thiên tai: Trong tháng xảy ra 04 vụ, trong đó 03 vụ do mưa lớn kéo dài gây ngập lụt, lũ quét xảy ở huyện Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc và Đức Linh đã làm 14 tàu cá và 17 thúng bị chìm, nhiều ngư cụ bị cuốn trôi; tốc mái, hư hỏng 02 căn nhà; ngập lụt 676 ha cây lúa (chủ yếu lúa trên 35 ngày tuổi và đang làm đòng); 45 ha cây thanh long; 130 ha hoa màu, rau các loại; Khoảng 43 ha lúa và rau màu các loại bị ngã, đổ, hư hỏng (trong đó 40 ha lúa đang trổ, 03 ha rau các loại đang thu hoạch); 01 vụ do sóng lớn kết hợp thủy triều xảy ra trên địa bàn thành phố Phan Thiết làm gãy đổ hoàn toàn phần đỉnh kè trong lối đi bộ Công viên Đồi Dương (30 m) và các tài sản khác; ước thiệt hại 5.070 triệu đồng. Lũy kế 11 tháng năm 2022 xảy ra 41 vụ thiên tai, ước tổng giá trị thiệt ban đầu 24.456,6 triệu đồng.

- Cháy nổ: Trong tháng không xảy ra vụ cháy (giảm 02 vụ với cùng kỳ năm trước), không xảy ra vụ nổ. Lũy kế 11 tháng năm 2022 xảy ra 27 vụ cháy (giảm 23 vụ so cùng kỳ), thiệt hại 3.681,8 triệu đồng.

- Vi phạm môi trường: Trong tháng đã phát hiện 04 vụ (tăng 02 vụ so với cùng kỳ năm trước); đã xử phạt 96,98 triệu đồng (Các hành vi về tài nguyên nước: không có giấy phép khai thác nước theo quy định, về bảo vệ môi trường; xả khí thải vượt quy đinh). Lũy kế 11 tháng năm 2022 xảy ra 31 vụ (tăng 04 vụ so cùng kỳ), ước tổng giá trị thiệt hại 4.212,23 triệu đồng.


Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận

  • Tổng số lượt xem: 786
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)