Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 01/10/2015-15:15:00 PM
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 năm 2015 tỉnh Tây Ninh

Kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh 9 tháng đầu năm 2015 tiếp tục phát triển ổn định, kinh tế duy trì nhịp độ tăng trưởng khá, một số lĩnh vực đạt được những kết quả tích cực. Sản xuất nông nghiệp còn chưa hết khó khăn, nhất là ngành trồng trọt do giá một số nông sản thường xuyên biến động, ngành chăn nuôi và thuỷ sản tiếp tục phát triển tốt, nhưng nhịp độ tăng có dấu hiệu chựng lại, mức đóng góp chung cho tăng trưởng giảm hơn các quý trước. Sản xuất kinh doanh của các ngành công nghiệp, thương mại, xuất nhập khẩu trên địa bàn, nhìn chung đều phát triển thuận lợi, duy trì mức độ tăng trưởng khá cao; thu hút đầu tư nước ngoài tuy số dự án có thấp hơn so với cùng kỳ, nhưng nhờ các dự án có quy mô lớn từ các năm trước, đi vào hoạt động và sản xuất ổn định, nhiều dự án tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất ngay từ những tháng đầu năm góp phần tăng cao giá trị sản xuất; giá cả thị trường từ đầu năm đến nay tương đối ổn định, xu hướng giảm nhẹ do các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu phù hợp với giá thi trường thế giới; hoạt động ngân hàng ổn định và phát triển; hoạt động văn hoá sôi nổi, duy trì thường xuyên; an ninh quốc phòng được đảm bảo.

9 tháng đầu năm 2015, kinh tế của tỉnh tiếp tục duy trì phát triển khá, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhìn chung phát triển thuận lợi. Các dự án sản xuất công nghiệp lớn thuộc khu vực FDI đưa vào sản xuất năm trước, năm nay bắt đầu đi vào hoạt động ổn định và mở rộng quy mô sản xuất, sức mua thị trường đang dần phục hồi, tổng mức bán lẻ, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn đều tăng khá; hầu hết giá trị sản xuất các ngành kinh tế đều tăng trưởng với nhịp độ giữ mức hoặc cao hơn so với thời điểm 6 tháng đầu năm.

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 9 tháng đầu năm 2015 (theo giá so sánh 2010) ước đạt 34.081tỷ đồng, tăng 9,49% so cùng kỳ. Trong đó, khu vực nông-lâm-thủy sản tăng 4,60%, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 14,09%, khu vực dịch vụ tăng 9,56% so cùng kỳ năm trước.

Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)

theo giá so sánh 2010

Tốc độ tăng so với

cùng kỳ năm trước (%)

Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng 9 tháng 2015 (điểm phần trăm)

9 tháng

2014

6 tháng

2015

9 tháng

2015

Tổng số

9,75

9,42

9,49

9,49

Nông, lâm nghiệp và thủy sản

4,91

4,92

4,60

1,58

Công nghiệp và xây dựng

16,30

14,05

14,09

4,58

Dịch vụ

8,82

8,23

9,56

3,16

Thuế nhập khẩu

9,81

180,41

171,3

0,17

Cơ cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục chuyển dịch tích cực, tỷ trọng khu vực công nghiệp-xây dựng và dịch vụ trong GRDP có xu hướng tăng, còn khu vực nông-lâm nghiệp-thủy sản giảm, cụ thể từng khu vực như sau:

- Nông-lâm-thủy sản: 29,34%, giảm 3,08 điểm % so cùng kỳ.

- Công nghiệp-Xây dựng: 37,74%, tăng 2,41 điểm % so cùng kỳ.

- Dịch vụ: 32,69%, tăng 0,54 điểm % so cùng kỳ.

- Thuế nhập khẩu: 0,23%, tăng 0,13 điểm % so cùng kỳ.

Kết quả hoạt động một số lĩnh vực chủ yếu:

1. Sản xuất Nông, lâm nghiệp, thủy sản:

1.1 Nông nghiệp:

Trong 9 tháng đầu năm, điều kiện thời tiết diễn ra tương đối thuận lợi vào các tháng đầu năm, hồ Dầu Tiếng và các trạm bơm nước đảm bảo đủ nhu cầu nước tưới cho các loại cây trồng phát triển tốt, nhất là ở vụ Đông xuân. Tuy nhiên, vào sản xuất vụ Hè thu và vụ Mùa, ở một số thời điểm, nắng nóng kéo dài, hoặc mưa lớn bất thường không đều giữa các khu vực trong tỉnh làm ảnh hưởng đến tình hình xuống giống của các loại cây trồng, nhất là cây nông nghiệp hàng năm. Giá cả nông sản trong thời gian qua tương đối ổn định, các loại cây trồng có hiệu quả tiếp tục được đầu tư và phát triển; việc chuyển đổi cơ cây trồng ở các địa phương vẫn thường xuyên diễn ra. Tình hình dịch hại trên các loại cây trồng phát sinh gây hại ở mức nhiễm nhẹ, ảnh hưởng không đáng kể đến sinh trưởng cây trồng....

Giá trị sản xuất nông nghiệp 9 tháng đầu năm 2015 trên địa bàn tỉnh ước đạt 20.026 tỷ đồng (theo giá SS2010) tăng 4,74% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành trồng trọt đạt 16.249 tỷ đồng, tăng 4,45%, ngành chăn nuôi đạt 2.226 tỷ đồng, tăng 4,76% và ngành dịch vụ đạt 1.551 tỷ đồng, tăng 7,87% so cùng kỳ năm 2014.

Tình hình sản xuất các ngành cụ thể như sau:

a) Trồng trọt:

- Gieo trồng vụ Mùa:

Tính đến ngày 15/9/2015 toàn tỉnh gieo trồng được 48.726 ha, giảm 6,54% so cùng kỳ năm trước; trong đó cây trồng trong vụ thu hoạch trong năm đạt 42.906 ha, giảm 9,16% và các cây trồng trong vụ thu hoạch năm sau (mía, mì) đạt 5.820 ha tăng 18,82% so cùng kỳ (trong đó cây mì tăng 19,32%, cây mía giảm 1,72%). Tiến độ gieo trồng vụ mùa năm nay chậm hơn cùng kỳ do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng gay gắt, mưa lớn không đều giữa các huyện, ảnh hưởng đến tiến độ gieo trồng cây hàng năm. Riêng đối với cây mì diện tích xuống giống tăng mạnh do tình hình giá cả hợp lý người trồng có lãi nên tranh thủ thời tiết thuận lợi đầu mùa mưa nên nhiều nơi xuống giống.

- Gieo trồng vụ Đông xuân 2014-2015 và Hè thu 2015:

Tổng diện tích gieo trồng cả 2 vụ được 199.942ha, tăng 2,25% so với cùng kỳ năm 2014, tăng chủ yếu tập trung ở 3 nhóm cây trồng chính như: Lúa 93.523ha chiếm 46,78%, diện tích cây hàng năm của tỉnh, tăng 1,90%; Cây lấy củ có chất bột 58.148ha (+14,38%); cây rau đậu, hoa cây cảnh 18.833ha cũng tăng 14,38% so với cùng kỳ. Các nhóm cây còn lại đều xấp xỉ hoặc giảm so với cùng kỳ, trong đó cây mía giảm nhiều (-22,66%).

-Năng suất- sản lượng một số cây trồng chính 9 tháng như sau:

Cây lúa đạt năng suất 54,08 tạ/ha, tăng 1,60 ta/ha; sản lượng đạt 506.796 tấn, tăng 3,74% so cùng kỳ. Trong thời gian qua với chính sách khuyến khích và hỗ trợ người trồng lúa của tỉnh để thực hiện chủ trương duy trì và sử dụng linh hoạt diện tích đất trồng lúa hiện có, bảm đảm an ninh lương thực và nâng cao hiệu quả cây lúa đang từng bước nâng lên.

Cây ngô năng suất đạt 57,62 tạ/ha, tăng 5,28% so cùng kỳ; sản lượng đạt 22.502 tấn, giảm 5,75% so cùng kỳ. Sản lượng ngô giảm chủ yếu do diện tích giảm (-10,48%).

Cây đậu phộng năng suất đạt 36,38 tạ/ha, tăng 1,90%; sản lượng đạt 17.664 tấn, giảm 15,46% so cùng kỳ, chủ yếu do diện tích giảm 17,22%.

Cây rau các loại năng suất đạt 172 tạ/ha, tăng 3,04 %; diện tích đạt 14.067 ha, tăng 9,53%; sản lượng đạt 241.591 tấn, tăng 12,86% so cùng kỳ.

* Tình hình thu hoạch các loại cây trồng vụ trước (mía, mì):

Sản lượng mì thu hoạch 9 tháng ước đạt 1.868.305 tấn, tăng 16,52%; năng suất đạt 324,31 tạ/ha, tăng 2,10 % so cùng kỳ. Cây mía năng suất ước đạt 734,28 tạ/ha, giảm 3,12%; sản lượng ước đạt 1.046.003tấn, giảm 25,93% so cùng kỳ năm 2014.

-Tình hình sâu bệnh:

Tình hình dịch bệnh trên các loại cây trồng 9 tháng đầu năm, nhìn chung phát sinh chỉ ở mức nhiễm nhẹ, mức hại thấp, ảnh hưởng không đáng kể đến sinh trưởng cây trồng. Trên cây lúa diện tích nhiễm rầy nâu 26.272ha (+57,7%), đạo ôn lá 7.143ha (+25,3%), sâu cuốn lá 4.877ha giảm 5,9% so với cùng kỳ; Cây mì diện tíc hbi5 thối củ 933ha, nhện đỏ 497ha giảm 18,10% so với cùng kỳ; Trên cây rau các loại, hầu hết đềm giảm diện tích nhiễm và ở mức nhiễm nhẹ, một số đối tượng gây hại nổi bật như bệnh thán thư, sâu xanh, rầy mềm...

Công tác kiểm dịch thực vật: trong 9 tháng đã kiểm tra hàng nhập khẩu 1.074 nghìn tấn hàng nông sản các loại tăng 34,3%, và 152 nghìn m3 gỗ xẻ các loại tăng 2,3% so với cùng kỳ, và chưa phát hiện dịch hại, đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm.

b) Chăn nuôi:

Chăn nuôi gia súc, gia cầm 9 tháng trên địa bàn tỉnh, xu hướng phát triển có dấu hiệu chựng lại so cùng kỳ, chủ yếu do yếu tố bên ngoài tác động, như giá bán sản phẩm chăn nuôi giảm trong khi thức ăn không giảm, phần nào ảnh hưởng đến thu nhập của người sản xuất. Ước tính đàn trâu hiện có 21.407con giảm 10,64%, đàn bò 87.604 con giảm 9,22% so cùng kỳ năm trước, do hiện nay không còn đồng trống để chăn thả, các nơi tận dụng mọi quĩ đất để trồng cây nông nghiệp, cũng như việc chăn nuôi hiệu quả kinh tế không cao…, riêng nuôi bò sữa hiện có 3.542con, tăng 32,07%(+860 con) so cùng kỳ; Đàn lợn hiện có 200.462con tăng 1,02% so cùng kỳ, giá thịt heo hơi đang có xu hướng giảm trong những tháng gần đây nên cũng phần nào ảnh hưởng đến tình hình chăn nuôi heo; Đàn gia cầm có xu hướng tăng tập trung nuôi đàn gà công nghiệp, do có một số doanh nghiệp đầu tư vào nuôi gà công nghiệp. Ước tổng đàn gia cầm 9 tháng đạt 5,52 triệu con tăng 5,66% so cùng kỳ năm trước, trong đó riêng đàn gà 4,8 triệu con tăng 8,67%.

Trong 9 tháng đầu năm, đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh không xây ra dịch bệnh nguy hiểm, một số bệnh truyền nhiễm trên gia súc gia cầm chỉ xảy ra lẻ tẻ được phát hiện và điều trị kịp thời. Ngành chức năng đã tăng cường công tác giám sát dịch bệnh, vận động các cơ sở chăn nuôi tập trung heo, gà đăng ký xây dựng cơ sở an toàn dịch bệnh; đẩy mạnh công tác kiểm dịch tại gốc, chủ động tăng cường kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ động vật, sản phẩm động vật, tình hình dịch bệnh trên địa bàn trong 9 tháng không xảy ra.

1.2 Lâm nghiệp:

Giá trị sản xuất lâm nghiệp thực hiện 9T/2015 ước đạt 214 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010), giảm 4,96% so cùng kỳ.

Sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh 9 tháng đầu năm, về điều kiện thời tiết đầu năm nắng hạn kéo dài ảnh hướng đến công tác trồng rừng, đến giữa năm có mưa nên công tác quản lý bảo vệ rừng thuận lợi hơn. Diện tích rừng trồng mới tập trung được 190,60 ha, đạt 60,51% so KH, giảm 50,80% so cùng kỳ; diện tích rừng trồng được chăm sóc 1.634ha đạt 100%KH; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ đạt 51.028ha, tăng 2,94% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác 9 tháng ước đạt 48.620 m3 giảm 4,37% so cùng kỳ;

Công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thường xuyên, ngành chức năng tăng cường đẩy mạnh hoạt động tuần tra, kiểm soát và vận động nhân dân tham gia tích cực công tác bảo vện và chống phá rừng nên diện tích rừng được đầu tư bảo vệ ngày càng tốt hơn. Trong 9 tháng chỉ xảy ra 06 vụ cháy rừng (giảm 06 vụ) với diện tích 10,56 ha giá trị thiệt hại 508 triệu đồng. Công tác phòng ngừa và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực lâm nghiệp cũng được tăng cường, số vụ vi phạm pháp luật bị phát hiện và xử lý trong 9T/2015 là 06 vụ chặt phá rừng, giảm 10 vụ so cùng kỳ, với diện tích rừng bị phá là 3,66 ha, giảm 5,36ha.

1.3 Thủy sản:

Giá trị sản xuất thủy sản ước thực hiện 9T/2015 đạt 276 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010), tăng 4,33% so cùng kỳ năm trước.

Tình hình nuôi trồng, khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh tiếp tục được duy trì và phát triển, tập trung ở các khu vực có nước lòng hồ Dầu Tiếng và vùng cặp sông Vàm Cỏ Đông. Ước sản lượng thủy sản khai thác và nuôi trồng 9T/2015 đạt 15.044 tấn, tăng 6,02%. Trong đó sản lượng cá là 14.636 tấn tăng 6,2%, sản lượng cá các loại tăng mạnh tập trung chủ yếu là mô hình nuôi cá tra xuất khẩu sản lượng tăng 12,29% so cùng kỳ (+800 tấn), tình hình nuôi trồng thuỷ sản hiện nay đang có chiều hướng chựng lại ở các đối tượng nuôi quy mô nhỏ như nuôi cá mè, cá rô đồng có xu hướng giảm. Tuy nhiên hộ nuôi cá tra hợp đồng với doanh nghiệp xuất khẩu năm nay có xu hướng giữ vững và dự báo sẽ tăng trong cuối năm 2015.

2. Sản xuất Công nghiệp:

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 9/2015 tăng 0,98% so với tháng trước, tập trung ở một số ngành: Sản xuất và chế biến thực phẩm tăng 3,67%; CN chế biến chế tạo khác tăng 3,69% ; CN dệt tăng 2,05%; Sản xuất trang phục tăng 12,66%; sản xuất và phân phối điện tăng 1,89%; Ước 9 tháng đầu năm 2015, chỉ số sản xuất công nghiệp so cùng kỳ tăng 14,20% , thấp hơn 1,35 điểm % so chỉ số cùng kỳ năm trước (+15,55%).

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) 9 tháng đầu năm 2015 ước đạt 35.070 tỷ đồng, tăng 14,72% so cùng kỳ năm trước (nhịp độ tăng tương ứng cùng kỳ + 15,66%). Xét theo loại hình kinh tế, Khu vực nhà nước chiếm tỉ trọng thấp nhất (9,55%) tăng chỉ 6,39%; kế đến khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng (39,68%) tăng 11,26%; và khu vực Đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng cao nhất (50,76%) tăng 19,39%, trong đó các khu, cụm công nghiệp chiếm tỉ trọng (43,71%) tăng 37,30% so cùng kỳ.

Xét theo ngành kinh tế, hầu hết các ngành đều tăng trong đó ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng chủ yếu hơn 93%, tăng 14,65%; còn các ngành khác chiếm tỷ trọng thấp như Công nghiệp khai khoáng tăng 28,01%; Sản xuất và phân phối điện, hơi nước tăng 17,64%; Cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải giảm 13,79% so cùng kỳ năm 2014.

Nhìn chung, tình hình sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm nay có tốc độ tăng khá, các ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất lương thực thực phẩm tăng 17,82% (trong đó 03 nhà máy đường chỉ tăng 0,14%); Dệt may tăng 11,89% ; Sơ chế da tăng 19,06%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 2,30% (trong đó nhà máy xi măng Fico tăng 0,12%); sản xuất sản phẩm từ kim loại tăng 39,33%.....; Tuy nhiên so sánh với mức tăng của 6 tháng đầu năm 2015 (+14,25%), thì 9 tháng có mức tăng cao hơn (14,72%), nhưng so với mức tăng của 9 tháng năm 2014 (+15,66%) thì mức này thấp hơn (-0,94%). Nguyên nhân chủ yếu là do có một số doanh nghiệp lớn bắt đầu đi vào hoạt động ổn định từ giữa năm 2014(Cty TNHH Young IL, Cty TNHH Salun, Cty TNHH Brotex....) hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dệt và sơ chế da....nên 9 tháng năm 2014 có mức tăng cao hơn 9 tháng năm nay.

3. Vốn đầu tư phát triển:

Tháng 9/2015, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước thực hiện đạt 188 tỷ đồng, tăng 6,59% so tháng trước. Bao gồm, vốn ngân sách cấp tỉnh ước đạt 90 tỷ đồng, tăng 3,81%; vốn ngân sách cấp huyện đạt 93,6 tỷ đồng, tăng 9,06%; và vốn ngân sách cấp xã ước đạt 4,5 tỷ, tăng 14,05% so với tháng trước.

Trong 9 tháng/2015, vốn đầu tư phát triển trên địa bàn ước đạt 13.927 tỷ đồng, tăng 8,89% so cùng kỳ. Trong đó:

- Khu vực Nhà nước: ước thực hiện 2.084 tỷ đồng, bằng 88,62% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước đạt 1.587 tỷ đồng, tăng 16,27%; vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước ước đạt 257 tỷ đồng, giảm 56,19% so với 9 tháng năm 2014 (chủ yếu do các DNNN đã cổ phần hoá, chuyển loại hình hoạt động).

- Khu vực đầu tư nước ngoài: đạt 504,47 triệu USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ, gồm: Cấp giấy chứng nhận đầu tư mới 11 dự án với vốn đăng ký 423,2 triệu USD, giảm 31,25% về số dự án và tăng 59,7% về vốn đăng ký so với cùng kỳ; 09 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn tăng 81,27 triệu USD, giảm 52,9% về vốn so với cùng kỳ. Tính đến 15/9/2015, trên địa bàn tỉnh Tây Ninh có 232 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với vốn đăng ký là 3.376,7 triệu USD. Trong đó có 188 dự án đi vào hoạt động, 8 dự án đang triển khai xây dựng, 20 dự án chưa xây dựng, 16 dự án dừng hoạt động. Lũy kế vốn thực hiện đạt khoảng 1.580 triệu USD, bằng 46,8% so với vốn đăng ký.

- Khu vực ngoài nhà nước: ước 9T/2015 thực hiện đầu tư 8.236 tỷ đồng, tăng 12,43% so cùng kỳ. Phần lớn tập trung ở vốn của các hộ gia đình đầu tư xây dựng nhà ở dân cư khi giá vật liệu xây dựng trong những tháng đầu năm nay tương đối ổn định so cùng kỳ năm trước (+1,80%), và do đó vốn đầu tư của dân cư ước 9 tháng đạt 6.030 tỷ đồng, tăng 12,14%; vốn của các tổ chức doanh nghiệp đạt 2.205 tỷ đồng, tăng 13,23% so cùng kỳ năm 2014.

4. Hoạt động xây dựng

Giá trị sản xuất xây dựng trên địa bàn tỉnh (theo giá so sánh 2010) 9 tháng ước đạt 5.821 tỷ đồng, tăng 15,19% so cùng kỳ. Trong đó, tăng chủ yếu từ khu vực ngoài nhà nước với giá trị ước đạt 5.746 tỷ đồng, tăng 15,99%, còn khu vực nhà nước chỉ đạt 93 tỷ đồng giảm 23,49% so cùng kỳ năm trước (Có 01 DNNN, chuyển đổi loại hình hoạt động và hiện đang tạm ngưng hoạt động).

Giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng đầu năm trên địa bàn (theo giá hiện hành) ước đạt 7.198 tỷ đồng. Trong đó khu vực ngoài nhà nước, khối các doanh nghiệp đạt 1.271 tỷ đồng, chiếm 17,66%, tăng 0,3%; xã/phường đạt 54 tỷ đồng, giảm 21,71%; riêng hộ dân cư đạt 5.779 tỷ đồng, chiếm 80,29%, tăng 22,43% so cùng kỳ, do giá cả vật liệu xây dựng trong kỳ tương đối ổn định nên người dân tranh thủ đầu tư xây dựng và sửa chữa nhà mới.

Nhìn chung, giá trị sản xuất xây dựng 9 tháng đầu năm nay tăng chủ yếu ở khu vực ngoài nhà nước, mà cụ thể là khu vực dân cư, hộ cá thể; còn phần lớn các doanh nghiệp xây dựng ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh đều có giá trị sản xuất ổn định so cùng kỳ, do hầu hết là các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có quy mô không lớn, sức cạnh tranh thấp hơn so với các doanh nghiệp ngoài tỉnh nên hầu như chỉ nhận hợp đồng các công trình nhỏ, tạo ra giá trị sản xuất không lớn, còn lại các công trình lớn trên địa bàn tỉnh đều do các doanh nghiệp ngoài tỉnh đảm nhận thi công.

5. Giao thông vận tải:

Tháng 9/2015, vận tải hành khách ổn định, với khối lượng hành khách vận chuyển trong tháng ước đạt 1.311 nghìn lượt khách, tăng 0,85%; và khối lượng hành khách luân chuyển đạt 93.279 nghìn lượt khách.km, tăng 0,75% so tháng trước, Vận tải hàng hóa trong tháng ước đạt 1.020 nghìn tấn tăng 0,79% so tháng trước trước, và luân chuyển được 71.630 nghìn tấn.km, cũng tăng 0,63% so tháng 8/2015.

Chín tháng đầu năm, mặc dù giá xăng dầu nhiền lần được điều chỉnh giảm, và cũng có lần điều chỉnh tăng, nhưng tình hình giao thông vận tải 9 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh vẫn khá ổn định. Doanh thu vận tải HH-HK, bốc xếp, dịch vụ, đại lý vận tải ước đạt 1.703 tỷ đồng, tăng 7,74% so cùng kỳ; bao gồm vận tải đường bộ 1.696 tỷ đồng (+ 7,76%) và vận tải đường sông đạt 7,3 tỷ đồng (+ 3,57%); Doanh thu chủ yếu tập trung ở khu vực vận chuyển đường bộ (chiếm 99,57% tổng số).

Sản lượng vận chuyển hành khách 9 tháng ước đạt 11.809 ngàn lượt HK tăng 6,98%, luân chuyển đạt 837.193 ngàn HK.km tăng 7,92% so cùng kỳ. Sản lượng vận chuyển hàng hoá đạt 9.107 ngàn tấn tăng 5,29% và luân chuyển hàng hoá đạt 648.889 ngàn Tấn.km tăng 6,11% so cùng kỳ năm trước.

6. Bưu chính, viễn thông:

Số thuê bao điện thoại toàn tỉnh ước tính đến cuối tháng 9/2015 đạt 1.593 ngàn thuê bao, tăng 15,95% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó: có 60.668 thuê bao cố định ( tiếp tục giảm 5,87%) và 1.533 ngàn thuê bao di động, tăng 17,02% so cùng kỳ. Số lượng thuê bao điện thoại cố định ngày càng giảm do giá cước di động ngày càng rẻ, các tiện ích ngày càng được nâng cao, tiện lợi trong quá trình di chuyển, … ; việc sụt giảm sản lượng thuê bao điện thoại cố định phù hợp với xu hướng chuyển hóa từ cố định sang di động; tuy vậy, số lượng thuê bao điện thoại di động sau một thời gian dài giảm do các doanh nghiệp viễn thông trên địa bàn thực hiện quản lý chặt chẽ hơn nên số lượng thuê bao di động trả trước ảo giảm mạnh, nay đã ổn định và tăng trở lại, (+17,02% so cùng kỳ). Số thuê bao internet trên địa bàn tỉnh tính đến cuối tháng 9/2015 ước đạt gần 79,8 ngàn thuê bao, tăng 44,84% so với cùng thời điểm năm trước.

Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông chín tháng đầu năm nay ước tính đạt 841 tỷ đồng, tăng 17,17% so cùng kỳ; bao gồm doanh thu bưu chính đạt 16,9tỷ đồng (+20,68%) và doanh thu viễn thông đạt 824 tỷ đồng, tăng 17,10% so cùng kỳ.

7. Thương mại - Xuất nhập khẩu:

a) Thương mại:

Tháng 9/2015, tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước đạt 4.779 tỷ đồng, tăng 1,48% so tháng trước. Bao gồm: kinh tế nhà nước đạt 355 tỷ đồng, giảm 1,96%; kinh tế ngoài nhà nước 4.418 tỷ đồng, tăng 1,77% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 6,1 tỷ đồng, bằng 99,63% so tháng trước. Xét theo ngành kinh tế, thương nghiệp đạt 3.744 tỷ đồng, tăng 1,47%; khách sạn, nhà hàng đạt 581 tỷ đồng, tăng 1,42%; du lịch lữ hành 1,4 tỷ đồng, bằng 57,59% và ngành dịch vụ (có doanh thu của hoạt động xổ số) đạt 452 tỷ đồng, tăng 1,92% so tháng trước.

Cộng dồn 9 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn tỉnh đạt 40.907 tỷ đồng, tăng 10,18% so cùng kỳ, nếu loại trừ yếu tố giá thì tổng mức tăng khoảng 10%. Trong tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng đầu năm, kinh doanh thương nghiệp đạt 31.450 tỷ đồng, tăng 10,26%; khách sạn,nhà hàng đạt 5.186 tỷ đồng, tăng 9,76%; du lịch lữ hành đạt 15,26 tỷ đồng, giảm 9,39%; và dịch vụ đạt 4.254 tỷ đồng, cũng tăng 10,22% so 9T/2014.

b) Xuất Nhập khẩu:

+ Xuất khẩu:

Tháng 9, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 258 triệu USD, tăng 2,46% so tháng trước. Trong đó, kinh tế có vốn ĐTNN xuất 212 triệu USD, tăng 2,22%; kinh tế tư nhân đạt 43 triệu USD, tăng 3,7%; kinh tế nhà nước đạt 1,8 triệu USD tăng 0,7% so tháng trước. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn của tỉnh đều có kim ngạch xuất khẩu trong tháng tăng như: hàng dệt may đạt 73 triệu USD (+ 3,62%), giày dép các loại đạt 42,2 triệu USD (+ 3,41%), cao su đạt 27,7 triệu USD (+ 3,85%), hạt điều đạt 12,2 triệu USD (+ 2,99%), Sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 10,3 triệu USD, cũng tăng 2,05% so với tháng trước.

9 tháng năm 2015, xuất khẩu đạt 1.895 triệu USD, tăng 25,41% so cùng kỳ. Trong đó tăng chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, ước đạt 1.544 triệu USD, tăng 29,19%; khu vực kinh tế tư nhân 333 triệu USD tăng 13,31%, kinh tế Nhà nước 17,1 triệu USD giảm (-19,14%) so cùng kỳ.

Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh như: Hàng dệt may đạt 504 triệu USD (+9,09%), giày dép 366 triệu USD (+10,89%), hạt điều nhân 85,6 triệu USD (+19,55%), sắn và các sản phẩm từ sắn 82,2 triệu USD (+6,97%). Riêng cao su ước đạt 180 triệu tăng 55,11% về giá trị và cũng tăng 82,36% về lượng so cùng kỳ.

+ Nhập khẩu:

Tháng 9, kim ngạch nhập khẩu trên địa bàn tỉnh đạt 193 triệu USD, tăng 5,51% so tháng trước. Tất cả các thành phần kinh tế đều tăng nhập khẩu so tháng trước, trong đó kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 179 triệu USD, tăng 5,52%; kinh tế tư nhân nhập 13 triệu USD, cũng tăng 5,57% so tháng 8/2015. Một số mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tháng như vải may mặc 49,7 triệu USD tăng (+5,87%), nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 29,3 triệu USD (+5,88%) tiếp theo là máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 18,1 triệu USD (+4,22%), bông các loại ước đạt 13,6 triệu USD (+1,08%), và so với tháng trước.

9 tháng đầu năm, nhập khẩu đạt 1.318 triệu USD, tăng 29,47% so cùng kỳ năm trước. Mặt hàng nhập khẩu trong kỳ của tỉnh chủ yếu là nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất và gia công hàng xuất khẩu, đó là: vải may mặc đạt 255 triệu USD, tăng 35,34%; phụ liệu dệt, may, da giày đạt 176 triệu USD, tăng 47,83%; Xơ sợi dệt các loại đạt 48 triệu USD, tăng 56,16%. Máy móc, thiết bị, và dụng cụ phụ tùng nhập khẩu của các đơn vị trong 9 tháng đầu năm nay cũng có mức tăng khá, với kim ngạch ước đạt 130,8 triệu USD, tăng 46,13% so cùng kỳ năm trước.

Nhìn chung tình hình xuất nhập khẩu 9 tháng đầu năm 2015 trên địa bàn tỉnh tương đối phát triển. Các doanh nghiệp có nhiều đơn hàng hơn, và tìm được hiều khách hàng mới với nhiều thị trường tiềm năng, đa dạng hoá thị trường xuất nhập khẩu, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế cũng như duy trì sự tăng trưởng ổn định của kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh nhà.

8. Chỉ số giá

a) Giá tiêu dùng

Trong tháng này tính đến ngày 17/9 giá xăng dầu các loại liên tục được điều chỉnh giảm với tổng các lần giảm từ 550 đồng/lít đến 1.970 đồng/lít tuỳ từng loại, đây là mặt hàng thiết yếu tham gia vào hầu hết quá trình sản xuất và kinh doanh nên việc giảm giá xăng dầu ít nhiều cũng đã ảnh hưởng làm cho giá cả một số hàng hóa, dich vụ giảm xuống. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2015 giảm 0,33% so với tháng trước, giảm 0,16 % so với cùng tháng năm trước nhưng tăng 0,22% so với tháng 12 năm. Giá bán các mặt hàng, nhóm hàng trong tháng biến động, cụ thể như sau:

Nhóm lương thực giảm 0,27%, chủ yếu do giá một số mặt hàng như ngô hạt giảm 5,43%, khoai lang giảm 4,13% … so với tháng trước nguyên nhân do giá ngô nhập khẩu từ Campuchia và các nước khác nhập vào giảm làm cho giá ngô hạt trong nước cũng giảm xuống, giá khoai lang giảm do lượng cung khoai lang tăng đã làm cho giá bán mặt hàng này giảm xuống.

Chỉ số nhóm thực phẩm tháng này giảm 0,22% trong đó các mặt hàng thuộc nhóm gia súc giảm 0,24%, gia cầm giảm 1,17% nguyên nhân do tháng chín năm nay là tháng 7 âm lịch, theo phong tục tập quán của nhiều người dân là tháng ăn chay nên đã làm cho các mặt hàng thuộc nhóm gia súc gia cầm tươi sống giảm xuống.

Nhóm rau tươi, khô và chế biến giảm 1,21%, trong đó một số mặt hàng có chỉ số giảm như: Cà chua giảm 4,32%, bí xanh tăng 6,56%, dưa chuột giảm 7,83%, rau cải xanh giảm 8,01%... so với tháng trước nguyên nhân do thời tiết khí hậu mát mẽ thuân lợi cho việc trồng rau tươi đạt năng suất cao mặt khác do chi phí vận chuyển giảm rau tươi từ các tỉnh khác về Tây Ninh giảm((giá xăng dầu giảm) cũng là nguyên nhân làm cho giá rau tươi các loại giảm xuống.

Nhóm quả tươi và chế biến tăng 1,06% so với tháng trước do tính chất mùa vụ một số trái cây đã hết vụ thu hoạch rộ và một số do thị trường xuất khẩu được mở rộng, nhu cầu xuất khẩu tăng đã làm cho giá bán một số mặt hàng trong nhóm này tăng lên so với tháng trước.

Chỉ số giá các mặt hàng, nhóm hàng phi lương thực, thực phẩm biến động cụ thể như sau: Nhóm may mặc mũ nón, giày dép tăng 0,31%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,34%, trong đó giá gas giảm 3,31% và giá dầu hoả giảm 9,01% so với tháng trước; nhóm giao thông giảm 3,79%, trong đó giá xăng dầu các loại giảm 8,25% so với tháng trước; nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,43%, trong đó đồ trang sức tăng 2,22% nguyên nhân do giá vàng nguyên liệu tăng. Các nhóm còn lại tương đối ổn định so với tháng trước.

Giá vàng và đô la Mỹ: Do ảnh hưởng của giá vàng, giá Đô la Mỹ trên thị trường thế giới, giá vàng bình quân tháng 9/2015 là 3.386.000 đồng/chỉ, tăng 52.000đ/chỉ (+1,56%); giá Đô la Mỹ tháng này là 22.465 đ/USD, tăng 380 đồng/USD (+1,72%) như vậy giá vàng và giá Đô là Mỹ tháng này cùng tăng so với tháng 8/2015.

9. Thu chi ngân sách:

a) Thu ngân sách:

Ước tổng thu ngân sách trên địa bàn tháng 9/2015 đạt 432 tỷ đồng, cộng dồn 9 tháng được 4.427 tỷ đồng, đạt 81,98% dự toán năm, tăng 12,50% so cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa 2.565tỷ đồng, đạt 73,3% dự toán, tăng 10,94% so cùng kỳ năm trước.

Nhìn chung, tình hình thu ngân sách trong 9 tháng đầu năm nay đạt khá so với dự toán cũng như so cùng kỳ, trong đó khoản thu nội địa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nguồn thu đạt khá tăng 10,94% so với cùng kỳ. Trong đó có một số khoản đạt khá như: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 168 tỷ, tăng 17,01%; lệ phí trước bạ tăng 38,59%; Thuế bảo vệ môi trường tăng 108,50% so cùng kỳ. Cũng có khoản thu đạt thấp như thu từ DN nhà nước 349 tỷ, bằng 55,52% dự toán năm, giảm 12,88% so với cùng kỳ; và thu tiền sử dụng đất cũng chỉ bằng 72,51% so cùng kỳ.

Tác động đến kết quả thu ngân sách 9 tháng đầu năm khá tích cực nhờ những nguyên nhân như: Tình hình kinh tế của tỉnh có dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên các mặt hàng chủ lực củ tỉnh như: mủ cao su, bội mì, đường mía vẫn đang ở mức thấp. Một số chính sách thuế được sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 như: Thông tư 26/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính các loại phân bón, thức ăn gia súc được miễn thuế GTGT và giảm thuế TNDN do bổ sung đối tượng được hưởng ưu đãi thuế TNDN trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn; Thực hiện Nghị quyết 888a/2015/UBTVQH13, ngày 01/5/2015 thực hiện thu thế Bảo vệ môi trường theo mức mới gấp 03 lần so với trước đây từ ngày 01/5/2015....

b) Chi ngân sách:

Chi ngân sách ước tháng 9/2015 đạt 524 tỷ đồng, nâng mức chi 9 tháng đầu năm đạt 4.269 tỷ đồng, đạt 68,81% dự toán, tăng 1,85% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi thường xuyên đạt 2.895 tỷ đồng, bằng 73,84% dự toán năm tăng 5,21% so cùng kỳ; chi đầu tư phát triển 608 tỷ đồng, bằng 75,05% DT, tăng 74,95% so cùng kỳ; Chi đầu tư từ nguồn thu xổ số kiến thiết đạt 691 tỷ đồng, bằng 79,42% so cùng kỳ năm trước.

10. Hoạt động ngân hàng:

Hoạt động của hệ thống ngân hàng trong 09 tháng đầu năm 2015 tương đối ổn định và phát triển. Tổng nguồn vốn huy động ước đến cuối tháng 9/2015 ước đạt 27.010 tỷ đồng, tăng 1,5% so tháng trước và tăng 10,38% so cuối tháng 12 năm 2014. Trong đó vốn huy động ngắn hạn (dưới 12 tháng) là chủ yếu, đạt 18.190 tỷ đồng (Chiếm 67,35%) tăng 1,47% so tháng trước; Vốn huy động trung và dài hạn đạt 8.820 tỷ đồng tăng 1,56% so tháng trước; Nguồn vốn huy động chủ yếu từ tiền gửi trong dân cư đạt 21.149 tỉ đồng chiếm 78,3% trong tổng số tăng 1,16% so với tháng trước; tiền gửi của các tổ chức kinh tế ước đạt 5.639 tỷ đồng, tăng 1,2% so tháng trước;

Hoạt động cho vay: Tổng dư nợ tín dụng đến cuối tháng 9 ước đạt 25.937 tỷ đồng, tăng 1,8% so tháng trước, so với đầu năm tăng 12,03%. Trong đó dư nợ ngắn hạn 16.599 tỷ chiếm 63,99% tổng số. Nợ xấu 197 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 0,76% so với tổng dư nợ giảm (-0,06%) so với tháng trước.

11. Tình hình văn xã:

a) Đời sống, lao động, giải quyết việc làm:

9 tháng đầu năm 2015, giá cả của nhiều mặt hàng tiêu dùng ổn định hoặc có tăng nhưng vẫn ở mức hợp lý, nhưng giá các mặt hàng nông sản nhìn chung đều giảm so với cùng kỳ năm trước, riêng củ mì, tuy có tăng song vẫn ở mức thấp, mặt khác vật tư nguyên liệu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp đều tăng đã làm cho thu nhập một bộ phận dân cư giảm xuống. Tuy nhiên đời sống nông dân nhìn chung vẫn ổn định; bên cạnh đó, với sự nỗ lực của các cấp uỷ, các cấp chính quyền địa phương, kinh tế-xã hội của tỉnh tiếp tục đạt được những kết quả tích cực, đời sống của đại bộ phận nhân dân được dần nâng lên, không xảy ra thiếu đói giáp hạt trên địa bàn tỉnh. Tình hình xoá đói giảm nghèo được các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể thường xuyên quan tâm đúng mức bằng các hình thức giúp đỡ những hộ gia đình gặp khó khăn trong cuộc sống vươn lên thoát nghèo như hỗ trợ vốn sản xuất, giải quyết việc làm.

Các chính sách hỗ trợ người nghèo cho vay vốn ưu đãi, vẫn được duy trì tạo điều kiện cho các hộ nghèo và hộ cận nghèo vay vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội, với tổng số dư nợ đến nay là: 1.529,2 tỷ đồng, trong đó hộ nghèo vay 297 tỷ đồng, để sản xuất kinh doanh, tạo việc làm ổn định cho các hộ nghèo, bình quân mỗi hộ được vay 1 lượt mức vay cao nhất là 50 triệu đồng, chủ yếu để trồng trọt và chăn nuôi, và kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ. Đồng thời triển khai các chính sách vay vốn đối với học sinh, sinh viên, dạy nghề được tiến hành đúng đối tượng, kịp thời, đến nay tổng dư nợ cho đối tượng này 336 tỷ đồng.

Trong 9 tháng, thông qua các phiên giao dịch việc làm của tỉnh đã tư vấn việc làm và học nghề cho 11.056 lao động; giới thiệu cung ứng lao động trong nước cho 1.932 lao động. Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm đã cho vay 384 dự án với số tiền 19.752 triệu đồng, tạo điều kiện việc làm cho 3.373 lao động; các tổ chức đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng giải quyết được 148 lao động.

Cấp mới và cấp lại giấy phép lao động cho 1.296 lao động là người nước ngoài làm việc tại tỉnh. Tỉnh đã chấp thuận cho 140 doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng 1.687 lao động là người nước ngoài.Tính đến đầu tháng 9/2015, trên địa bàn tỉnh có 2.010 lao động là người nước ngoài. Trong đó, lao động đã được cấp giấy phép 1.296 người; lao động đang làm thủ tục cấp phép là 612 người; số lao động không thuộc diện cấp phép 102 người, chiếm tỷ lệ 5,07%.

Công tác dạy nghề: 9 tháng thực hiện đào tạo mới cho 16.518 người, đạt 76,83% so kế hoạch năm (21.500 người). Trong đó, trình độ sơ cấp nghề:10.493 người, dạy nghề dưới 3 tháng: 3.984 người .Trong đó, đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn thực hiện 125 lớp, 3.945 học viên; số người học xong được cấp chứng chỉ nghề 1.808; số người có việc làm: 1.362 đạt tỷ lệ 75,33% (1.362/1.808 người).

Từ đầu năm đến nay xảy ra 11 vụ ngừng việc tập thể. Trong đó, do tranh chấp lao động 09 vụ tại 09 công ty với 7.157 lao động tham gia, do nguyên nhân khác 02 vụ tại 02 công ty (không nhất trí Điều 60 của Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực từ 01/01/2016, với 21.400 lao động tham gia). Nguyên nhân các vụ đình công do tranh chấp về thay đổi quy trình sản xuất làm giảm tiền lương, thay đổi định mức, thay đổi nội quy, công ty yêu cầu công nhân đền trước giờ làm việc 5 phút, mâu thuẩn nội bộ... Tất cả các vụ tranh chấp lao động được các ngành chức năng tỉnh, huyện kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp hòa giải giúp ổn định sản xuất, tránh không để xảy ra điểm nóng.

b) Hoạt động y tế:

9 tháng đầu năm 2015, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 493 ca sốt xuất huyết giảm 14,55% so với cùng kỳ (không có tử vong); tay chân miệng có 563 ca (01 ca tử vong ở huyện Dương Minh Châu), giảm 53,12% so với cùng kỳ; cúm có 1.286 ca bằng 99,54% so cùng kỳ,(không có ca tử vong); tiêu chảy 1.728 ca tăng 14,13% so cùng kỳ; Không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn tỉnh. Các đơn vị dự phòng trong ngành y tế tích cực công tác giám sát bệnh dịch và chế độ báo cáo dịch theo đúng quy định, đảm bảo đầy đủ thuốc men, hóa chất, vật tư phục vụ công tác phòng chống và khi có dịch xảy ra đáp ứng kịp thời.

Bệnh HIV/AIDS: 9 tháng đầu năm phát hiện mới 269 ca HIV tăng 9,35% so cùng kỳ, 244 ca mới chuyển sang AIDS; lũy tích có 3.943 ca HIV (nữ 1.252 ca), trong đó 2.834 ca chuyển sang giai đoạn AIDS (nữ 845 ca) và có 1.320 người tử vong do AIDS.

Chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm: Công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm được thực hiện thường xuyên, 9 tháng đầu năm 2015 đã tiến hành kiểm tra 3.497 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ăn uống …, kết quả có 2.690 cơ sở đạt tiêu chuẩn vệ sinh (đạt tỷ lệ 76,92%). Ngộ độc thực phẩm xảy ra 02 vụ, số người mắc là 161 người (không có người tử vong) tại công ty OCEAN SKY ở đường số 4 Linh Trung III, xã An Tịnh, huyện Trảng Bàng (12 người), đang chờ kết quả xét nghiệm, do ăn thức ăn của bếp ăn tập thể của Doanh nghiệp tư nhân cung cấp suất ăn công nghiệp Định Thảo; Tại công ty may mặc LANGHAM, khu công nghiệp huyện Trảng Bàng do thức ăn bị nhiễm vi sinh vật (149 người).

c) Giáo dục và đào tạo:

Giáo dục: năm học 2015-2016, toàn tỉnh có 131 trường mầm non (122 trường công lập, 09 trường tư thục), tăng 04 trường so với năm học trước; 262 trường tiểu học; 107 trường trung học cơ sở/ 3.341 lớp(tăng 24 lớp so với đầu năm học 2014-2015); 32 trường THPT/629 lớp.

Tổng số học sinh, sinh viên là 217.149 học sinh, sinh viên, chia ra: nhà trẻ: 2.356, mẫu giáo: 30.855; tiểu học: 96.934; trung học cơ sở: 62.374; trung học phổ thông: 24.630 học sinh.

Tính đến nay, có 9/9 huyện, thành phố, và 95/95 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi; 9/9 huyện, thành phố (95/95 xã, phường, thị trấn) đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở; và 24/95 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học.

Tổng số trường đạt chuẩn quốc gia tính đến tháng 09/2015 là 116/532 trường, trong đó có 22/131 trường mầm non (có 01 trường MN đạt chuẩn quốc gia mức độ 2), 55/262 trường tiểu học (trong đó có 02 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ 2), 33/107 trường THCS và 6/32 trường THPT.

Đào tạo: Toàn tỉnh hiện có 01 trường cao đẳng sư phạm và 03 trung cấp chuyên nghiệp (trong đó có 01 trường tư thục) với 2.300 học sinh - sinh viên (chính quy: 1.407 HSSV, trong đó hệ cao đẳng 792, trung cấp 615; liên kết đào tạo: 893). Số HSSV tuyển mới: các trường TCCN đang tổ chức tuyển sinh, Trường CĐSP Tây Ninh tuyển được 357/360 chỉ tiêu.

d) An toàn giao thông:

Trong 9 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh đã xãy ra 146 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 59 người và bị thương 163 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn nghiêm trọng và rất nghiêm trọng giảm 31 vụ, số người bị chết giảm 32 người, và số người bị thương giảm 14 người; Nguyên nhân chủ yếu của các vụ tai nạn là do người điều khiển xe không đúng phần đường, chuyển hướng tránh vượt không quan sát và sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông.Tai nạn giao thông đường thuỷ trong 9 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh không xảy ra.

e) Hoạt động văn hoá:

Trong 9 tháng năm 2015, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tập trung tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao tuyên truyền thực hiện các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ lớn: Mừng Xuân Ất Mùi, kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2), 56 năm Ngày truyền thống Bộ đội Biên phòng (03/3), Ngày quốc tế Phụ nữ (08/3), Ngày Quốc tế hạnh phúc (20/3), Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3), Ngày Thể thao Việt Nam (27/3), Ngày Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch), 40 năm Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2015), Ngày Quốc tế lao động (1/5), Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954-07/5/2015), 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2015), Ngày Quốc tế thiếu nhi (1/6), 70 năm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 02/9, Đại hội thi đua yêu nước, Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Tuyên truyền về Biên giới và Biển đảo Việt Nam, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, An toàn giao thông, phòng cháy chữa cháy, an toàn vệ sinh thực phẩm, Chương trình mục tiêu quốc gia về Nông thôn mới…

Ngành đã thực hiện 2.493 lượt băng rôn, 378m2 panô, 115 cuộc xe loa, 3.730 cờ các loại, 186 buổi văn nghệ và các hình thức tuyên truyền khác, thông qua đó tuyên truyền thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Hoạt động Bảo tồn - Bảo tàng: Tổ chức trưng bày, triển lãm tranh ảnh, bản đồ tại chỗ và triển lãm lưu động với các chuyên đề kỷ niệm các sự kiện, các ngày lễ lớn, đón được 17.391 lượt người xem. Tổ chức thi tìm hiểu di tích lịch sử-văn hóa với 06 chủ đề, với 26.783 thư tham gia. Tổ chức tuyên truyền di tích lịch sử văn hóa tại một số trường THPT trên địa bàn tỉnh với 5.193 cán bộ, giáo viên và học sinh tham dự. Kiểm tra việc quản lý, phát huy giá trị di tích. Lập phiếu hiện vật, danh mục hiện vật sưu tầm; lập 830 phiếu kiểm kê khoa học, 300 phiếu ảnh tư liệu. Nhập phần mềm hiện vật 155 phiếu; kiểm kê và chỉnh lý sơ bộ 1.117 hiện vật sưu tầm mới... Kiểm tra việc quản lý và phát huy giá trị các di tích: Tua Hai, tháp cổ Bình Thạnh, Chót Mạt, Gò Cổ Lâm.

Hệ thống thư viện công cộng thực hiện bổ sung sách báo, tài liệu đảm bảo thường xuyên mở cửa phục vụ bạn đọc; tổ chức các đợt trưng bày, giới thiệu sách báo chuyên đề. Thư viện tỉnh bổ sung 7.041 bản/2.767 tên sách, phục vụ được 85.540 lượt bạn đọc với 83.571 lượt sách, báo, tài liệu; phối hợp với Hội Nhà báo tỉnh tổ chức Hội Báo Xuân; triển khai thực hiện Kế hoạch đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong hệ thống thư viện công cộng; tham gia Liên hoan tuyên truyền giới thiệu sách Khu vực Miền Đông Nam bộ; tổ chức Hội thi Thiếu nhi kể chuyện theo sách năm 2015.

Công tác quản lý, thanh, kiểm tra chấn chỉnh các hoạt động văn hoá, thể thao, du lịch trên phạm vi toàn tỉnh được tăng cường. Trong 9 tháng đầu năm, Đội kiểm tra liên ngành lĩnh vực Văn hóa của tỉnh tổ chức 15 lượt kiểm tra đối với 37 cơ sở, lập 10 biên bản vi phạm hành chính, nhắc nhở tại chỗ 30 cơ sở, ban hành 7 quyết định xử phạt vi phạm hành chính (với số tiền phạt 25,5 triệu.đ); kiểm tra hoạt động quảng cáo, biểu diễn nghệ thuật, tổ chức lễ hội, quản lý, kinh doanh hoạt động hồ bơi, trò chơi giải trí trên địa bàn tỉnh với 46 lượt kiểm tra tại 75 cơ sở; lập 36 biên bản kiểm tra hành chính, ra 11 quyết định xử phạt vi phạm hành chính (số tiền phạt: 11,5 tr.đ).

f) Hoạt động thể dục thể thao:

Thể thao quần chúng: Tuyên truyền vận động quần chúng tham gia tập luyện thể dục thể thao; tiếp tục kêu gọi xã hội hóa các hoạt động thể thao. Duy trì, phát triển hoạt động các loại loại hình hoạt động các CLB, liên đoàn thể dục thể thao. Tuyển chọn bổ sung vận động viên; cử các đội thể thao tham gia toàn quốc và khu vực. Tổ chức giải Thể dục dưỡng sinh miền Nam mở rộng, giải vô địch Bóng bàn năng khiếu, Thể dục dưỡng sinh, Bóng đá tại Trung tâm Thi đấu thể thao tỉnh. Tổ chức thành công các giải thể thao vô địch tỉnh như: Cờ tướng, Võ Cổ truyền, Billards, Cờ vua, Cầu lông, Bóng bàn. Tổ chức các giải thể thao phong trào ngành công an, ngân hàng, giáo dục đào tạo, lực lựong vũ trang…; tổ chức Lễ phát động Ngày chạy Olympic.

Công tác đào tạo-huấn luyện: thực hiện đào tạo-huấn luyện 168 vận động viên của các môn: Bóng đá, Bóng bàn, Bóng chuyền, Bơi, Lặn…; cử 59 lượt các đoàn vận động viên tập huấn và thi đấu tại các giải thể thao quốc gia, khu vực, miền, cụm, mở rộng với 517 vận động viên tham dự. Kết quả thi đấu: Tổng số huy chương của các đội thể thao thi đấu đạt được: 201 huy chương các loại (39 HCV - 70 HCB - 92 HCĐ).

g) Thiệt hại thiên tai:

Trong 9 tháng đầu năm 2015, trên địa bàn tỉnh đã xảy nắng nóng kéo dài và mưa lớn kèm theo lốc xoáy, làm bị thương 03 người (không có người chết), sập đổ 19 căn nhà, nhà ở tốc mái hư hại 396 căn. Do nắng nóng kéo dài cũng làm 28,4ha lúa gieo xạ bị hư, hỏng, trong đó có 7ha mất trắng. Ngoài ra mưa lốc xoáy làm thiệt hại 84,75ha diện tích hoa màu, 75,88ha cây công nghiệp … ước tổng thiệt hại 8,49 tỷ đồng.

h) Trật tự an toàn xã hội và Vi phạm môi trường:

Trong 9 tháng đầu năm xảy ra 05 vụ cháy (TP. Tây Ninh 01 vụ, Tân Châu 01 vụ, Gò Dầu 01 vụ, và Châu Thành 02 vụ), không thiệt hại về người, ước thiệt hại về tài sản do cháy khoảng 31,5 tỷ đồng; Nguyên nhân chủ yếu của các vụ cháy là do sự cố điện.

Số vụ vi phạm môi trường đã phát hiện và đã xử lý 73 vụ, với số tiền phạt là 6,44 tỷ đồng, xảy ra ở công ty và các doanh nghiệp tư nhân các huyện, thành phố (thành phố Tây Ninh 04 vụ, Tân Biên 04 vụ, Tân Châu 05 vụ, Châu Thành 03 vụ, Hòa Thành 02 vụ, Trảng Bàng 54 vụ và Dương Minh Châu 01 vụ); so với cùng kỳ năm trước số vụ vi phạm môi trường được phát hiện tăng (+53 vụ). Nguyên nhân chủ yếu do công ty, doanh nghiệp xả nước thải vượt quy chuẩn ra môi trường./.


Cục Thông kê tỉnh Tây Ninh

    Tổng số lượt xem: 2439
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)