I. CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ:
1. Tăng trưởng kinh tế:
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2018 (theo giá so sánh 2010) ước đạt 17.948,95 tỷ đồng, tăng 5,68% so cùng kỳ. Trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 4.668,67 tỷ đồng, tăng 11,68% so cùng kỳ; khu vực công nghiệp, xây dựng ước đạt 5.676,09 tỷ đồng, tăng 0,95% so cùng kỳ; khu vực dịch vụ ước đạt 6.908,64 tỷ đồng, tăng 5,91% so cùng kỳ; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước đạt 695,55 tỷ đồng, tăng 5,60% so cùng kỳ.
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2018 (theo giá hiện hành) ước đạt 24.042,68 tỷ đồng; trong đó: khu vực ngư, nông, lâm nghiệp ước đạt 6.983,36 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 29,05%; khu vực công nghiệp, xây dựng ước đạt 6.438,24 tỷ đồng, chiếm 26,78%; khu vực dịch vụ ước đạt 9.689,39 tỷ đồng, chiếm 40,30%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước đạt 931,69 tỷ đồng, chiếm 3,88%.
2. Ngư, nông, lâm nghiệp:
2.1. Thủy sản:
Sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác tháng 6/2018 ước đạt 45,11 nghìn tấn; trong đó: tôm 16,06 nghìn tấn. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2018 sản lượng thủy sản ước đạt 275,11 nghìn tấn, đạt 49,84% kế hoạch, tăng 8,87% so cùng kỳ; trong đó: tôm 87,51 nghìn tấn, tăng 11,79% so cùng kỳ.
Về nuôi trồng thủy sản:
Trong 6 tháng đầu năm 2018 toàn tỉnh đã thả nuôi được 297.739 ha thủy sản các loại, giảm 0,69% so cùng kỳ; trong đó: diện tích nuôi tôm 280.379 ha, giảm 0,2% so cùng kỳ (diện tích nuôi tôm siêu thâm canh/nuôi trải bạt là 1.717 ha). Diện tích nuôi trồng thủy sản giảm, nguyên nhân là do trước đây một số hộ dân ở Ngọc Hiển tự ý nuôi nghêu trên diện tích của xã quản lý đến nay những hộ dân này bị cấm và không được phép nuôi nghêu. Ngoài ra, diện tích giảm do trước đây một số hộ dân nuôi cá nước ngọt dưới tán rừng tràm đến nay người dân chuyển diện tích trồng rừng tràm sang trồng keo lai, diện tích mặt nước dưới tán rừng keo lai không thể nuôi cá được do keo lai có nhiều chất mũ các loại cá nước ngọt không sống được; từ đó, diện tích nuôi trồng thủy sản giảm so cùng kỳ.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 6/2018 ước đạt 27,21 nghìn tấn; trong đó: tôm 14,86 nghìn tấn. Lũy kế 6 tháng năm 2018 sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 167,71 nghìn tấn, đạt 47,92% kế hoạch, tăng 10,34% so cùng kỳ; trong đó: tôm 80,46 nghìn tấn, tăng 12,85% so cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng thủy sản 6 tháng đầu năm 2018 tăng so cùng kỳ chủ yếu do mô hình nuôi tôm siêu thâm canh (nuôi trải bạt) phát triển mạnh. Ngoài ra, do thời tiết thuận lợi, môi trường thích hợp cho thủy sản phát triển. Bên cạnh đó, một số hộ dân đã tận dụng diện tích nuôi tôm sú thả nuôi xen các loại sò huyết, cá,.... dẫn đến sản lượng tăng so cùng kỳ.
Về khai thác thủy sản:
Tổng số tàu thuyền khai thác biển có động cơ 6 tháng đầu năm 2018 là 5.545 chiếc, giảm 2,05% so cùng kỳ. Khai thác chủ yếu tập trung các nghề như: lưới kéo đơn, lưới rê tầng mặt, lưới rê tầng đáy, vây ngày, câu tay cá, câu mực,… Số lượng tàu, thuyền giảm là do một số phương tiện có công suất nhỏ dưới 20 CV không có đăng ký nên không được phép ra khơi khai thác.
Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng 6/2018 ước đạt 17,90 nghìn tấn; trong đó: tôm 1,20 nghìn tấn. Tổng sản lượng khai thác thủy sản 6 tháng đầu năm 2018 ước đạt 107,40 nghìn tấn, đạt 53,17% kế hoạch, tăng 6,65% so cùng kỳ; trong đó: tôm 7,05 nghìn tấn, tăng 1,0% so cùng kỳ. Sản lượng khai thác tăng là do một số phương tiện có công suất nhỏ khai thác không hiệu quả nên những phương tiện này thay đổi máy có công suất lớn để khai thác. Hơn nữa; từ đầu năm đến nay thời tiết thuận lợi ít có sóng to, gió lớn nên các phương tiện khai thác được nhiều ngày trong một chuyến đi nên sản lượng tăng so cùng kỳ.
2.2. Nông nghiệp:
2.2.1. Trồng trọt:
Làm đất và xuống giống:
- Làm đất: để đáp ứng kịp thời cho việc gieo trồng lúa vụ hè thu năm 2018 đạt kết quả tốt, người dân các huyện, thành phố có sản xuất lúa hè thu đã chủ động trong khâu cày ải đất để kịp thời xuống giống lúa, đến nay diện tích đất đã cày ải được 36.943 ha, tăng 0,99% so cùng kỳ. Trong đó: thành phố Cà Mau 2.600 ha; huyện Thới Bình 950 ha; huyện Trần Văn Thời 28.621 ha và huyện U Minh 4.772 ha. Nhìn chung, tiến độ làm đất đảm bảo kịp thời cho việc xuống giống lúa vụ hè thu đạt kết quả theo kế hoạch đề ra.
- Xuống giống lúa hè thu: đến nay toàn tỉnh đã xuống giống được 34.289 ha (Tp. Cà Mau 1.600 ha, huyện U Minh 3.737 ha, huyện Thới Bình 746 ha và huyện Trần Văn Thời 28.206 ha), giảm 4,27% so cùng kỳ. Trong tháng, người dân đã đồng loạt xuống giống lúa hè thu. Tuy nhiên, những ngày gần đây mưa kéo dài làm cho một số diện tích lúa hè thu người dân chưa kịp xuống giống và bị ngập úng. Diện tích lúa hè thu bị thiệt hại là 1.222 ha, người dân đang khắc phục bằng cách sạ lại diện tích lúa bị thiệt hại.
Tình hình sản xuất các loại cây hàng năm chủ yếu ước 6 tháng đầu năm 2018:
- Diện tích thu hoạch lúa vụ mùa: các trà lúa vụ mùa năm 2018 đã thu hoạch dứt điểm vào cuối tháng 3 năm 2018 với diện tích đạt 80.888,7 ha (thành phố Cà Mau 3.271 ha, huyện Thới Bình 20.861 ha, huyện U Minh 24.652 ha, huyện Trần Văn Thời 31.511 ha, huyện Cái Nước 543,7 ha và huyện Năm Căn 50 ha), tăng 7,69%; năng suất gieo trồng bình quân đạt 46,99 tạ/ha, tăng 23,51%; sản lượng đạt 380.113,6 tấn, tăng 33,01% so cùng kỳ. Do điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa, đặc biệt là lúa - tôm, lượng mưa nhiều giúp người dân rửa mặn triệt để, diện tích xuống giống tăng, cây lúa phát triển tốt nên năng suất, sản lượng tăng so cùng kỳ.
- Diện tích gieo trồng ngô ước đạt 188 ha, tăng 1,08%; diện tích thu hoạch ước đạt 119 ha, tăng 0,85%; sản lượng thu hoạch ước đạt 517 tấn, tăng 0,35% so cùng kỳ.
- Diện tích gieo trồng mía ước đạt 403 ha, giảm 6,5%; diện tích thu hoạch ước đạt 299 ha, tăng 5,65%; sản lượng thu hoạch ước đạt 14.932 tấn, tăng 3,15% so cùng kỳ. Nguyên nhân diện tích mía giảm là do người trồng mía sau khi thu hoạch sản phẩm gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ (nhà máy đường Thới Bình ngừng hoạt động), giá cả tương đối thấp… người trồng mía không có lãi nên các hộ trồng mía chuyển sang nuôi trồng thủy sản và trồng các loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn.
- Diện tích gieo trồng rau, cải các loại ước đạt 3.870 ha, tăng 0,03%; diện tích thu hoạch ước đạt 3.374 ha, tăng 1,72%; sản lượng thu hoạch ước đạt 23.558 tấn, tăng 1,32% so cùng kỳ.
- Diện tích gieo trồng đậu các loại ước đạt 248 ha, tăng 10,22%; diện tích thu hoạch ước đạt 132 ha, giảm 29,41%; sản lượng thu hoạch ước đạt 270 tấn, giảm 32,5% so cùng kỳ.
Tình hình sản xuất một số cây lâu năm trong 6 tháng đầu năm 2018:
- Diện tích xoài ước đạt 719,3 ha, tăng 0,98%; sản lượng thu hoạch ước đạt 1.281,6 tấn, tăng 3,72% so cùng kỳ.
- Diện tích chuối ước đạt 5.526,6 ha, tăng 1,89% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch ước đạt 28.622,8 tấn, tăng 9% so cùng kỳ. Diện tích chuối tăng chủ yếu ở huyện U Minh, những năm gần đây người dân tận dụng những khoảng đất trống, đất bờ đê bao, đất bờ kinh thuỷ lợi trên lâm phần đất rừng tràm nhận khoán trồng chuối để góp phần tạo thêm thu nhập.
- Diện tích thanh long ước đạt 258,1 ha, tăng 0,7%; sản lượng thu hoạch ước đạt 341,5 tấn, tăng 3,61% so cùng kỳ.
- Diện tích cam ước đạt 365,6 ha, tăng 4,04% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch ước đạt 633,2 tấn, tăng 12,61% so cùng kỳ.
- Diện tích cây lấy quả chứa dầu (dừa) ước đạt 7.264.6 ha, giảm 1,38% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch ước đạt 13.760,9 tấn, giảm 1,56% so cùng kỳ. Nguyên nhân giảm diện tích chủ yếu là do người dân phá bỏ một số diện tích trồng dừa cho năng suất thấp hoặc bị sâu bệnh gây hại chuyển sang trồng các loại cây ăn trái khác có thu nhập cao hơn hoặc chuyển sang nuôi trồng thủy sản.
Tình hình sâu bệnh:
- Trên cây lúa: diện tích lúa hè thu bị gây hại bởi sâu cuốn lá nhỏ, đạo ôn lá, rầy nâu, ốc bươu vàng, bọ trĩ… gây hại rải rác với mức độ thiệt hại nhẹ, diện tích bị ảnh hưởng 2.599 ha, hiện nay người dân đã phòng trừ và khắc phục kịp thời.
- Trên rau màu: ảnh hưởng bọ nhảy, sâu tơ, sâu khoang và bệnh đốm phấn trắng xuất hiện rải rác trên rau, màu ở một vài nơi trong tỉnh mức độ thiệt hại không đáng kể, diện tích bị ảnh hưởng 570 ha, người dân đã phòng trừ.
- Trên cây ăn trái: bị ảnh hưởng của sâu đục cành, ngọn, bệnh cháy lá gây hại trên xoài; sâu vẽ bùa gây hại trên cam, quýt, mức độ thiệt hại không lớn.
- Trên mía: bị sâu đục thân gây hại ở giai đoạn vươn lóng, mức độ thiệt hại không đáng kể, đã được phòng trừ và khắc phục.
- Trên dừa: bị bọ cánh cứng tiếp tục gây hại trong giai đoạn cho trái, Trung tâm khuyến nông tiếp tục phòng trừ bằng cách phóng thích ong ký sinh ở các huyện, thành phố có diện tích dừa bị gây hại.
2.2.2. Chăn nuôi:
Tình hình sản xuất ước 6 tháng đầu năm 2018:
- Đàn lợn: 122.989 con, tăng 1,38% so cùng kỳ. Giá lợn sau thời gian dài giảm giá đến nay đã tăng trở lại khá cao; tuy nhiên, nguồn cung lợn chưa phục hồi sau khi các hộ chăn nuôi giảm đàn và tạm dừng nuôi lợn trong đợt khủng hoảng giá.
- Đàn gia cầm: 1.949,21 nghìn con, tăng 14,29% so cùng kỳ; trong đó: đàn gà 1.129,53 nghìn con, tăng 20,02% so cùng kỳ. Đàn gia cầm tăng so cùng kỳ do thời gian trước giá lợn hơi giảm mạnh người nuôi không có lãi nên chuyển sang nuôi gia cầm nhiều hơn. Bên cạnh đó, giá cả đầu ra ổn định, việc tiêu thụ sản phẩm gia cầm có phần thuận lợi, tình hình dịch bệnh được khống chế nên người chăn nuôi gia cầm có lãi; từ đó, tiếp tục đầu tư phát triển chăn nuôi gia cầm.
Tình hình dịch bệnh:
- Trên đàn gia súc: trong 6 tháng đầu năm 2018 phát hiện 01 ổ dịch bệnh lở mồm long móng trên đàn lợn ở huyện Phú Tân, tổng đàn có 10 con lợn. Chi cục Thú y phối hợp với Phòng NN&PTNT huyện đã hướng dẫn UBND Thị trấn Cái Đôi Vàm chỉ đạo việc thực hiện vệ sinh, tiêu độc, khử trùng trong vùng dịch đúng theo quy định; điều tra số hộ và số lượng đàn heo trên địa bàn Thị trấn Cái Đôi Vàm, đồng thời tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân phòng chống dịch bệnh trên gia súc. Bên cạnh đó, trên đàn heo vẫn còn xảy ra một số bệnh thông thường như: tiêu chảy, tụ huyết trùng, phó thương hàn, cúm, viêm phổi… Số heo mắc bệnh 6 tháng đầu năm 2018 là 11.447 con, giảm 2,96% so cùng kỳ; số heo chết là 1.122 con, giảm 5,48% so cùng kỳ.
- Trong 6 tháng đầu năm 2018 tình hình dịch bệnh trên đàn gia cầm ổn định, không phát hiện trường hợp gia cầm bị bệnh, chết do nhiễm virus cúm H5N1.
2.3. Lâm nghiệp:
Công tác phòng chống cháy rừng: các đơn vị quản lý rừng triển khai thực hiện công tác phòng cháy và chữa cháy rừng mùa khô năm 2017 - 2018 theo phương án được phê duyệt. Tại các chốt, Trạm đều có lực lượng canh gác trên các chòi canh lửa, trang thiết bị chữa cháy luôn sẵn sàng khi có cháy xảy ra, lực lượng ứng trực đầy đủ. Hạt Kiểm lâm các huyện, Đội Kiểm lâm cơ động duy trì thường xuyên công tác kiểm tra các cống, đập giữ nước và tiến độ triển khai thực hiện phương án phòng cháy và chữa cháy rừng của các đơn vị quản lý rừng, tổ chức phân công trực 24/24h. Đến nay, công tác PCCCR mùa khô năm 2017 - 2018 đã kết thúc.
Công tác quản lý bảo vệ rừng: công tác tuần tra, kiểm tra quản lý bảo vệ rừng và chống chặt phá cây rừng, hầm than, vận chuyển, mua bán lâm sản và động vật hoang dã trái phép trong thời gian vừa qua luôn được tăng cường. Trong 6 tháng đầu năm 2018 lực lượng Kiểm lâm thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm tra, phát hiện 128 vụ vi phạm luật bảo vệ và phát triển rừng, tăng 11 vụ (tăng 9,4%) so cùng kỳ.
Khai thác gỗ và lâm sản: tổng số gỗ khai thác ước 6 tháng đầu năm 2018 đạt 53.042 m3, giảm 3,58% so cùng kỳ; củi khai thác ước đạt 59.750 ste, giảm 32,27% so cùng kỳ. Sản lượng gỗ, củi cây tràm, đước giảm là do một số đơn vị có rừng và hộ dân được nhận giao khoán đất rừng có diện tích rừng khai thác chỉ được khai thác theo quyết định phê duyệt kế hoạch khai thác rừng năm 2018 trên địa bàn tỉnh Cà Mau của UBND tỉnh.
3. Sản xuất công nghiệp:
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp:
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tháng 6/2018 tăng 3,17% so tháng trước, tăng 16,58% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 chỉ số sản xuất tăng 4,57% so cùng kỳ. Cụ thể từng ngành công nghiệp như sau:
- Ngành khai thác khí đốt: chỉ số sản xuất tháng 6 ước tính giảm 5,24% so tháng trước, giảm 1,10% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 giảm 10,13% so cùng kỳ. Nguyên nhân giảm chủ yếu do lượng khí cung cấp cho công ty Khí Cà Mau giảm so cùng kỳ. Bên cạnh đó, ngày 7/5 Nhà máy xử lý khí Cà Mau gặp sự cố nên dừng vận hành để thực hiện công tác bảo dưỡng thiết bị. Điều này làm cho sản lượng khí khô thương phẩm cũng như khí hóa lỏng, urê, điện sản xuất giảm mạnh.
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: chỉ số sản xuất tháng 6 ước tính tăng 3,39% so tháng trước, tăng 17,24% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 chỉ số sản xuất tăng 13,06% so cùng kỳ. Cụ thể một số ngành chế biến chủ yếu như:
+ Ngành sản xuất chế biến thực phẩm: chỉ số sản xuất tháng 6 tăng 9,03% so tháng trước, tăng 25,09% so cùng kỳ; lũy kế 6 tháng năm 2018 chỉ số tăng 18,64% so cùng kỳ. Nguyên nhân tăng chủ yếu do nguyên liệu đầu vào khá ổn định vì các ngành chức năng đã tập trung chỉ đạo, tăng cường nhiều giải pháp thúc đẩy ngành nuôi trồng thủy sản của tỉnh phát triển với nhiều mô hình mới theo hướng bền vững. Bên cạnh đó, khuyến khích phát triển nhân rộng mô hình nuôi tôm siêu thâm canh gắn với bảo vệ môi trường và mô hình nuôi tôm đạt năng suất cao nhằm phục vụ chế biến và xuất khẩu, tạo nên đa dạng hóa mặt hàng, từng bước nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm; từ đó, mở rộng thị trường tiêu thụ.
+ Ngành sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế (chủ yếu sản xuất khí hóa lỏng): chỉ số sản xuất tháng 6/2018 ước tính tăng 2,30% so tháng trước, do lượng khí từ Công ty khí Cà Mau cung cấp về cho Nhà máy đầy đủ, tình hình hoạt động của Nhà máy sau thời gian thử nghiệm nay đã dần đi vào ổn định.
+ Ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất (chủ yếu sản xuất phân đạm): chỉ số sản xuất tháng 6/2018 giảm 21,86% so tháng trước, giảm 17,64% so cùng kỳ; lũy kế 6 tháng năm 2018 chỉ số giảm 8,32% so cùng kỳ. Nguyên nhân giảm mạnh là do sản lượng khí cung cấp cho nhà máy không đủ để hoạt động hết công suất, phần khác vào mùa mưa nên nhu cầu sử dụng phân đạm của bà con nông dân cũng giảm mạnh nên sản lượng sản xuất giảm so tháng trước.
- Ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng: chỉ số sản xuất tháng 6/2018 tăng 2,89% so tháng trước, tăng 15,80% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 chỉ số sản xuất giảm 6,42% so cùng kỳ; nguyên nhân giảm do sản lượng khí cung cấp cho nhà máy bị sụt giảm nên không đủ khí để nhà máy hoạt động hết công suất làm sản lượng giảm đáng kể. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng trên nhà máy đã vận hành thường xuyên một tổ máy bằng nhiên liệu dầu DO để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường hiện nay.
- Ngành công nghiệp cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: chỉ số sản xuất tháng 6/2018 tăng 1,0% so tháng trước, tăng 9,73% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 chỉ số sản xuất tăng 5,64% so cùng kỳ. Nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu cung cấp nước sạch của một số ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ và nhu cầu nước sinh hoạt của hộ dân cư tăng cao trong tháng mùa khô.
Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu:
- Tôm đông: tháng 6/2018 ước đạt 11,68 nghìn tấn, tăng 9,03% so tháng trước, tăng 25,09% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 64,74 nghìn tấn, tăng 18,64% so cùng kỳ.
- Điện sản xuất: tháng 6/2018 ước đạt 739,70 triệu kwh, tăng 2,89% so tháng trước, tăng 15,78% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 3.954,10 triệu kwh, giảm 6,64% so cùng kỳ.
- Điện thương phẩm: tháng 6/2018 ước đạt 130 triệu kwh, tăng 2,36% so tháng trước, tăng 17,43% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 690 triệu kwh, tăng 13,81% so cùng kỳ.
- Khí khô thương phẩm: tháng 6/2018 ước đạt 162,70 triệu m3, giảm 5,24% so tháng trước, giảm 1,10% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 940,10 triệu m3, giảm 10,13% so cùng kỳ.
- Sản lượng Urê sản xuất: tháng 6/2018 ước đạt 59,81 nghìn tấn, giảm 21,86% so tháng trước, giảm 17,64% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 405,60 nghìn tấn, giảm 8,32% so cùng kỳ.
- Butan đã được hóa lỏng (LPG): tháng 6/2018 ước đạt 17.000 tấn, tăng 2,30% so tháng trước. Đây là sản phẩm mới do Nhà máy xử lý khí Cà Mau sản xuất.
4. Thương mại, giá cả:
4.1. Giá cả:
Tình hình cung cầu hàng hóa, dịch vụ trong tháng 6 ổn định; giá cả một số loại hàng hóa trên thị trường biến động nhẹ. Chỉ số giá chung hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tỉnh Cà Mau tháng 6/2018 tăng 0,67% so tháng trước, tăng 2,66% so tháng 12 năm trước, tăng 3,98% so cùng kỳ. Bình quân 6 tháng đầu năm 2018 tăng 3,83% so cùng kỳ. Nhìn chung, chỉ số giá trong tháng 6 tăng chủ yếu do giá hàng lương thực, thực phẩm tăng, nhu cầu giải trí du lịch mùa hè tăng; đồng thời, do tác động của việc điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vừa qua, cộng với một số hàng hóa, dịch vụ tăng do yếu tố mùa vụ đã góp phần làm tăng chỉ số giá chung. Cụ thể tình hình tăng, giảm giá các nhóm hàng trong tháng 6/2018 như sau:
- Chỉ số giá hàng lương thực tăng 1,31% so tháng trước, hàng thực phẩm tăng 1,88%; trong đó: giá thịt gia súc tươi sống tăng 6,52%, giá trứng các loại tăng 6,75%, giá rau tươi, khô và chế biến tăng 2,06%, giá hàng thủy sản tươi sống tăng 1,96%, các loại đồ gia vị tăng 0,47%, giá dầu mỡ ăn và chất béo khác tăng 1%, giá quả tươi, chế biến giảm 3,07%, các loại đường mật giảm 1,59%;…
- Chỉ số giá các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm: hàng giao thông tăng 1,49% so tháng trước, tăng 10,09% so cùng kỳ (trong đó: giá nhiên liệu tăng 2,28% so tháng trước do giá xăng dầu điều chỉnh tăng); hàng văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,43% so tháng trước, giảm 1,79% so cùng kỳ; nhóm hàng thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07% so tháng trước, tăng 3,45% so cùng kỳ; nhóm hàng nhà ở, điện nước chất đốt và VLXD tăng 0,18% so tháng trước, giảm 4,22% so cùng kỳ; nhóm hàng đồ uống và thuốc lá giảm 0,17% so tháng trước, tăng 2,35% so cùng kỳ; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,16% so tháng trước, giảm 0,30% so cùng kỳ;…
* Giá vàng bình quân trong tháng 6/2018 là 35,80 triệu đồng/1 lượng (vàng 99,99%), chỉ số giá vàng giảm 0,56% so tháng trước, tăng 1,47% so tháng 12 năm trước, tăng 2,91% so cùng kỳ. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân trong tháng 6/2018 là 22.903 VN đồng/1 USD, tăng 0,41% so tháng trước, tăng 0,67% so tháng 12 năm trước, tăng 0,73% so cùng kỳ.
4.2. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ và hoạt động khách sạn, nhà hàng:
Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ: (trừ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành)
Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tháng 6/2018 ước đạt 4.067,38 tỷ đồng, giảm 0,61% so tháng trước, tăng 13,73% so cùng kỳ; trong đó: tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 3.697,20 tỷ đồng, giảm 0,67% so tháng trước, tăng 14,10% so cùng kỳ, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,73%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa trong tháng 6/2018 trên địa bàn tỉnh giảm so tháng trước; nguyên nhân là do trong tháng tình hình thời tiết không thuận lợi, mưa nhiều nên việc đi lại cũng như kinh doanh mua bán của người dân trên địa bàn tỉnh hạn chế. Trong tháng doanh thu giảm ở tất cả các nhóm mặt hàng trừ nhóm hàng xăng, dầu tăng do giá xăng dầu được điều chỉnh tăng liên tục trong thời gian gần đây; cụ thể: nhóm ngành hàng xăng dầu tăng 0,61%; lương thực, thực phẩm giảm 0,87%; hàng may mặc giảm 0,89%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình giảm 1,25%;...
Lũy kế 6 tháng năm 2018 tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ ước đạt 24.980,29 tỷ đồng, tăng 10,59% so cùng kỳ; trong đó: tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 22.702,28 tỷ đồng, tăng 10,49% so cùng kỳ, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,41%.
Hoạt động khách sạn, nhà hàng:
Doanh thu khách sạn, nhà hàng và dịch vụ hỗ trợ du lịch tháng 6/2018 ước đạt 588,98 tỷ đồng, giảm 0,05% so tháng trước, tăng 12,53% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 3.402,65 tỷ đồng, tăng 13,72% so cùng kỳ. Trong đó:
- Doanh thu ngành khách sạn tháng 6/2018 ước đạt 30,85 tỷ đồng, giảm 0,43% so tháng trước, tăng 3,15% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 179,47 tỷ đồng, tăng 13,21% so cùng kỳ.
- Doanh thu ngành nhà hàng tháng 6/2018 ước đạt 554,02 tỷ đồng, giảm 0,03% so tháng trước, tăng 12,66% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 3.198,45 tỷ đồng, tăng 13,49% so cùng kỳ.
Lượt khách lưu trú trong tháng 6/2018 ước đạt 160,30 nghìn lượt khách, giảm 1,01% so tháng trước, tăng 12,74% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 957,05 nghìn lượt khách, tăng 15,08% so cùng kỳ.
Doanh thu khách sạn, nhà hàng tháng 6/2018 giảm so tháng trước, nguyên nhân là do trong tháng tình hình thời tiết mưa nhiều nên nhu cầu ăn uống, nghỉ ngơi của người dân trên địa bàn tỉnh giảm. Lũy kế 6 tháng năm 2018 doanh thu khách sạn, nhà hàng tăng so cùng kỳ, nguyên nhân là do chất lượng dịch vụ ngày càng phát triển, đáp ứng được nhu cầu của người dân. Bên cạnh đó, là do sự phát triển của ngành du lịch tỉnh nhà ngày càng thu hút được nhiều khách du lịch đến với Cà Mau đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh khách sạn, nhà hàng.
4.3. Xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu tháng 6/2018 ước đạt 93,47 triệu USD, tăng 4,86% so tháng trước, tăng 1,28% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 440,99 triệu USD, đạt 36,75% so kế hoạch, tăng 4,81% so cùng kỳ; mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là thủy sản; trong đó: hàng thủy sản ước đạt 428,06 triệu USD; xuất khẩu phân đạm ước đạt 12,93 triệu USD.
Khối lượng hàng thủy sản xuất khẩu tháng 6/2018 ước đạt 9.745 tấn, tăng 6,79% so tháng trước, tăng 2,48% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 khối lượng hàng thủy sản ước đạt 46.149 tấn, tăng 6,35% so cùng kỳ.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu trong tháng 6/2018 là: Mỹ, Nhật Bản, Thị trường chung Châu Âu, Úc, Canada, Hồng Kông, Trung Quốc, Hàn Quốc. Lũy kế 6 tháng năm 2018 kim ngạch xuất khẩu qua thị trường Mỹ ước đạt 83,41 triệu USD (chiếm 18,91% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 4,89% so cùng kỳ; thị trường Nhật 71,06 triệu USD (chiếm 16,11%), tăng 16,38%; thị trường chung Châu Âu 131,84 triệu USD (chiếm 29,90%), tăng 60,50%; thị trường Úc 13,27 triệu USD (chiếm 3,01%), tăng 33,45%; thị trường Canada 15,05 triệu USD (chiếm 3,41%), giảm 29,91%; thị trường Trung Quốc 28,96 triệu USD (chiếm 6,57%), giảm 25,01%; Hàn Quốc 31,88 triệu USD (chiếm 7,23%), giảm 20,75% so cùng kỳ;...
Nhập khẩu: kim ngạch nhập khẩu tháng 6/2018 ước đạt 5,20 triệu USD, giảm 4,67% so tháng trước, giảm 44,68% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 63,94 triệu USD, tăng 15,28% so cùng kỳ.
5. Hoạt động giao thông vận tải, Thông tin truyền thông:
5.1. Hoạt động giao thông vận tải:
- Khối lượng vận chuyển hành khách tháng 6/2018 ước đạt 6.083,81 nghìn HK, tăng 2,71% so tháng trước, tăng 6,59% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 36.771,36 nghìn HK, tăng 4,81% so cùng kỳ. Trong đó: đường bộ tăng 8,59%, đường sông giảm 5,84% so cùng kỳ.
- Khối lượng luân chuyển hành khách tháng 6/2018 đạt 161.761,05 nghìn HK.km, tăng 3,63% so tháng trước, tăng 11,02% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 970.351,62 nghìn HK.km, tăng 14,72% so cùng kỳ. Trong đó: đường bộ tăng 15,71%, đường sông giảm 8,12% so cùng kỳ.
- Khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 6/2018 ước đạt 193 nghìn tấn, tăng 4,16% so tháng trước, tăng 7,07% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 1.236,63 nghìn tấn, tăng 4,42% so cùng kỳ. Trong đó: đường bộ tăng 6,67%, đường thủy nội địa tăng 3,55%, đường ven biển giảm 26,92% so cùng kỳ.
- Khối lượng luân chuyển hàng hóa tháng 6/2018 ước đạt 25.657,45 nghìn tấn.km, tăng 4,69% so tháng trước, tăng 8,87% so cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng năm 2018 ước đạt 163.451,10 nghìn tấn.km, tăng 4,11% so cùng kỳ. Trong đó: đường bộ tăng 7,36%, đường thủy nội địa tăng 3,60%, đường ven biển giảm 29,60% so cùng kỳ.
Sản lượng vận tải tháng 6/2018 tăng so tháng trước nguyên nhân chủ yếu do tháng 6 rơi vào thời điểm kỳ thi trung học phổ thông quốc gia năm 2018 nên nhu cầu đi lại tăng. Hệ thống giao thông vận tải ngày càng phát triển, các tuyến đường lộ giao thông nông thôn được mở rộng và nối dài; đến nay đã có 81/82 xã có đường ô tô đến được trung tâm xã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại và vận chuyển hàng hóa.
5.2 Hoạt động Thông tin truyền thông:
Hoạt động báo chí:
- Các cơ quan báo in, báo nói, báo hình: trong 6 tháng đầu năm 2018 ước thực hiện tổng số 435.672 tờ (cuốn), tăng 3,21% so cùng kỳ; trong đó: Báo Cà Mau 403.552 tờ (cuốn), tăng 20,06%; Báo ảnh Đất Mũi 32.120 tờ (cuốn), giảm 62,65% so cùng kỳ. Đài Phát thanh - Truyền hình đã thực hiện 26.172 đề tài, giảm 19,14% so cùng kỳ; thời lượng phát sóng 14.784 giờ.
- Cổng Thông tin Điện tử: trong 6 tháng đầu năm 2018 có 1.574.539 lượt truy cập; lũy kế đến nay có trên 26,1 triệu lượt người truy cập.
Hoạt động Bưu chính, viễn thông:
Bưu chính và chuyển phát: trên địa bàn tỉnh có 16 doanh nghiệp bưu chính đang hoạt động, với 146 điểm phục vụ bưu chính (58 bưu cục; 80 điểm bưu điện - văn hóa xã; 08 thùng thư công cộng độc lập). Trong 6 tháng đầu năm 2018, các doanh nghiệp bưu chính trong tỉnh chuyển phát đi 4.466.099 cái bưu gửi (bưu phẩm, bưu kiện, thư, hàng hóa gửi), tăng 55,63% so cùng kỳ.
- Bưu điện tỉnh Cà Mau phát hành (chuyển phát) các loại báo, tạp chí trong 6 tháng đầu năm 2018 là 1.247.388 tờ/cuốn, tăng 0,33% so cùng kỳ.
Về Viễn thông, Internet: trên địa bàn tỉnh hiện có 09 doanh nghiệp viễn thông (VNPT, VIETTEL, MobiFone, Vietnamobile, Gtel Mobile, FPT, SCTV, VTVcap và Đài Thông tin Duyên Hải). Tính đến hết tháng 6/2018, toàn tỉnh Cà Mau có 1.457.754 thuê bao điện thoại (cố định và di động) đang hoạt động trên mạng, tăng 0,77% so cùng kỳ. Trong đó: có 41.059 thuê bao điện thoại cố định, giảm 4,61%; điện thoại di động là 1.457.754 thuê bao, tăng 3,86% so cùng kỳ.
- Đến tháng 6/2018, toàn tỉnh có 291.062 thuê bao Internet, tăng 20,11% so cùng kỳ (12.022 thuê bao ADSL, 71.427 thuê bao FTTH và 207.613 thuê bao 3G, 4G). Có 1.356 trạm phủ sóng thông tin di động (BTS); có 1.132 trạm Node B (3G); 810 trạm 4G.
II. CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA - XÃ HỘI:
1. Lao động, việc làm, chính sách xã hội:
Lao động - Việc làm: tổng số lao động được tạo việc làm lũy kế từ đầu năm đến ngày 19/6/2018 là 23.284 lao động, đạt 61,27% so kế hoạch; trong đó: lao động trong tỉnh 7.248 lao động, ngoài tỉnh 16.014 lao động, xuất khẩu 22 lao động.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng và dạy nghề: lũy kế từ đầu năm đến ngày 19/6/2018 tỉnh đã đào tạo, bồi dưỡng và dạy nghề cho 16.091 lao động, đạt 45,97% so kế hoạch; trong đó: đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956/CP là 3.535 lao động, đạt 35,35% kế hoạch.
Công tác chăm sóc người có công 6 tháng đầu năm 2018:
- Thực hiện chi trả trợ cấp và các chế độ ưu đãi đúng, đủ, kịp thời cho 107.222 người có công (hệ dân chánh). Số người đang hưởng trợ cấp hàng tháng là 20.065 người, với tổng kinh phí là 29,73 tỷ đồng. Đưa 45 đối tượng người có công đi điều dưỡng tập trung tại thủ đô Hà Nội đợt I năm 2018.
- Lũy kế từ đầu năm đến ngày 19/6/2018 toàn tỉnh đã vận động Quỹ đền ơn đáp nghĩa được 7,43 tỷ đồng, đạt 78,21% kế hoạch năm; trong đó các huyện, thành phố vận động được 6,47 tỷ đồng, còn lại là do các cơ quan đơn vị cấp tỉnh vận động.
2. Giáo dục: công tác giáo dục tháng 6/2018 tập trung chủ yếu vào các công việc sau:
- Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Cà Mau chỉ đạo các đơn vị, trường học thực hiện nghiêm túc và hoàn thành Kế hoạch thời gian năm học 2017 - 2018; thực hiện kiểm tra các trường mầm non tư thục trên địa bàn tỉnh; tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin trong các đơn vị, trường học.
- Tiếp tục triển khai kế hoạch xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia trên địa bàn tỉnh Cà Mau giai đoạn 2016 - 2020. Triển khai Quyết định của UBND tỉnh công nhận trường tiểu học Rạch Chèo huyện Phú Tân đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia hiện nay trên địa bàn tỉnh lên 262/543 trường, trong đó: mầm non 70/132 trường, tiểu học 128/259 trường, THCS 62/120 trường, THPT 02/32 trường. Chỉ đạo các đơn vị trường học tăng cường công tác bảo quản, sửa chữa tài sản trường học, xây dựng cơ sở vật chất các trường học trong danh mục đạt chuẩn quốc gia.
- Tiếp tục phối hợp chỉ đạo, rà soát, kiểm tra công tác chuẩn bị cho kỳ thi THPT quốc gia 2018: thành lập đoàn kiểm tra cơ sở vật chất chuẩn bị cho kỳ thi tại các huyện trong tỉnh; hoàn thành việc đăng nộp hồ sơ đăng ký tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển vào Đại học - Cao đẳng; triển khai thực hiện kế hoạch in sao đề thi THPT quốc gia năm 2018. Chỉ đạo các đơn vị trường học thực hiện công tác tuyển sinh và kiểm tra công tác tuyển sinh các lớp đầu cấp trong tỉnh.
- Tiếp tục hoàn thành việc thanh tra theo kế hoạch năm học 2017 - 2018; thanh tra việc thực hiện chương trình, ôn tập, kiểm tra, công tác chuẩn bị thi kỳ thi THPT Quốc gia năm 2018, công tác quản lý dạy thêm học thêm trong và ngoài nhà trường.
3. Hoạt động văn hóa, thể dục thể thao 6 tháng đầu năm 2018:
Hoạt động thông tin tuyên truyền: Tập trung tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị của địa phương; đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; đồng thời, tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước và của tỉnh theo đúng kế hoạch đề ra. Thông qua tuyên truyền cổ động trực quan; phối hợp xây dựng tiểu phẩm tuyên truyền an toàn giao thông; xây dựng kịch bản tuyên truyền thông tin, chỉ đạo Đội tuyên truyền lưu động lưu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Hoạt động nghệ thuật: đoàn Cải lương Hương Tràm và đoàn nghệ thuật Khmer tập trung xây dựng các chương trình văn nghệ phục vụ các ngày lễ lớn của đất nước, các sự kiện chính trị của địa phương, tiêu biểu như: chương trình mừng Đảng, mừng Xuân Mậu Tuất năm 2018; phục vụ Lễ hội Nghinh Ông tại thị trấn Sông Đốc; Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào dân tộc Khmer; Giỗ tổ Hùng Vương;... Đặc biệt, đoàn cải lương Hương Tràm còn tổ chức lưu diễn tại tỉnh Ninh Bình nhân Lễ kỷ niệm 1050 năm Nhà nước Đại Cồ Việt. Nhân dịp này, đoàn đã giao lưu với một số đoàn nghệ thuật trong và ngoài nước. Kết quả 6 tháng đầu năm 2018 đoàn cải lương Hương Tràm biểu diễn phục vụ 50 buổi, đoàn nghệ thuật Khmer biểu diễn phục vụ 42 buổi.
Phong trào thể dục, thể thao: trong 6 tháng đầu năm 2018, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Cà Mau đã tổ chức thành công Đại hội Thể dục Thể thao tỉnh Cà Mau lần thứ V năm 2018; tham gia thi đấu có 36 đoàn với 1.685 vận động viên tham gia thi đấu ở 17 môn. Bên cạnh đó, Sở còn phối hợp với các cơ quan, ban ngành trong tỉnh và đơn vị ngoài tỉnh tổ chức nhiều hội thao, giải thể thao như: hội thao mừng Đảng, mừng Xuân; giải xe đạp toàn quốc tranh Cúp Truyền hình TP. Hồ Chí Minh năm 2018; giải Quần vợt tỉnh Cà Mau mở rộng năm 2018;...
Thể thao thành tích cao tiếp tục được các ngành chức năng trong tỉnh quan tâm và cử vận động viên tham gia theo kế hoạch thi đấu đã đề ra. Trong 6 tháng đầu năm 2018 đã tham gia 07 giải đạt được 05 huy chương vàng, 04 huy chương bạc, 07 huy chương đồng; trong đó có 03 huy chương vàng và 01 huy chương đồng quốc tế.
4. Cháy nổ: công tác phòng, chống cháy nổ luôn được các ngành, các cấp đặc biệt quan tâm và chỉ đạo kiểm tra thường xuyên; đồng thời vận động, tuyên truyền người dân nâng cao ý thức trong công tác phòng chống cháy nổ. Tuy nhiên, tình hình sử dụng lưới điện không an toàn do ý thức chủ quan của người dân vẫn còn. Trong tháng 6/2018 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 04 vụ cháy, làm thiệt hại 08 căn nhà, ước tính tổng thiệt hại về tài sản ban đầu là 5.790 triệu đồng, không thiệt hại về người. Sau khi xảy ra sự việc các ngành chức năng, cùng chính quyền địa phương đã đến động viên, thăm hỏi các gia đình bị thiệt hại khắc phục khó khăn, ổn định lại cuộc sống. Bên cạnh đó, các ngành chức năng vẫn tiếp tục tuyên truyền người dân thực hiện tốt công tác phòng chống cháy nổ nhằm tránh thiệt hại về người và tài sản.
5. Y tế tháng 6/2018:
Công tác phòng chống bệnh dịch:
Trong tháng 6/2018, bệnh sốt xuất huyết mắc 30 ca, giảm 6,25% so tháng trước, giảm 85,29% so cùng kỳ; bệnh tiêu chảy mắc 220 ca, tăng 22,91% so tháng trước, tăng 35,80% so cùng kỳ; bệnh tay chân miệng mắc 82 ca, tăng 86,36% so tháng trước, giảm 26,79% so cùng kỳ.
Các bệnh về hô hấp: bệnh viêm phổi mắc 1.306 ca, tăng 5,83% so tháng trước, tăng 17,76% so cùng kỳ; bệnh viêm phế quản mắc 3.166 ca, tăng 5,74% so tháng trước, tăng 32,58% so cùng kỳ.
Công tác phòng chống HIV/AIDS:
Trong tháng 6/2018, trên địa bàn tỉnh đã phát hiện thêm 27 người nhiễm HIV, cộng dồn từ đầu năm là 131 người, lũy tích là 3.349 người. Bệnh nhân AIDS phát hiện mới 06 người, cộng dồn từ đầu năm là 37 người, lũy tích là 1.195 người. Bệnh nhân AIDS tử vong 03 người, cộng dồn từ đầu năm là 11 người, lũy tích 446 người.
Tự tử, ngộ độc thực phẩm, tai nạn lao động:
Trong tháng 6/2018, không có trường hợp mắc ngộ độc thực phẩm. Tự tử 23 trường hợp, tăng 21,05% so tháng trước, tăng 9,52% so cùng kỳ. Tai nạn lao động 118 trường hợp, giảm 13,87% so tháng trước, tăng 0,85% so cùng kỳ.
Công tác khám chữa bệnh:
Trong tháng 6/2018 tổng số lần khám bệnh là 651.964 lần, tăng 0,21% so tháng trước; bệnh nhân điều trị nội trú 16.368 lượt, tăng 7,85%; ngày điều trị nội trú 94.437 ngày, tăng 1,97% so tháng trước. Công suất sử dụng giường bệnh tại các đơn vị cụ thể như sau: 03 bệnh viện tuyến tỉnh đạt trung bình 81,8%; 05 bệnh viện đa khoa đạt trung bình 104,8%; 04 Trung tâm Y tế đạt trung bình 71,9%; 07 phòng khám đa khoa khu vực đạt 19,1%; bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ Minh Hải đạt 77,1%; bệnh viện Medic đạt 30%.
III. KẾT LUẬN:
Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau 6 tháng đầu năm 2018 có chuyển biến tích cực, đạt được kết quả khả quan. Tình hình sản xuất các loại cây trồng tương đối ổn định, hoạt động nuôi tôm công nghiệp theo hình thức công nghệ cao đạt hiệu quả, sản lượng thủy sản tăng so cùng kỳ. Các hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển, hàng hóa đa dạng, phong phú đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời theo nhu cầu tiêu dùng của người dân; giá cả thị trường ổn định, lạm phát được kiềm chế; hệ thống kết cấu hạ tầng trên địa bàn tỉnh được quan tâm đầu tư; nhiều dự án, công trình quy mô lớn, trọng điểm đã hoàn thành đưa vào sử dụng đã góp phần thay đổi diện mạo ở cả khu vực thành thị và nông thôn; các lĩnh vực văn hóa - xã hội được quan tâm chỉ đạo thực hiện và đạt nhiều kết quả tích cực; đặc biệt là công tác bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo cho các gia đình chính sách, người có công, hộ nghèo, hộ cận nghèo được triển khai kịp thời và có hiệu quả.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau 6 tháng đầu năm 2018 vẫn còn tồn tại một số khó khăn như: sản lượng khí, điện, đạm sản xuất giảm so cùng kỳ; kim ngạch xuất khẩu đạt thấp so kế hoạch; tình hình thiên tai, dịch bệnh trên đàn gia súc vẫn còn xảy ra; tình hình sử dụng điện không an toàn dẫn đến xảy ra cháy nổ và các vụ tai nạn về điện; số người chết do tai nạn giao thông, số ca tự tử, tai nạn lao động tăng so cùng kỳ.
Vì vậy, để tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng trong 6 tháng cuối năm; các ngành chức năng, các đơn vị trong tỉnh cần thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hoàn thành tốt kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2018 đã đề ra. Cục Thống kê Cà Mau đề xuất một số giải pháp trọng tâm để thực hiện trong thời gian tới:
- Tập trung sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển chiều sâu, đẩy nhanh thực hiện các đề án, chương trình phát triển sản xuất lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản; hỗ trợ vốn cho người dân để đầu tư phát triển các mô hình sản xuất đạt hiệu quả cao, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là hệ thống thủy lợi, lưới điện đáp ứng tốt sản xuất; khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản.
- Đối với nuôi trồng thủy sản, tăng cường công tác quản lý sản xuất theo quy hoạch, tiếp tục đẩy mạnh phát triển nuôi tôm siêu thâm canh, nuôi tôm công nghiệp nhưng vẫn phải đảm bảo theo quy hoạch, tránh phát triển tự phát, gây khó khăn cho quản lý dịch bệnh; tiếp tục phát triển nuôi tôm quảng canh cải tiến.
- Tổ chức lại sản xuất khai thác thủy sản nhằm nâng cao hiệu quả và thu nhập của ngư dân. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên biển, tàu vi phạm nước ngoài và tai nạn trên biển.
- Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và khắc phục kịp thời hậu quả thiên tai, đảm bảo an toàn tính mạng và hạn chế thấp nhất thiệt hại tài sản của nhân dân.
- Duy trì và phát triển thế mạnh một số ngành công nghiệp chế biến; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, khuyến khích đầu tư công nghệ, mở rộng sản xuất, đa dạng hóa mặt hàng; đẩy nhanh hơn nữa tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
- Tháo gỡ khó khăn về vốn, tín dụng cho doanh nghiệp; tạo điều kiện cho doanh nghiệp gia nhập thị trường, tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, hỗ trợ sản xuất và các chương trình hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực và cải thiện khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu; tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nỗ lực tập trung thực hiện nâng cao chất lượng hàng hóa nhất là các mặt hàng chế biến thủy sản xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu thị trường thế giới trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt nhằm tạo uy tín hàng hóa của tỉnh trên thị trường nội địa và xuất khẩu,...
- Tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; sắp xếp mạng lưới trường, lớp phù hợp với tình hình thực tế; quan tâm đầu tư cơ sở vật chất trường học; duy trì, nâng chất các trường đạt chuẩn quốc gia.
- Tập trung nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh; tích cực tuyên truyền, vận động toàn dân tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Trên đây là những nét cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng năm 2018 tỉnh Cà Mau./.