I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm 2018 ước tính tăng 7,81% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của 6 tháng đầu năm trong 3 năm gần đây, khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của các biện pháp, giải pháp được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng nỗ lực thực hiện trong 6 tháng đầu năm.
Trong mức tăng 7,81% của toàn tỉnh, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,72%, đóng góp 0,85 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,76%, đóng góp 3,98 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,88%, đóng góp 2,72 điểm phần trăm; thuế sản phẩm tăng 5,65%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, ngành nông nghiệp tăng 5,40% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,85 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành thuỷ sản tăng 27,79%, do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,14 điểm phần trăm; riêng ngành lâm nghiệp giảm 7,68%, làm giảm 0,14 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 15,35%, đóng góp 3,65 điểm phần trăm vào mức tăng chung; điểm sáng của khu vực này là sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành sản xuất và phân phối điện với mức tăng 16,08%, đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng chung với 3,13 điểm phần trăm và ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,27%, đóng góp 0,54 điểm phần trăm. Ngành xây dựng 6 tháng đầu năm tăng trưởng khá với tốc độ 4,41%, đóng góp 0,33 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong khu vực dịch vụ, các ngành vẫn giữ mức tăng ổn định so với cùng kỳ năm trước, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó mức tăng của một số ngành có tỷ trọng lớn như sau: Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 7,38% so với cùng kỳ, là ngành có đóng góp cao nhất vào mức tăng trưởng chung với 0,57 điểm phần trăm; giáo dục và đào tạo tăng 5,13%, đóng góp 0,48 điểm phần trăm; thông tin và truyền thông tăng 6,60%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị xã hội tăng 6,01%, đóng góp 0,38 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,27%, đóng góp 0,25 điểm phần trăm; vận tải, kho bãi tăng 5,73%, đóng góp 0,16 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 2,80%, đóng góp 0,15 điểm phần trăm.
Về cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 18,08%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 31,77%; khu vực dịch vụ chiếm 45,74%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,41%. (cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2017 là: 18,58%; 31,39%; 45,53%; 4,50%).
II. SẢN XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN
1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
Diện tích gieo trồng vụ đông xuân toàn tỉnh năm 2018 ước tính đạt 35.868 ha, trong đó: Lúa 12.058 ha; ngô 1.491 ha; khoai lang 107 ha; mía 9.451 ha; cây lấy sợi 17 ha; cây có hạt chứa dầu 1.802 ha; rau, đậu, hoa, cây cảnh 5.595 ha; cây gia vị, dược liệu 231 ha và cây hàng năm khác 5.116 ha. So với vụ đông xuân năm 2017, tổng diện tích gieo trồng tăng 7,9%, trong đó lúa giảm 0,03% (chủ yếu do diện tích bị mưa lũ cuốn trôi năm 2017 chưa khắc phục được và do chuyển mục đích sử dụng); ngô tăng 37,8%; khoai lang tăng 35,4%; mía tăng 17,6%; cây lấy sợi tăng 4,7 lần; cây có hạt chứa dầu giảm 3,4%; rau, đậu, hoa, cây cảnh tăng 8,2%; cây gia vị, dược liệu tăng 4,5%; cây hàng năm khác tăng 8,7%. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa đông xuân năm nay ước tính đạt 58,17 tạ/ha, tăng 0,41 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2017 (do thời tiết thuận lợi); sản lượng ước tính đạt 70.139 tấn, tăng 467 tấn; năng suất ngô ước tính đạt 35,54 tạ/ha, giảm 5,03 tạ/ha, sản lượng ước tính đạt 5.299 tấn, tăng 909 tấn.
Tính đến ngày 15/6, toàn tỉnh thu hoạch được 2.996 ha lúa đông xuân, chiếm 24,8% diện tích gieo cấy, sản lượng đạt 17.968 tấn, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước; 5.299 tấn ngô, tăng 20,7% (đã thu hoạch xong); 529.842 tấn mía, tăng 26,6%; 64.826 tấn rau các loại, tăng 6,2%; 590 tấn khoai lang, tăng 42,9%; 343 tấn lạc, tăng 2,7%; 242 tấn đậu tương, giảm 14,5%; 221 tấn đậu các loại, tăng 20,1%.
Cây lâu năm tiếp tục phát triển với diện tích hiện có 67.188 ha, trong đó cây ăn quả 37.501 ha, chiếm 55,8%; cây lấy sản phẩm cho công nghiệp chế biến 28.411 ha, chiếm 42,3%. So với cùng kỳ năm trước diện tích cây lâu năm tăng 24,4%, cây ăn quả tăng 51,4%; cây lấy sản phẩm cho công nghiệp chế biến tăng 1,2%. Diện tích cây ăn quả tăng chủ yếu do có chính sách đầu tư hỗ trợ phát triển của tỉnh, tính chung 6 tháng đầu năm đã trồng mới 1.709 ha cây ăn quả trên đất dốc và 908 ha cây ghép lai cho năng suất và chất lượng cao, nâng tổng diện tích cây ăn quả trồng trên đất dốc lên 21.188 ha (trồng trên đất trồng lúa nương 646 ha, đất trồng ngô 20.186 ha, đất trồng sắn 163 ha, đất trồng cà phê 193 ha) và diện tích cây lâu năm ghép lai lên 9.128 ha (trong đó diện tích cho sản phẩm 3.340 ha); diện tích cây trồng đạt tiêu chuẩn VietGap hiện có 248 ha chè, 211 ha rau các loại, 121 ha nhãn, 26 ha xoài, 20 ha na, 17 ha cam, 08 ha chanh leo, 05 ha mận, 05 ha thanh long, 05 ha dâu tây và 02 ha bưởi.
Trong 6 tháng đầu năm, sản lượng một số cây lâu năm tăng so với cùng kỳ năm trước: Mận đạt 36.796 tấn, tăng 2,2%; chuối đạt 14.475 tấn, tăng 21,3%; chè đạt 14.228 tấn, tăng 4,6%; cam đạt 1.357 tấn, tăng 107,8%; 880 tấn chanh leo, tăng 70,2%; 571 tấn bưởi, tăng 33,4%; 155 tấn cao su, tăng 5,0%; riêng sản lượng xoài đạt 5.532 tấn, giảm 49,6%.
Trong tháng 6, trên địa bàn tỉnh xuất hiện dịch bệnh đối với một số cây trồng: Lúa 1.342 ha; sắn 03 ha; cây hàng năm khác 121 ha; chè 69 ha; cà phê 174 ha; cây ăn quả 209 ha; tuy nhiên không có diện tích mất trắng, dự ước giá trị thiệt hại 1.288 triệu đồng.
b) Chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc, gia cầm ổn định, không xảy ra dịch bệnh lớn. Tính đến tháng 6/2018, đàn trâu toàn tỉnh có 142.278 con, giảm 1,8%; đàn bò 296.372 con, tăng 8,5%; đàn lợn 601.270 con, giảm 0,2%; đàn gia cầm 6.153 nghìn con, giảm 1,0% so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng tháng 6 ước đạt 512 tấn, thịt bò 383 tấn, thịt lợn 7.192 tấn, thịt gia cầm 1.083 tấn, sản lượng sữa tươi 6.885 tấn, trứng gia cầm 6.046 nghìn quả. Tính chung 6 tháng đầu năm, sản lượng thịt trâu xuất chuồng ước đạt 2.565 tấn, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò 2.863 tấn, tăng 8,1%; thịt lợn 26.499 tấn, tăng 1,7%; thịt gia cầm 5.833 tấn, tăng 4,6%; sản lượng sữa tươi ước đạt 43.112 tấn, tăng 9,7%; trứng gia cầm 32.000 nghìn quả, tăng 3,0%.
Trong 6 tháng đầu năm xảy ra dịch lở mồm long móng trên địa bàn huyện Yên Châu, Phù Yên, Bắc Yên và Sông Mã, Mộc Châu làm 2.585 con gia súc mắc bệnh, chết 02 con. Công tác tiêm phòng cho gia súc, gia cầm đạt 178.654 liều vắc xin THT; 312.178 liều vắc xin lở mồm long móng; 70.977 liều vắc xin dịch tả; 113.280 liều vắc xin dại; 574.525 liều vắc xin Niu cát xơn; 1.500 liều vắc xin ung khí thán. Công tác kiểm dịch xuất và nhập gia súc, gia cầm đuợc kiểm soát chặt chẽ đảm bảo kịp thời phát hiện và xử lý nhanh các trường hợp mắc bệnh, tránh dịch bệnh lây lan ra diện rộng.
2. Lâm nghiệp
Trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã ươm được 7.540 nghìn cây giống các loại để trồng rừng, giảm 27,7% so với cùng kỳ năm trước; tổ chức thiết kế trồng rừng 2.129 ha, đạt 60,8% kế hoạch giao; tổ chức ra quân trồng cây phân tán nhân dịp Tết Nguyên đán Mậu Tuất đạt 96 nghìn cây, giảm 26,3%; diện tích rừng trồng được chăm sóc đạt 4.730 ha, tăng 0,2%; rừng trồng được khoanh nuôi tái sinh 50.100 ha, tương đương cùng kỳ; rừng được giao khoán, bảo vệ 308.400 ha, giảm 0,1%.
Sản lượng gỗ khai thác tháng 6 ước tính đạt 1.697 m3, giảm 72,7%; củi khai thác ước đạt 148.438 ste, giảm 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 13.958 m3, giảm 30,9% (giảm chủ yếu từ khai thác rừng tự nhiên, do thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về đóng cửa rừng); củi khai thác đạt 651.548 ste, giảm 1,9% so với cùng kỳ.
Mặc dù công tác quản lý, bảo vệ rừng được quan tâm thực hiện nhưng các vụ vi phạm lâm luật vẫn xảy ra. Trong tháng 6, toàn tỉnh xảy ra 84 vụ vi phạm lâm luật với tổng số tiền phạt vi phạm hành chính nộp ngân sách nhà nước 199 triệu đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh xảy ra 239 vụ vi phạm lâm luật với số tiền phạt vi phạm hành chính nộp ngân sách nhà nước 1.665 triệu đồng, trong đó cháy rừng 01 vụ với diện tích rừng thiệt hại 4,1 ha; chặt phá rừng 88 vụ với diện tích 7,4 ha; so với cùng kỳ năm trước số vụ vi phạm lâm luật giảm 29,9%, số tiền phạt vi phạm hành chính giảm 23,9%.
3. Thuỷ sản
Tính đến tháng 6/2018, trên địa bàn tỉnh có 2.705 ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích nuôi cá 2.672 ha, giảm 0,1%. Số lồng bè nuôi trồng thủy sản đạt 9.037 chiếc, tăng 107,8% với thể tích 762.830 m3, tăng 98,7%.
Sản lượng thuỷ sản tháng 6 ước tính đạt 913 tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng 759 tấn, khai thác 154 tấn. Tính chung 6 tháng đầu năm, sản lượng thủy sản đạt 4.185 tấn, tăng 21,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng 3.590 tấn, tăng 23,5%; khai thác 595 tấn, tăng 7,6%.
Sản lượng giống thủy sản trong tháng ước tính đạt 7,0 triệu con, bao gồm cá giống các loại. Tính chung 6 tháng đầu năm đạt 54,2 triệu con, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước.
III. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 6 ước tính tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 6,1% và giảm 27,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 5,4% và tăng 2,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 4,3% và giảm 2,2%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,4% và giảm 3,1%.
Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 14,0% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao với mức tăng 14,1%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,8%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,5%; ngành khai khoáng giảm 8,0%. Sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm tăng mạnh chủ yếu do các sản phẩm của 6 doanh nghiệp có quy mô lớn trên địa bàn sản xuất đều tăng, bao gồm: 03 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến (sữa, đường, xi măng) và 03 doanh nghiệp sản xuất điện (thủy điện Sơn La, Huội Quảng, Nậm Chiến).
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước: In, sao chép bản ghi các loại tăng 21,7%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 15,2%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 14,1%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 9,7%. Một số ngành có chỉ số sản xuất giảm: Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải, tái chế phế liệu giảm 1,0%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 1,5%; khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 1,7%; dệt giảm 15,7%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 30,9%; sản xuất đồ uống giảm 36,5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) giảm 80,9%.
Trong 6 tháng đầu năm, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Mật đường tăng 73,4%; sản phẩm in khác tăng 23,3%; sữa chua, sữa và kem lên men hoặc axít hoá tăng 20,3%; đường chưa luyện tăng 17,6%; xi măng tăng 15,2%; điện sản xuất tăng 14,0% (trong đó: Thuỷ điện Sơn La tăng 10,6%, thuỷ điện Huội Quảng tăng 22,9%). Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Sữa và kem chưa cô đặc, chưa pha thêm đường và chất ngọt khác tăng 3,1%; chè nguyên chất tăng 3,0%; dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế tăng 0,7%; nước uống được giảm 1,7%; điện thương phẩm giảm 2,5%; đá xây dựng các loại giảm 8,0%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 15,2%; bia hơi giảm 24,8%; nước tinh khiết giảm 27,9%; phân vi sinh giảm 30,9%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6/2018 ước tính giảm 5,3% so với tháng trước và giảm 12,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) tăng 4,4 lần; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 108,6%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 21,7%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 11,8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 5,8%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 31,5%; sản xuất đồ uống giảm 34,0%; dệt giảm 81,9%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 30/6/2018 ước tính tăng 1,5% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 72,2% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm so với cùng kỳ: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 70,7%; sản xuất giường tủ, bàn ghế giảm 29,8%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao: In, sao chép bản ghi các loại tăng 6,0 lần; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 5,7 lần; dệt tăng 122,5%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 78,2%.
IV. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
Trong tháng 6, toàn tỉnh có 32 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký 140 tỷ đồng, giảm 28,9% về số doanh nghiệp và giảm 58,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 4,4 tỷ đồng, giảm 42,2%. Trong tháng có 06 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, giảm 14,3%; 02 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh, cùng kỳ năm 2017 không phát sinh.
Tính chung 6 tháng đầu năm nay, toàn tỉnh có 146 doanh nghiệp thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.373 tỷ đồng, giảm 6,4% về số doanh nghiệp và tăng 35,3% số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 9,4 tỷ đồng, tăng 44,6%. Số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động là 41 doanh nghiệp, tăng 36,7%; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 14 doanh nghiệp, tăng 75,0%; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 23 doanh nghiệp, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm trước.
V. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa
Hoạt động thương mại dịch vụ 6 tháng đầu năm khá sôi động, công tác quản lý điều hành bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn giá cả trên thị trường được các cấp, các ngành chỉ đạo kịp thời, hiệu quả. Bên cạnh đó công tác khuyến khích, động viên, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa Việt Nam có chất lượng, giá cả hợp lý luôn được quan tâm; tăng cường tổ chức mạng lưới bán hàng tại các huyện, thành phố; kết nối giữa nhà sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tổ chức tốt các hội chợ, lễ hội… góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh, kích thích sức mua của người tiêu dùng.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 6/2018 ước tính đạt 1.595.582 triệu đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm ngành hàng so với cùng kỳ năm trước đều tăng, trong đó tăng cao nhất là nhóm lương thực, thực phẩm tăng 11,3%; xăng dầu các loại tăng 10,8%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 10,7%; sửa chữa xe xó động cơ, môtô, xe máy tăng 10,5%; ô tô các loại tăng 10,4%; các nhóm ngành hàng khác tăng từ 4,7% đến 10,0%.
Tính chung 6 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 9.473.503 triệu đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 11,8%; xăng, dầu các loại tăng 11,1%; lương thực, thực phẩm tăng 11,0%; ô tô các loại tăng 10,8%; sửa chữa xe xó động cơ, môtô, xe máy tăng 10,3%; các nhóm ngành hàng khác tăng từ 7,0% đến 10,0%.
2. Doanh thu hoạt động dịch vụ
Doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6/2018 ước tính đạt 456.989 triệu đồng, tăng 1,0% so với tháng trước và tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 15.107 triệu đồng, tăng 0,3% và tăng 8,5%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 146.336 triệu đồng, tăng 0,4% và tăng 9,9%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 1.487 triệu đồng, tăng 1,3% và tăng 15,7%; doanh thu dịch vụ khác đạt 294.059 triệu đồng, tăng 1,3% và tăng 8,7%.
Tính chung 6 tháng đầu năm, doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 2.648.356 triệu đồng, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Dịch vụ lưu trú tăng 9,0%; ăn uống tăng 8,8%; du lịch lữ hành giảm 33,7%; dịch vụ khác tăng 7,0%.
3. Vận tải hành khách và hàng hoá
Vận tải hành khách và hàng hóa trên các tuyến ổn định, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đi lại của nhân dân. Vận tải hành khách tháng 6 ước tính đạt 315 nghìn lượt khách và 32.432 nghìn lượt khách.km, so với tháng trước tăng 1,6% và tăng 1,8%, so với cùng kỳ năm trước tăng 5,6% và tăng 6,0%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2018, vận tải hành khách ước đạt 1.841 nghìn lượt khách và 181.237 nghìn lượt khách.km, tăng 7,2% và tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải hành khách đường bộ ước đạt 1.690 nghìn lượt khách, tăng 7,3% và 179.661 nghìn lượt khách.km, tăng 7,7%.
Doanh thu vận tải hành khách tháng 6 ước tính đạt 29.178 triệu đồng, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, doanh thu vận tải hành khách đạt 168.214 triệu đồng, tăng 8,5%, trong đó doanh thu vận tải hành khách đường bộ 163.080 triệu đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2017.
Vận tải hàng hóa tháng 6 ước tính đạt 404 nghìn tấn và 47.531 nghìn tấn.km, so với tháng trước tăng 1,2% và tăng 1,4%, so với cùng kỳ năm trước tăng 6,0% và tăng 7,5%. Tính chung 6 tháng đầu năm, vận tải hàng hóa đạt 2.377 nghìn tấn, tăng 6,8% và 275.184 nghìn tấn.km, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải hàng hóa đường bộ ước đạt 2.348 nghìn tấn, tăng 6,8% và 274.427 nghìn tấn.km, tăng 7,7%.
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 6 ước tính đạt 145.402 triệu đồng, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, doanh thu vận tải hàng hóa đạt 830.889 triệu đồng, tăng 9,2%, trong đó doanh thu vận tải hàng hóa đường bộ 827.145 triệu đồng, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2017.
Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 6 ước tính đạt 4.496 triệu đồng, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 24.469 triệu đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bốc xếp hàng hóa đạt 158 triệu đồng, giảm 97,5%; doanh thu hoạt động khác 24.311 triệu đồng, tăng 53,5%.
4. Bưu chính viễn thông
Hoạt động bưu chính viễn thông duy trì bảo đảm thông suốt, an toàn, chất lượng ngày một nâng lên, phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh. Doanh thu bưu chính viễn thông 6 tháng đầu năm ước đạt 541.122 triệu đồng, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến cuối tháng 6/2018, tổng số thuê bao điện thoại ước tính đạt 920.844 thuê bao, giảm 9,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thuê bao di động đạt 872.742 thuê bao, giảm 9,5%; thuê bao cố định đạt 48.102 thuê bao, giảm 5,7%. Số thuê bao Internet ước đạt 75.045 thuê bao (trong đó phát triển mới 3.800 thuê bao), tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2017.
VI. VỐN ĐẦU TƯ
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2018 ước tính đạt 6.776.842 triệu đồng, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước và bằng 36,9% GRDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 2.314.156 triệu đồng, chiếm 34,1% tổng vốn và tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 4.450.944 triệu đồng, chiếm 65,7% và tăng 16,7%.
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1.293.159 triệu đồng, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn trung ương quản lý đạt 70.703 triệu đồng, giảm 46,7%; vốn địa phương quản lý đạt 1.222.456 triệu đồng, tăng 21,1%, trong đó: Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 905.049 triệu đồng, tăng 12,9%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 317.407 triệu đồng, tăng 53,0%.
Trong vốn đầu tư của khu vực ngoài Nhà nước, vốn của các tổ chức, doanh nghiệp ngoài Nhà nước 2.040.360 triệu đồng, tăng 37,6%; vốn đầu tư của dân cư 2.410.584 triệu đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 6 tháng đầu năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước chủ yếu ở nguồn vốn ngoài nhà nước, vốn trái phiếu chính phủ và vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý, nhưng còn thấp so với kế hoạch năm, một số dự án đã được phân bổ vốn nhưng chưa triển khai thực hiện do còn vướng mắc trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng... Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng cả năm như kế hoạch đề ra, bên cạnh việc tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư cho phát triển, trong những tháng cuối năm UBND tỉnh, các huyện, thành phố và các chủ đầu tư cần tiếp tục chỉ đạo chặt chẽ, quyết liệt, tăng cường rà soát, kiểm tra, đôn đốc các nhà thầu tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện kế hoạch vốn đầu tư công năm 2018 gắn với nâng cao trách nhiệm quản lý của người đứng đầu, các chủ đầu tư; tăng cường công tác tuyên truyền, vận động di dời và thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đúng quy định, kịp thời tháo gỡ khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng.
VII. TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
1. Thu, chi ngân sách nhà nước
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tháng 6 ước tính đạt 1.478,9 tỷ đồng, tăng 34,5% so với tháng trước và tăng 63,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Thu cân đối ngân sách nhà nước đạt 763,4 tỷ đồng, tăng 93,8% và tăng 154,0%; thu bổ sung từ ngân sách cấp trên 715,5 tỷ đồng, tăng 1,4% và tăng 18,0%.
Tính chung 6 tháng đầu năm, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước tính đạt 9.179,8 tỷ đồng, bằng 68,8% dự toán năm và tăng 38,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Thu cân đối ngân sách nhà nước đạt 5.026,8 tỷ đồng, bằng 109,6% và tăng 68,7%; thu bổ sung từ ngân sách cấp trên 4.153,0 tỷ đồng, bằng 47,4% và tăng 13,7%. Trong thu cân đối ngân sách nhà nước, thu nội địa ước đạt 2.100,7 tỷ đồng, bằng 47,2% và tăng 40,1%; thu hải quan ước đạt 24,5 tỷ đồng, bằng 68,2% và tăng 73,2%.
Tổng chi ngân sách nhà nước tháng 6 ước tính đạt 1.225,1 tỷ đồng, tăng 16,5% so với tháng trước và tăng 30,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 5.718,1 tỷ đồng, bằng 43,6% dự toán năm và tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước, đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cụ thể: Chi thường xuyên đạt 4.189,1 tỷ đồng, bằng 46,8% và tăng 15,7%; chi đầu tư phát triển đạt 882,7 tỷ đồng, bằng 57,3% và tăng 7,0%; chi chương trình mục tiêu quốc gia, hỗ trợ mục tiêu đạt 567,9 tỷ đồng, bằng 27,4% và tăng 37,3%.
2. Thu chi tiền mặt qua quỹ ngân hàng, tín dụng
Hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng trên địa bàn ổn định, tổng thu tiền mặt qua quỹ ngân hàng 6 tháng đầu năm ước thực hiện 50.551 tỷ đồng, tổng chi tiền mặt ước thực hiện 50.345 tỷ đồng, bội thu 206 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm trước tổng thu tiền mặt tăng 11,1%, tổng chi tiền mặt tăng 9,9%.
Dư nợ tín dụng ước đạt 30.600 tỷ đồng, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 13.400 tỷ đồng, tăng 17,6%; dư nợ trung dài hạn đạt 17.200 tỷ đồng, tăng 11,6%. Trong tổng dư nợ, dư nợ cho vay các đối tượng chính sách đến 31/5/2018 là 3.779 tỷ đồng, chiếm 12,4%; nợ xấu toàn địa bàn là 389 tỷ đồng, chiếm 1,3%.
Huy động vốn tại địa phương ước đến hết tháng 6/2018 đạt 16.100 tỷ đồng, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tiền gửi tiết kiệm 12.900 tỷ đồng, tăng 15,9%; tiền gửi các tổ chức kinh tế 3.120 tỷ đồng, tăng 14,4%; tiền gửi giấy tờ có giá 80 tỷ đồng, tăng 59,1%.
VIII. XUẤT, NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
1. Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 6 ước tính đạt 1.474,2 nghìn USD, tăng 143,9% so với tháng trước, chủ yếu do xuất khẩu chè đạt 1.449,3 nghìn USD, tăng 145,5%; xuất khẩu xi măng đạt 24,9 nghìn USD, tăng 75,4%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 6 tăng 81,7%, chủ yếu do xuất khẩu chè tăng 80,2% (mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn với 98,3% trong kim ngạch xuất khẩu); xuất khẩu xi măng tăng 8,2 lần. Thị trường xuất khẩu chủ yếu trong tháng: Apganixtan, Lào, Đài Loan.
Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 3.942,0 nghìn USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do xuất khẩu ngô giống đạt 352,5 nghìn USD, tăng 204,9%; xuất khẩu xi măng đạt 99,5 nghìn USD, tăng 195,3%; bên cạnh đó một số mặt hàng xuất khẩu giảm như: Xuất khẩu chè đạt 3.349,2 nghìn USD, giảm 2,7%; xuất khẩu lõi ngô ép đạt 28,6 nghìn USD, giảm 27,4%; xuất khẩu tơ tằm đạt 112,2 nghìn USD, cùng kỳ năm 2017 không phát sinh. Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm, Apganixtan là thị trường lớn nhất với kim ngạch đạt 2.710,4 nghìn USD; Đài Loan đạt 638,8 nghìn USD; Lào đạt 452,0 nghìn USD; Ấn Độ đạt 112,2 nghìn USD; Hàn Quốc đạt 28,6 nghìn USD.
2. Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 6 ước tính đạt 2.449,7 nghìn USD, tăng 29,0% so với tháng trước, chủ yếu do nhập khẩu máy móc thiết bị đạt 1.994,7 nghìn USD, tăng 36,2%; nhập khẩu cỏ Anphapha đạt 165,0 nghìn USD, tăng 13,0%; nhập khẩu phân bón đạt 290,0 nghìn USD, tăng 0,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 6 tăng 1,3%, trong đó nhập khẩu máy móc thiết bị tăng 11,4%; nhập khẩu cỏ Anphapha tăng 10,5%; riêng nhập khẩu phân bón giảm 39,6%.
Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 9.944,1 nghìn USD, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do nhập khẩu cỏ Anphapha tăng 35,2%; nhập khẩu máy móc thiết bị tăng 4,3%; riêng nhập khẩu phân bón giảm 10,8%.
IX. CHỈ SỐ GIÁ
1. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2018 tăng 0,40% so với tháng trước, trong đó khu vực thành thị tăng 0,38%, khu vực nông thôn tăng 0,42%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ, 07 nhóm có chỉ số giá tăng: Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,93%; giao thông tăng 0,89% (chủ yếu do giá xăng, dầu tăng 2,35%, bình quân giá xăng tăng 446 đồng/lít, giá dầu tăng 431 đồng/lít); hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,63% (lương thực tăng 0,10%; thực phẩm tăng 0,95%); nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng tăng 0,22% (chủ yếu ở mặt hàng gas tăng 4,64%; thép xây dựng tăng 0,81%;); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,21%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,10% (chủ yếu ở một số mặt hàng thiết bị điện phục vụ mùa hè tăng cao); văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,07%; 04 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tương đương tháng trước.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2018 tăng 1,62% so với bình quân cùng kỳ năm 2017. CPI tháng 6/2018 tăng 1,17% so với tháng 12/2017 và tăng 3,23% so với cùng kỳ năm trước. CPI 6 tháng đầu năm tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (1) Thực hiện Nghị định số 141/2017/NĐ-CP ngày 07/12/2017 về việc Quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động áp dụng từ ngày 01/01/2018; (2) Thực hiện tăng học phí các cấp theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP của Chính phủ, Nghị quyết số 126/2015/NQ-HĐND và số 51/2017/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh; (3) Thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế theo Nghị quyết số 54/2017/NQ-HĐND ngày 21/7/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh; (4) Giá xăng, dầu được điều chỉnh tăng mạnh 07 lần và giảm nhẹ 02 lần làm cho chỉ số giá xăng dầu bình quân 6 tháng đầu năm tăng 5,57% so với cùng kỳ.
Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI trong 6 tháng đầu năm, có một số yếu tố góp phần kiềm chế CPI: (1) Giá thịt gia súc tươi sống giảm mạnh 5,26% (đặc biệt là thịt lợn giảm 6,03%) do lượng cung trên thị trường lớn trong khi thị hiếu tiêu dùng thịt của người dân giảm dần đã tác động làm chỉ số giá thực phẩm giảm 1,92%; (2) Giá thiết bị điện thoại giảm 0,37% tác động làm chỉ số giá bưu chính viễn thông giảm 0,07%; (3) Các cấp, các ngành tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, đồng thời thực hiện các chính sách đảm bảo cân đối cung - cầu, bình ổn giá một số mặt hàng thiết yếu, ổn định giá cả thị trường trong dịp Tết Nguyên đán.
Dự báo tháng 7/2018 giá cả thị trường tăng nhẹ.
2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng tháng 6/2018 tăng 0,07% so với tháng trước, tăng 0,74% so với tháng 12/2017 và tăng 0,72% so với cùng kỳ năm trước, giá vàng 99,99% bán ra bình quân trong tháng là 3.679.400 đồng/chỉ.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2018 tăng 0,16% so với tháng trước, tăng 0,41% so với tháng 12/2017 và tăng 0,48% so với cùng kỳ năm trước.
X. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Dân số, lao động
Dân số trung bình toàn tỉnh năm 2017 đạt 1.225,97 nghìn người, tăng 17,72 nghìn người, tương đương 1,47% so với năm 2016, bao gồm dân số thành thị 167,25 nghìn người, chiếm 13,64%; dân số nông thôn 1.058,72 nghìn người, chiếm 86,36%; dân số nam 616,83 nghìn người, chiếm 50,31%; dân số nữ 609,14 nghìn người, chiếm 49,69%.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên toàn tỉnh năm 2017 đạt 755,65 nghìn người, tăng 4,86 nghìn người so với năm 2016, trong đó lao động nam 366,58 nghìn người, chiếm 48,51%; lao động nữ 389,07 nghìn người, chiếm 51,49%; lực lượng lao động ở khu vực thành thị 91,50 nghìn người, chiếm 12,11%; lực lượng lao động ở nông thôn 664,15 nghìn người, chiếm 87,89%.
2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Đời sống công chức, viên chức và người hưởng bảo hiểm xã hội 6 tháng đầu năm 2018 nhìn chung ổn định, thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động khu vực nhà nước 4.100 nghìn đồng, khu vực doanh nghiệp nhà nước 5.600 nghìn đồng, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 3.800 nghìn đồng và doanh nghiệp ngoài Nhà nước 3.400 nghìn đồng.
Đời sống dân cư nông thôn được cải thiện nhưng còn thiếu bền vững, tình trạng thiếu đói giáp hạt vẫn xảy ra tại các huyện Quỳnh Nhai, Thuận Châu, Mường La, Bắc Yên, Phù Yên, Mộc châu, cao điểm trong tháng 02/2018 với 5.276 hộ và 22.288 nhân khẩu thiếu đói; UBND các huyện đã hỗ trợ 290,79 tấn gạo, còn lại dân tự vay nhau để khắc phục thiếu đói.
Theo kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020 năm 2017, số hộ nghèo toàn tỉnh chiếm 29,22%, trong đó thành thị chiếm 3,24%, nông thôn 34,05%; hộ cận nghèo chiếm 11,23%.
Công tác an sinh xã hội tiếp tục được các cấp chính quyền địa phương, cơ quan chức năng quan tâm chỉ đạo, phối hợp thực hiện. Trong 6 tháng đầu năm, ngân hàng chính sách xã hội đã thực hiện các chương trình cho vay đối với 17.681 lượt hộ với tổng số tiền 514.966 triệu đồng; toàn tỉnh đã cấp 763.314 thẻ BHYT cho các đối tượng chính sách bảo trợ xã hội và 156.248 thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi; trao tặng 39.083 suất với tổng trị giá 15.453 triệu đồng và hỗ trợ 148,81 tấn gạo cho các hộ có nguy cơ đói trong dịp Tết Nguyên đán; trợ cấp thường xuyên cho 28.782 đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP; cấp 716.154 tờ báo và cuốn tạp chí cho đồng bào vùng dân tộc, miền núi. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và ngoài tỉnh đã hỗ trợ xây dựng xây nhà ở cho các đối tượng nghèo bị thiệt hại do mưa lũ, hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn…với tổng giá trị hơn 3,3 tỷ đồng; phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ trẻ em khuyết tật Việt Nam tổ chức khám sàng lọc cho 713 trẻ em khuyết tật và phối hợp với Bệnh viện Tim Hà Nội, Bệnh viện đa khoa tỉnh, Bệnh viện đa khoa Phù Yên khám sàng lọc cho 146 trẻ em bị tim bẩm sinh tại các huyện, thành phố.
Công tác tư vấn việc làm đạt 4.276 lượt người, trong đó có 1.382 lao động đi làm việc tại các doanh nghiệp ngoài tỉnh, 07 người tham gia xuất khẩu sang thị trường nước ngoài; chuyển đổi và tạo việc làm cho 11.000 lao động; thông tin thị trường lao động cho 92.899 lượt người; đăng thông tin người tìm việc cho 317 hồ sơ và việc tìm người cho 135 doanh nghiệp; tuyển sinh đào tạo dạy nghề đạt 2.300 học viên, tốt nghiệp 1.808 người.
Thực hiện chương trình nông thôn mới toàn tỉnh có 188/188 xã, trong đó 16 xã đạt chuẩn nông thôn mới; 08 xã đạt 15-18 tiêu chí; 34 xã đạt từ 10-14 tiêu chí; 130 xã đạt từ 5-9 tiêu chí.
3. Giáo dục và đào tạo
Trong 6 tháng đầu năm ngành Giáo dục đã tập trung chỉ đạo, triển khai và kết thúc các nhiệm vụ năm học 2017 - 2018; tổ chức thành công kỳ thi học sinh giỏi THCS cấp tỉnh với 858 học sinh dự thi và 370 học sinh đạt giải; thi học sinh giỏi THPT cấp tỉnh với 746 học sinh dự thi và 320 học sinh đạt giải; thi chọn học sinh giỏi Quốc gia THPT, có 48 học sinh dự thi, 10 học sinh đạt giải; thi Khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học, công nhận 02 giải nhất, 04 giải nhì, 18 giải ba và 32 giải khuyến khích, lựa chọn 06 dự án tham dự cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp Quốc gia, đạt 01 giải Nhì, 02 giải phụ; tổ chức thi và cấp chứng chỉ nghề phổ thông cho 10.225 học sinh THPT và THCS; tổ chức kỳ thi THPT quốc gia (ngày 25-27/6/2018), toàn tỉnh thành lập 01 Hội đồng thi với 43 điểm thi, dự kiến có 463 phòng với 10.442 thí sinh dự thi.
Kết quả năm học 2017-2018, chất lượng giáo dục các cấp học trong tỉnh có chuyển biến tốt, tỷ lệ học sinh xếp loại học lực, văn hóa khá, giỏi tăng so với năm học trước, cụ thể: Đối với cấp mầm non, 100% trẻ 5 tuổi được học 2 buổi/ngày; cấp tiểu học hoàn thành tốt 45,2%, hoàn thành 52,4%, chưa hoàn thành 2,4%; cấp trung học cơ sở 9,7% xếp loại học lực giỏi, 39,3% học lực khá, 49,8% học lực trung bình, 1,2% học lực yếu; cấp trung học phổ thông 7,5% học lực giỏi, 46,9% học lực khá, 44,6% học lực trung bình, 1,0% học lực yếu; đối với giáo dục thường xuyên, 0,4% học lực giỏi, 18,5% học lực khá, 73,7% học lực trung bình, 7,4% học lực yếu; 12 huyện, thành phố duy trì và giữ vững đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi, chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và giáo dục THCS mức độ 01; toàn tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và giáo dục THCS với cùng mức độ 01; trên địa bàn tỉnh hiện có 261/828 trường đạt chuẩn quốc gia, 53/828 trường đạt chuẩn chất lượng giáo dục.
Giáo dục chuyên nghiệp phối hợp tuyển sinh, đón tiếp 135 lưu học sinh 09 tỉnh Bắc Lào sang đào tạo tiếng Việt.
4. Y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân
Ngành Y tế tăng cường chỉ đạo về phòng chống dịch bệnh, thực hiện tốt việc theo dõi, giám sát, phát hiện sớm và xử lý kịp thời các trường hợp mắc bệnh, đặc biệt là sốt xuất huyết, dịch sởi, tiêu chảy cấp, cúm A(H7N9); tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định pháp luật về an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh…Trong 6 tháng đầu năm xảy ra 06 vụ dịch với 127 ca mắc, từ vong 01 trường hợp; số người nhiễm HIV 80 trường hợp; tử vong do AIDS 53 trường hợp; ngộ độc thực phẩm 08 vụ với 471 người mắc và 504 trường hợp mắc rải rác tại các bệnh viện, không có tử vong.
Chỉ đạo các đơn vị tổ chức tốt công tác khám, điều trị, cấp cứu, tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ. Tổng số lượt khám bệnh tại các cơ sở y tế trong 6 tháng đầu năm là 714.967 lượt; số bệnh nhân điều trị nội trú 90.688 người; số bệnh nhân điều trị ngoại trú 388.906 người; số bệnh nhân chuyển tuyến 50.029 lượt, trong đó chuyển về Trung ương 3.616 lượt. Tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế về lĩnh vực y tế. Triển khai Chiến dịch truyền thông bảo đảm an toàn thực phẩm dịp Tết Nguyên đán từ ngày 10/01/2015 đến 30/3/2015; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh trước, trong và sau Tết; đặc biệt lưu ý các cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm phục vụ tết như: bánh, mứt, kẹo, bia rượu, nước giải khát, thịt, thực phẩm chế biến sẵn (giò, chả, nem chạo, ...), kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng các chất phụ gia trong chế biến thực phẩm, thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm tại địa phương nhằm giảm tối đa số vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra trong dịp tết. Tăng cường kiểm tra, giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có quy mô lớn, tại các chợ đầu mối, các điểm diễn ra những hoạt động văn hóa (hoạt động mừng xuân Ất Mùi, hội chợ xuân…).
5. Văn hóa, thông tin, thể thao
Hoạt động văn hóa 6 tháng đầu năm tập trung vào chào mừng các ngày Lễ lớn, các hoạt động mừng Đảng, mừng xuân Mậu Tuất và các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tổ chức chiếu phim 1.804 buổi, phục vụ 764.300 lượt người xem; biểu diễn tuyên truyền 05 buổi, thu hút 10.000 lượt người xem; biểu diễn chương trình nghệ thuật 41 buổi, phục vụ trên 80.000 lượt người xem; phục vụ 255.130 lượt khách tham quan tại Bảo tàng tỉnh và các điểm di tích.
Các hoạt động văn hóa, thể thao được tổ chức dưới nhiều hình thức và nhận được sự hưởng ứng của đông đảo quần chúng nhân dân như: Chương trình nghệ thuật "Chào năm 2018", "Bản tình ca bên Sông Đà", "Hoa đào vùng cao", "Bản tình ca mùa xuân", "Sắc xuân Sơn La", "Khúc giao mùa", "Vì biển đảo thân yêu", "Quỳnh Nhai ngày mở hội"; Gameshow "Về bản em"; các triển lãm ảnh tuyên truyền chủ đề: "Biển đảo và người chiến sỹ Hải quân; Sơn La chung sức xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới biển đảo của Tổ quốc", kỷ niệm 50 năm "cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - bước ngoặt lịch sử", "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - những bằng chứng lịch sử và pháp lý", "Thể thao Sơn La một chặng đường phát triển", "Thành tựu phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng tỉnh Sơn La giai đoạn 2013 - 2018", "70 năm Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Sơn La thực hiện lời kêu gọi thi đua Ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh"…
Tổ chức thành công Đại hội TDTT tỉnh Sơn La lần thứ VIII năm 2018 với sự tham gia của 560 VĐV thuộc 12 huyện, thành phố, 06 ngành, đơn vị lực lượng vũ trang và các trường chuyên nghiệp. Tổ chức thành công Giải thể thao người khuyết tật, Giải cầu lông thanh thiếu niên năm 2018.
Thể thao thành tích cao duy trì công tác huấn luyện, quản lý các đội tuyển tỉnh (36 VĐV), đội tuyển trẻ (63 VĐV), đội năng khiếu (44 VĐV). Tham gia thi đấu và giành được 54 huy chương các loại (14 HCV, 14 HCB, 26 HCĐ) tại các giải thể thao toàn quốc và khu vực, trong đó nổi bật là môn điền kinh tham gia giải vô địch trẻ tại Thái Lan đạt 01 HCB, 02 lượt VĐV cấp I; 02 lượt VĐV được phong kiện tướng quốc gia.
Phát thanh tiếng phổ thông thực hiện 543 chương trình, sử dụng 3.609 tin, bài, phóng sự và 670 chuyên đề, chuyên mục; tiếng dân tộc 724 chương trình, sử dụng 3.298 tin, bài, phóng sự, gương người tốt, việc tốt, 658 chuyên đề, chuyên mục.
Truyền hình tiếng phổ thông thực hiện 1.636 chương trình, sử dụng 6.199 tin, bài, phóng sự, gương người tốt, việc tốt và 1.387 chuyên đề, chuyên mục; tiếng dân tộc 414 chương trình, sử dụng 4.040 tin, bài, phóng sự, gương người tốt, việc tốt và 204 chuyên đề, chuyên mục; 52 chương trình cộng tác với VTV.
6. Công tác phòng chống ma tuý
Tính đến ngày 15/6/2018, toàn tỉnh có 8.721 người nghiện ma tuý đang trong diện quản lý, trong đó có 1.873 người đang cai nghiện tập trung tại các cơ sở điều trị nghiện ma túy (1.821 trường hợp cưỡng chế, 13 tự nguyện, 35 hỗ trợ cắt cơn), 04 người đang quản lý sau cai, 1.357 người đang điều trị bằng Methadone.
Trong 6 tháng đầu năm đã phát hiện, bắt giữ 679 vụ, 922 đối tượng; triệt xoá 60 điểm, 71 đối tượng có liên quan đến ma tuý; vận động, bắt 10 đối tượng truy nã về ma tuý. Hiện trên địa bàn tỉnh còn 10 điểm, 52 đối tượng có biểu hiện bán lẻ, chứa chấp, tổ chức sử dụng ma túy ở 32 tổ, bản thuộc 18 xã, thị trấn.
7. An toàn giao thông
Trong tháng (từ 16/5 đến 15/6), trên địa bàn tỉnh xảy ra 17 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 12 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 05 vụ va chạm giao thông, làm 07 người chết và 12 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giao thông tăng 70,0% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 100,0%; số vụ va chạm giao thông tăng 25,0%), số người chết tăng 50,0%, số người bị thương tăng 33,3%.
Tính chung 6 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 71 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 58 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 13 vụ va chạm giao thông, làm 45 người chết và 56 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn tương đương (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 18,4%; số vụ va chạm giao thông giảm 40,9%), số người chết tăng 12,5%, số người bị thương giảm 8,2%.
8. Thiệt hại do thiên tai
Trong 6 tháng đầu năm 2018, trên địa bàn tỉnh xảy ra rét đậm, rét hại cùng mưa đá, gió lốc tại các huyện Thuận Châu, Quỳnh Nhai, Mường La, Bắc Yên, Mộc Châu, Sông Mã, Sốp Cộp, Vân Hồ đã ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống của nhân dân. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai làm 09 người chết, 10 người bị thương; 2.142 nhà ở bị thiệt hại, hư hỏng, tốc mái; 12 ha lúa, 136 ha hoa màu, rau màu, 1.134 ha cây ăn quả và cây lâu năm khác bị hư hỏng; 7.614 cây ăn quả bị gãy đổ; 1.738 con gia súc, 179 con gia cầm chết; 112 lồng bè, 56 thuyền máy và 14 tấn thủy sản bị thiệt hại... Tổng giá trị thiệt hại trong 6 tháng đầu năm ước tính hơn 137,5 tỷ đồng.
9. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Trong tháng 6/2018, cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý 45 vụ vi phạm các quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường với tổng số tiền phạt 221 triệu đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm nay đã phát hiện 257 vụ vi phạm các quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường, trong đó xử lý 253 vụ với tổng số tiền phạt 992 triệu đồng.
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy, nổ, thiệt hại ước tính 42 triệu đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh xảy ra 20 vụ cháy, nổ làm 01 người chết, 02 người bị thương, thiệt hại ước tính 3.292 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước, số vụ cháy, nổ giảm 9,1%, số người chết tương đương và thiệt hại ước tính tăng 13,8%.
Khái quát lại, kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2018 đã có chuyển biển theo hướng tích cực; kinh tế đạt mức tăng trưởng khá; sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản được duy trì ổn định; môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục cải thiện; thị trường hàng hoá phát triển, cân đối cung cầu và lưu thông hàng hoá thông suốt; các lĩnh vực lao động, việc làm, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện và đạt kết quả nhất định, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi, hỗ trợ mở rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả, tạo việc làm, tăng thu nhập. Bên cạnh những kết quả đạt được, trong 6 tháng đầu năm nay vẫn còn một số hạn chế, bất cập: Tiến độ triển khai thực hiện một số chương trình, dự án, nguồn vốn chậm, giải ngân thanh toán đạt thấp; kết quả huy động các nguồn vốn đầu tư xã hội hóa còn hạn chế, chính sách thu hút đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư; chất lượng thu ngân sách còn hạn chế, tình trạng nợ thuế lớn, kéo dài chưa được xử lý triệt để, vẫn còn phát sinh nợ thuế mới; tình trạng thiếu đói giáp hạt vẫn xảy ra với số hộ và số nhân khẩu thiếu đói tăng so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2018 có ý nghĩa rất quan trọng, năm bản lề thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, dự báo kinh tế của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, thách thức: Chất lượng tăng trưởng thấp; cơ sở hạ tầng còn thiếu và yếu; năng suất lao động và sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực, các thành phần kinh tế chưa đạt hiệu quả cao; đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới và vùng tái định cư còn gặp nhiều khó khăn; công tác giảm nghèo chưa thực sự bền vững, khả năng tái nghèo còn cao; khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng, các nhóm dân cư còn lớn.
Để thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, trong thời gian tới các cấp, các ngành cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018; cần đẩy mạnh các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ giữ ổn định vĩ mô; thực hiện nghiêm Luật ngân sách Nhà nước, quản lý chặt chẽ các khoản thu phát sinh trên địa bàn, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời; tăng cường các biện pháp chống thất thu, thu hồi nợ đọng thuế; kiểm soát chặt chẽ các khoản chi từ ngân sách Nhà nước, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, triệt để tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, mua sắm, hội họp; tập trung đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công được giao năm 2018, có giải pháp thu hút và huy động các nguồn vốn đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ưu tiên tập trung vốn cho các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, kinh tế tập thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, khuyến khích liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn với mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa nông sản địa phương; khai thác và phát huy hiệu quả các cơ sở sản xuất công nghiệp, đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô, nâng cao công suất, chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp trên địa bàn; đẩy mạnh phát triển thị trường thương mại, dịch vụ, tăng cường các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu; tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và các chính sách an sinh xã hội; thực hiện tốt công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống; tăng cường công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ./.