(MPI) - Ngày 15/10/2019, tại Phiên họp thứ 38, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về các báo cáo đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2019; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2020. Thừa Ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày Báo cáo tóm tắt về tình hình kinh tế - xã hội năm 2019 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020.
|
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trình bày báo cáo tại phiên họp. Ảnh: quochoi.vn |
Năm 2019 là năm thứ 2 liên tiếp ước đạt và vượt toàn bộ 12/12 chỉ tiêu chủ yếu Quốc hội giao
Báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, năm 2019, tình hình quốc tế biến động phức tạp, diễn biến không thuận lợi. Kinh tế và thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm; cạnh tranh địa chính trị, địa kinh tế; chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc; giá cả thế giới biến động mạnh, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế tăng; tình hình khu vực, biển Đông diễn biến phức tạp... Bên cạnh đó, những khó khăn, hạn chế nội tại của nền kinh tế trong nước và thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ảnh hưởng lớn tới đời sống người dân và hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là ngành nông nghiệp.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng nhờ sự vào cuộc quyết liệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, chúng ta đã hoàn thành toàn diện các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019. Đây là năm thứ 2 liên tiếp ước đạt và vượt toàn bộ 12/12 chỉ tiêu chủ yếu Quốc hội giao, trong đó 5 chỉ tiêu vượt và 7 chỉ tiêu đạt. Tăng trưởng kinh tế đạt khá, trong khi kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện, chất lượng cuộc sống người dân.
Kết quả toàn diện và tích cực này thể hiện sự đúng đắn, phù hợp trong chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; sự chỉ đạo điều hành quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả của Chính phủ, các cấp, các ngành; sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội; sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể; đặc biệt là sự quyết tâm, đồng lòng, hợp lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch đề ra; được các tổ chức quốc tế đánh giá cao, tạo tiền đề vững chắc bước vào năm 2020 và phấn đấu thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016 - 2020.
Tăng trưởng kinh tế đạt khá, năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng tiếp tục được cải thiện, kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc. Tốc độ tăng GDP ước đạt 6,8%, hoàn thành mục tiêu ở mức cao theo Nghị quyết của Quốc hội; thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao của khu vực, quốc tế. Quy mô GDP tăng lên khoảng 266,5 tỷ USD, bình quân đạt 2.786 USD/người. Năng suất lao động đạt khá, mô hình tăng trưởng chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác khoáng sản và tăng trưởng tín dụng, từng bước chuyển sang dựa vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được kiểm soát ở mức 2,7-3%. Thị trường tài chính, tiền tệ, ngoại hối ổn định, hệ số tín nhiệm quốc gia được cải thiện. Tổng thu ngân sách nhà nước ước vượt 3,3% dự toán; tổng chi cân đối ước đạt trên 1,6 triệu tỷ đồng, trong đó tỷ trọng chi đầu tư phát triển đạt khoảng 26,6%; bội chi ngân sách nhà nước bằng khoảng 3,4% GDP, nợ công giảm còn 57% GDP. Kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 7,9%, đạt khoảng 263 tỷ USD; xuất siêu dự báo đạt khoảng 1 tỷ USD.
Cơ cấu lại nền kinh tế dần đi vào thực chất, đúng hướng; trong bối cảnh khó khăn chung, các ngành, lĩnh vực vẫn phát triển ổn định, tích cực. Khu vực công nghiệp tăng trưởng khá, chuyển dịch cơ cấu nội ngành có bước thực chất hơn, công nghiệp chế biến, chế tạo giữ vai trò động lực phát triển toàn ngành và toàn nền kinh tế. Khu vực dịch vụ duy trì đà tăng trưởng cao, từng bước trở thành động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế.
Môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục được cải thiện, số lượng doanh nghiệp thành lập mới duy trì ở mức cao, vốn đăng ký tăng mạnh. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tập trung đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính, tiết giảm chi phí cho doanh nghiệp, hỗ trợ tiếp cận thị trường nguồn lực, đất đai, mặt bằng, tạo mọi thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Đây là một nguyên nhân quan trọng thúc đẩy giải phóng sức sản xuất, phát triển mạnh mẽ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực động lực của tăng trưởng kinh tế. Phát triển doanh nghiệp đạt kết quả tích cực, phát huy sức lan tỏa tinh thần khởi nghiệp, phát triển sôi động các mô hình kinh doanh đổi mới, sáng tạo; ước cả năm có thêm 134 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và khoảng 23.800 hợp tác xã, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển mạnh.
Huy động được nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là đầu tư tư nhân, cơ cấu đầu tư tiếp tục dịch chuyển tích cực. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 33,8% GDP, đạt mục tiêu đề ra. Cơ cấu đầu tư dịch chuyển đúng hướng, tăng cường thu hút các nguồn lực xã hội, trong đó, tỷ trọng đầu tư của khu vực Nhà nước giảm còn 31,7%; khu vực ngoài nhà nước tăng, đạt 45,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 23%. Riêng 9 tháng đầu năm, vốn đầu tư nước ngoài giải ngân đạt 14,2 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay, vốn bổ sung của doanh nghiệp trong nước đạt trên 3 triệu tỷ đồng…
Bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn một số hạn chế, tồn tại và khó khăn, thách thức đó là kinh tế vĩ mô ổn định nhưng một số yếu tố chưa thực sự vững chắc, nhất là trong bối cảnh chịu ảnh hưởng lớn của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc. Tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công chậm. Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động chưa đáp ứng yêu cầu. Sắp xếp, cơ cấu lại, cổ phần hóa DNNN, thoái vốn nhà nước chuyển biến chưa rõ nét. Tình hình sản xuất kinh doanh một số lĩnh vực gặp nhiều khó khăn; số lượng doanh nghiệp thành lập mới nhiều và tăng mạnh nhưng chủ yếu là nhỏ và vừa, năng lực cạnh tranh thấp, chưa gắn kết hiệu quả với khu vực FDI…
Khu vực nông nghiệp chịu tác động, ảnh hưởng lớn của dịch tả lợn châu Phi, thiên tai, nắng nóng, hạn hán, biến đổi khí hậu; giá nhiều mặt hàng nông sản chủ lực giảm. Nhiều ngành công nghiệp tỷ lệ nội địa hóa thấp, phụ thuộc lớn vào đầu vào nhập khẩu; trình độ công nghệ sản xuất tuy đã được cải thiện nhưng còn thấp, chủ yếu là gia công. Chất lượng dịch vụ còn thấp, chi phí logistics cao. Năng lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm chủ lực và của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế. Thị trường bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro.
Việc thực hiện các đột phá chiến lược chưa đáp ứng yêu cầu. Quy trình ban hành văn bản pháp luật và một số quy định pháp luật còn bất cập. Thực thi pháp luật ở nhiều nơi chưa nghiêm. Phát triển kết cấu hạ tầng, trong đó có hạ tầng đô thị chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Một số công trình kết cấu hạ tầng chậm tiến độ. Đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế, nhất là nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thiếu cơ chế liên kết vùng thực sự hiệu quả.
Những hạn chế, tồn tại nêu trên có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Có nơi còn thiếu tinh thần quyết tâm, chậm đổi mới, chưa dám nghĩ, dám làm, chưa thực sự quyết liệt hành động; vẫn còn tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Kỷ luật, kỷ cương nhiều nơi còn bị buông lỏng, hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước và thực thi chính sách, pháp luật còn hạn chế.
Về dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, mục tiêu tổng quát của năm 2020 là tập trung ổn định kinh tế vĩ mô; kiểm soát lạm phát; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thể chế, khơi thông nguồn lực; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi. Thúc đẩy mạnh mẽ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án quan trọng quốc gia, công trình trọng điểm; phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn, thị trường trong nước và các ngành dịch vụ, du lịch. Phát triển nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững. Chú trọng các lĩnh vực văn hóa, xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu. Tiếp tục tinh gọn bộ máy; tinh giản biên chế; cải cách hành chính, cải cách tư pháp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Làm tốt công tác thông tin truyền thông, tạo đồng thuận xã hội, khơi dậy khát vọng, tự hào dân tộc. Củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thực hiện tốt vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020; giữ vững độc lập, chủ quyền, lãnh thổ quốc gia và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển; nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Để đạt được những mục tiêu đề ra, trong năm 2020, Chính phủ sẽ tiếp tục tập trung vào các giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực đầu tư; rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế.
Tiếp tục củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng, phù hợp với cân đối vĩ mô, diễn biến thị trường và yêu cầu quản lý; thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, tiết kiệm, công khai, minh bạch; tăng cường xúc tiến thương mại; phát triển mạnh thị trường trong nước.
Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; tiếp tục cơ cấu lại các ngành công nghiệp thực chất hơn nữa; thúc đẩy phát triển nông nghiệp quy mô lớn, hiện đại, ứng dụng công nghệ cao; tập trung phát triển các ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức, công nghệ và giá trị gia tăng cao. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, pháp luật về vùng.
Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển hạ tầng theo phương thức đối tác công - tư; tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ các dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam, Cảng hàng không quốc tế Long Thành, dự án đường sắt đô thị và các dự án trọng điểm, có sức lan tỏa cao.
Đồng thời, tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế; đa dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng nguồn lực; tạo đột phá thu hút nguồn vốn khu vực tư nhân; thu hút có chọn lọc và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài; tích cực chuẩn bị xây dựng Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học, công nghệ; phát triển nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng công nghệ cốt lõi; nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự là động lực chính của mô hình tăng trưởng kinh tế; có các chính sách và thể chế đột phá cho các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới.
|
Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra. Ảnh: quochoi.vn |
Những kết quả đạt được là sự đóng góp của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân
Báo cáo kết quả thẩm tra của Ủy ban Kinh tế về đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, xây dựng Kế hoạch năm 2020, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, mặc dù đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, năm 2019 là một năm đạt được những chuyển biến tích cực, toàn diện trên nhiều khía cạnh, đạt tương đối đồng bộ các mục tiêu tổng quát đã được Quốc hội đề ra. Đây là năm thứ 2 liên tiếp ước đạt và vượt toàn bộ 12/12 chỉ tiêu Quốc hội giao (7 chỉ tiêu ước đạt và 5 chỉ tiêu ước vượt kế hoạch). Kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng GDP ước đạt 6,8%, lạm phát đạt dưới 3% và bội chi ngân sách đạt 3,4% GDP trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến động.
Sản xuất công nghiệp đạt kết quả cao với trọng tâm là công nghiệp chế biến, chế tạo. Tăng trưởng của ngành nông nghiệp đạt khá, lĩnh vực thủy sản, lâm nghiệp đạt kết quả cao, việc ổn định sản xuất chăn nuôi được thực hiện quyết liệt. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt mục tiêu sớm hơn so với kế hoạch. Đóng góp của khu vực dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng, Việt Nam tiếp tục là điểm đến thu hút khách du lịch quốc tế. Cán cân thương mại giữ được nhịp tăng trưởng cao, mức tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước được cải thiện.
Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá, phát huy vai trò động lực của khu vực kinh tế tư nhân. Đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông tiếp tục được cải thiện. Hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân có bước phát triển, năng suất lao động tiếp tục được cải thiện. Hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều thành tựu quan trọng; quan hệ đối ngoại nghị viện phát triển mạnh mẽ, đi vào chiều sâu. Các lĩnh vực khoa học công nghệ, lao động, việc làm, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và các lĩnh vực khác có một số kết quả nhất định.
Công tác điều hành của Chính phủ tiếp tục có nhiều đổi mới, tập trung vào xử lý nhiều vấn đề kinh tế - xã hội khó khăn, trong đó có vấn đề biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long. Các bộ, ngành có nhiều nỗ lực để rà soát, loại bỏ thủ tục, điều kiện kinh doanh bất hợp lý.
Những kết quả trên là rất đáng khích lệ, có sự đóng góp của cả hệ thống chính trị và sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân, trong đó trước hết là sự quyết liệt, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ quan tâm, đánh giá kỹ hơn một số vấn đề để thấy rõ hơn những kết quả đạt được và tiếp tục duy trì những thành tựu nêu trên, bảo đảm tính bền vững trong phát triển kinh tế.
Cụ thể, Ủy ban Kinh tế đề nghị phân tích rõ động lực, chất lượng của tăng trưởng để phát huy cho các năm sau, đánh giá thực trạng và tác động của khoa học, công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế. Có ý kiến đề nghị phân tích về tổng thu nhập quốc gia (GNI) để đánh giá đầy đủ về nền kinh tế.
Về sản xuất công nghiệp, việc phát triển thương hiệu quốc gia, sức cạnh tranh sản phẩm và bảo vệ thương hiệu trong nước vẫn chưa phát huy hiệu quả. Nội địa hóa, liên kết sản xuất sản phẩm cơ khí chế tạo và hỗ trợ thị trường còn hạn chế. Các ngành công nghiệp hỗ trợ còn chậm phát triển.
Về sản xuất nông nghiệp, ngành nông nghiệp còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực nhưng kết quả chưa đồng đều giữa các vùng, miền. Ngành thủy sản gặp bất lợi khi Ủy ban Châu Âu chưa xem xét việc gỡ “Thẻ vàng”; cần làm rõ trách nhiệm của một số địa phương trong kiểm tra, giám sát tại cảng cá và hệ thống giám sát tàu cá.
Về khu vực dịch vụ, sự dịch chuyển nhanh chóng về loại hình, sản phẩm du lịch đặt ra yêu cầu cấp bách đối với các nhà quản lý, doanh nghiệp du lịch Việt Nam cần nâng cao hơn chất lượng và hiệu quả. Có ý kiến cho rằng việc quản lý các mô hình kinh doanh du lịch mới còn thiếu hành lang pháp lý, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn.
Về hoạt động thương mại, mức tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước có cải thiện nhưng nhập siêu của khu vực này còn lớn. Đề nghị phân tích rõ hơn các yếu tố tác động đến tốc độ tăng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Mỹ; nhập siêu từ Trung Quốc tăng. Đề nghị đánh giá cụ thể hơn những yếu tố, mặt hàng có đóng góp tích cực vào xuất khẩu. Cần phân tích thêm về công tác phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, xuất xứ hàng hóa; công tác quản lý nhà nước về thương mại điện tử.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị làm rõ thêm các nội dung về chỉ số giá tiêu dùng, vốn đầu tư, thu, chi ngân sách nhà nước, lĩnh vực ngân hàng, hoạt động doanh nghiệp, môi trường kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, lĩnh vực lao động, giáo dục, y tế, phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, về môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế…
Thẩm tra của Ủy ban Kinh tế cơ bản thống nhất về mục tiêu tổng quát cũng như các nhiệm vụ, giải pháp mà Chính phủ đề ra cho năm 2020. Đồng thời đề nghị, làm rõ cơ sở của một số chỉ tiêu cụ thể; quan tâm thêm các nhóm giải pháp, nhiệm vụ. Trong đó có bảo đảm tiến độ xây dựng và chất lượng các dự án luật, tổ chức thực hiện có hiệu quả các luật đã ban hành. Thực hiện quyết liệt việc cắt giảm thủ tục hành chính một cách thực chất, minh bạch và xử lý nghiêm sai phạm trong thực thi công vụ. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương.
Rà soát, cơ cấu lại hợp lý một số khoản chi; kiên quyết điều chỉnh vốn của các dự án không triển khai được cho các dự án khác; hạn chế chuyển nguồn quá lớn cho năm sau. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, tiến độ các công trình trọng điểm quốc gia. Tăng cường giám sát chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước… Kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; chú trọng phát triển nền tài chính toàn diện.
Đồng thời, phát triển đồng bộ thị trường khoa học, công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Quyết liệt trong kiểm soát dịch bệnh ở gia súc, gia cầm, ổn định sản xuất; đẩy mạnh phát triển nông, lâm nghiệp và thủy sản; tăng cường dự báo, cảnh báo sớm. Chấn chỉnh, xử lý nghiêm sai phạm trong quản lý đất đai. Tiếp tục rà soát nội dung cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA); điều chỉnh chính sách đầu tư phù hợp để tận dụng cơ hội từ các FTA. Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, quốc phòng, kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền quốc gia.
|
Toàn cảnh phiên họp. Ảnh: quochoi.vn |
Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng tình với báo cáo của Chính phủ và các báo cáo thẩm tra
Liên quan đến kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 về các mục tiêu, giải pháp, đặc biệt là những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; đánh giá cơ cấu của các báo cáo, cân đối giữa kinh tế - xã hội với các mảng khác như quốc phòng, an ninh, tư pháp, đối ngoại… Đánh giá về những mục tiêu, giải pháp của năm 2020 có gắn với mục tiêu kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 liên quan đến đầu tư công, tài chính công, các giải pháp, các nhiệm vụ phù hợp với tinh thần Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Đảng để tìm ra những biện pháp cần tập trung thực hiện để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2020.
Phát biểu tại phiên họp, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng tình với báo cáo của Chính phủ và các báo cáo thẩm tra và cho rằng mặc dù năm 2019 tình hình quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc, thị trường trong nước và quốc tế biến động khá mạnh, trong điều kiện nền kinh tế nước ta có độ mở lớn và hội nhập sâu, thiên tai, dịch bệnh, môi trường ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh và đời sống người dân. Song với sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước, sự cố gắng của các thành phần kinh tế và Nhân dân, tình hình năm 2019 đạt những kết quả toàn diện và khá tích cực.
Tăng trưởng kinh tế ước đạt 6,8% và có thể đạt gần 7% nếu cố gắng. Quy mô của nền kinh tế, thu nhập bình quân đầu người đều tăng. Cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng có nhiều chuyển biến tích cực. Kinh tế vĩ mô xét trên cả 4 mặt gồm CPI, cán cân xuất nhập khẩu, bội chi và nợ công, lao động việc làm đều đạt ổn định và có bước phát triển tốt, từ đó tạo sự phát triển vững chắc cho nền kinh tế, tăng sự tín nhiệm về tài chính nước ta.
Cùng với kinh tế thì văn hóa xã hội, lao động, y tế, an ninh trật tự an toàn xã hội có nhiều tiến bộ, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Công tác quốc phòng an ninh được đảm bảo. Hoạt động đối ngoại tích cực. Công tác xây dựng chính quyền có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước được nâng lên.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao sự cố gắng của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp, các tầng lớp Nhân dân trong triển khai nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong năm 2019.
Bên cạnh đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng thống nhất với các tồn tại hạn chế được nêu trong báo cáo thẩm tra và nhấn mạnh, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng mặc dù có nhiều chuyển biến nhưng chưa thực sự rõ nét, và chưa thực sự mạnh mẽ, chưa đi vào những khâu những lĩnh vực mang tính cốt lõi như công nghệ đổi mới sáng tạo, cơ khí, công nghiệp phụ trợ; nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp xanh, sạch, chất lượng cao; chất lượng sản phẩm du lịch; vấn đề thị trường chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng…Việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), xử lý tồn tại hạn chế trong hoạt động của các DNNN còn chậm. Quản lý và gắn với hiệu quả kinh doanh của các lĩnh vực như FDI còn những mặt cần phải tăng cường. Doanh nghiệp tư nhân phát triển khá nhưng vẫn gặp khó khăn. Liên kết vùng còn nhiều hạn chế.
Về xây dựng cơ sở hạ tầng là một trong ba đột phá chiến lược nhưng triển khai chưa mạnh, chưa đồng bộ, chưa có chiều sâu. Một số dự án trọng điểm quốc gia còn những hạn chế, hạ tầng truyền tải điện đang có những vấn đề cần được củng cố.
Các giải pháp để xử lý ô nhiễm môi trường, phòng chống thiên tai, chống sạt lở bờ biển, chống xâm ngập mặn, tình trạng thiếu nước ngọt, chặt phá rừng… còn diễn biến phức tạp, chưa có biện pháp ngăn chặn hiệu quả. Công tác xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới thì đời sống một bộ phận nông dân còn những khó khăn, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng thống nhất với các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể và các nhiệm vụ giải pháp cho năm 2020 như Chính phủ trình nhưng cũng đề nghị làm rõ hơn bối cảnh, tình hình, thách thức có thể xảy ra, tác động đến tăng trưởng trong nước… Cần làm rõ các căn cứ để xác định các chỉ tiêu cụ thể. Đồng thời, chú trọng các giải pháp khắc phục tồn tại hạn chế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy nhanh đầu tư công, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Thực hiện tốt nguyên tắc tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, văn hóa xã hội, môi trường, tạo nên sự phát triển bền vững.
Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng, mục tiêu tổng quát của năm 2020 là tiếp tục duy trì sự ổn định của kinh tế vĩ mô nhưng để duy trì được trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế diễn biến phức tạp, xu hướng bảo hộ thương mại, tranh chấp thương mại, tranh chấp địa chính trị của các nước lớn sẽ có tác động đến sản xuất, xuất nhập khẩu của Việt Nam. Các cơ quan hữu quan cần có giải pháp, chuẩn bị kế hoạch hành động cụ thể ứng phó với tình hình và báo cáo của Chính phủ cần phải bổ sung nhiệm vụ, giải pháp cho vấn đề vĩ mô này, cũng như tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại thế hệ mới mang lại, chủ động ứng phó với rủi ro, thách thức khi hội nhập.
Kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị báo cáo của Chính phủ cần nhấn mạnh năm 2020 là năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm thì cần dự báo kết quả thực hiện 5 năm như thế nào. Đồng thời, đề nghị các cơ quan hữu quan tiếp thu đầy đủ ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hoàn thiện báo cáo, nghị quyết, báo cáo thẩm tra để trình lên Quốc hội./.
Thúy Quyên
Bộ Kế hoạch và Đầu tư