(MPI) - Là một quốc gia thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, Việt Nam tích cực tham gia vào tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (PTBV) trên thế giới. Các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) đã được Việt Nam quốc gia hóa thông qua việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự PTBV vào tháng 5 năm 2017.
|
Ảnh minh họa. Nguồn: MPI |
Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chương trình nghị sự 2030 và Các mục tiêu PTBV là Chiến lược phát triển lâu dài của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cam kết tập trung mọi nguồn lực, huy động sự tham gia của tất cả các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, cộng đồng và người dân để thực hiện thành công Chương trình nghị sự 2030 và Các mục tiêu phát triển bền vững.
Mục tiêu tổng quát PTBV đến năm 2030 của Việt Nam là duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệmôi trường sinh thái, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm mọi người dân được phát huy mọi tiềm năng, tham gia và thụ hưởng bình đẳng thành quả của phát triển; xây dựng một xã hội Việt Nam hòa bình, thịnh vượng, bao trùm, dân chủ, công bằng, văn minh và bền vững.
Các mục tiêu cụ thể PTBV đến năm 2030 của Việt Nam bao gồm 17 mục tiêu: Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi; Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững; Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi; Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người; Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái; Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người; Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khảnăng chi trả cho tất cả mọi người; Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người; Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới; Giảm bất bình đẳng trong xã hội; Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn; phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng; Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững; Ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai; Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững; Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụhệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất; Thúc đẩy xã hội hòa bình, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh vì sự pháttriển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp; Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững.
Theo đó, đối với mục tiêu chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi (SDG 1), Việt Nam đã đạt được những kết quả nổi bật. Trong đó,thành tựu giảm nghèo ấn tượng mà Việt Nam có được là nhờ sự kết hợp giữa mô hình tăng trưởng mang tính chất bao trùm tạo điều kiện cho nhiều người tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng; Hệ thống chính sách an sinh xã hội tốt như BHXH, BHYT, trợ cấp xã hội; Dịch vụ công dễ tiếp cận và trong khả năng chi trả của mọi người như giáo dục, y tế; Việc tiếp cận tài sản tương đối công bằng, đặc biệt là đất đai.
Việt Nam đã hoàn thành được MDG về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực,thiếu đói và đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được Liên hợp quốc đánh giá là một trong các nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất trong thực hiện MDG.
Chính phủ đã có nhiều giải pháp để thực hiện giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm dân tộc cũng như giữa các vùng miền khác nhau trong cả nước. Tốc độ giảm nghèo của các DTTS trong giai đoạn 2014-2016 là mạnh nhất trong hai thập kỷ qua (giảm hơn 13% từ 57,8% năm 2014 xuống 44,6% năm 2016).
So sánh chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều với chuẩn nghèo quốc gia về thu nhập chỉ ra sự khác biệt, với tỷ lệ nghèo thu nhập năm 2016 của cả nước là 5,8%, trong khi tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều tương ứng là 9,2%. Ngoài ra, tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều tại khu vực nông thôn (11,8%) hoặc khu vực Miền núi phía Bắc (23%), Tây Nguyên (18,5%) có sự khác biệt lớn so với tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia tương ứng trong cùng năm 2016. Điều này cho thấy khi khả năng tiếp cận tất cả các dịch vụ xã hội cơ bản được tính vào khía cạnh của nghèo đói, các khía cạnh phi thu nhập của nghèo cần phải có sự cải thiện hơn…
Kết quả thực hiện Mục tiêu xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững (SDG 2)
Theo Báo cáo, Việt Nam đã có một số chính sách liên quan đến SDG 2, như Nghị quyết số 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền vững đưa ra mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 899/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và PTBV”; Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020 nhằm tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sạch, tăng khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu; Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030 tập trung vào cải thiện tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em. Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2016-2020 cũng góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu SDG 2.
Việt Nam đã giảm đói toàn diện trên cả nước trong giai đoạn thực hiện MDGs. Tính đến năm 2015, số lượt hộ thiếu đói đã giảm hơn 3 lần so với năm 2007, xuống còn 227,5 nghìn lượt và cùng với đó, có hơn 2 triệu người đã thoát khỏi tình trạng đói. Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi cũng được cải thiện, đặc biệt trong giai đoạn từ 2010-2016 và có thể coi là một tín hiệu khả quan trong việc giảm đói nghèo.
Đối với sản xuất nông nghiệp để đáp ứng nguồn lương thực, Chính phủ đã triển khai nhiều đề án, chương trình như “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và PTBV” và được cụ thể hóa thành Đề án/Kế hoạch cơ cấu lại nông nghiệp của các địa phương. Sau 4 năm thực hiện, thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn được cải thiện, với thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn đã tăng từ 18,9 triệu năm 2012 lên khoảng 29,2 triệu năm 2016. Năng suất lao động xã hội trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản cho thấy xu hướng tăng dần qua các năm. Trong giai đoạn 2005-2016, năng suất đã tăng gần 4,5 lần từ 7,5 triệu đồng/người năm 2005 lên 32,9 triệu đồng/ người năm 2016.
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu, tình hình thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp bền vững. Trong đó, các thiên tai thường gây ra nạn đói đột xuất đòi hỏi Chính phủ phải có chiến lược ứng phó kịp thời và nhanh. Ngoài ra, dân số Việt Nam đang tiếp tục gia tăng và di cư tự do chưa được kiểm soát tốt, đang tạo áp lực lớn lên hệ thống y tế. Điều này có thể ảnh hưởng đến tiến độ đạt được mục tiêu về xóa đói và cải thiện tình trạng thiếu dinh dưỡng đúng thời hạn.
Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi (SDG 3)
Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc thực hiện SDG 3. Kết quả đáng ghi nhận nhất đối với Việt Nam về y tế trong những năm gần đây đó là: năng lực cung ứng và tiếp cận dịch vụ y tế của Việt Nam được xếp ở mức cao so với các nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương, 73% dân số Việt Nam được tiếp cận với các dịch vụ y tế thiết yếu năm 2017.
Hệ thống y tế được phát triển rộng khắp và đầu tư cơ sở vật chất làm tăng khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ y tế. Năng lực dự báo, giám sát và phòng, chống dịch bệnh được nâng lên; đã ngăn chặn, khống chế và không để dịch bệnh lớn xảy ra. Nguồn nhân lực phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, quy mô và năng lực cung ứng dịch vụ được nâng cao. Kỹ thuật y tế ngày càng phát triển, nhiều bệnh nan y trước đây không thể chữa khỏi nay đã được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và khỏi bệnh. Việt Nam là một trong 39 nước trên thế giới sản xuất được vắc xin.
Tỷ lệ dân số tham gia BHYT tăng từ 5,4% năm 1993 lên 86,4% vào năm 2017, tỷ trọng chi từ tiền túi của người dân có xu hướng giảm rõ rệt (từ 63% năm 1993 xuống khoảng 40% năm 2017). Người nghèo, cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, người cao tuổi, đồng bào DTTS vùng kinh tế - xã hội khó khăn và các đối tượng yếu thế khác được Hỗ trợ tài chính trong khám chữa bệnh.
Chất lượng dân số từng bước được nâng lên; chỉ số phát triển con người (HDI), tuổi thọ bình quân tăng nhanh, các chỉ số sức khỏe của người dân Việt Nam cao hơn nhiều so với mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người…
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc thực hiện Chương trình phòng chống lao Quốc gia; về bảo đảm an toàn giao thông, tai nạn giao thông tại Việt Nam liên tục giảm trên cả ba tiêu chí số vụ, số người chết và số người bị thương; bảo vệ sức khỏe cho người cao tuổi…Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được trong cải thiện các chỉ số sức khỏe của Nhân dân, Việt Nam vẫn rất nhiều khó khăn, thách thức trong tình hình mới mà Việt Nam phải đối mặt.
Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người (SDG 4)
Theo Báo cáo, trong quá trình thực hiện Mục tiêu này, Việt Nam đã đạt được những kết quan trọng nhưtỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi được chăm sóc tại các cơ sở mầm non tăng. Đối với nhóm trẻ 5 tuổi chuẩn bị vào học lớp 1, tỷ lệ đến trường tăng từ 72% vào năm học 2000-2001 lên 98% vào năm học 2016-2017. Hiện nay, trẻ em khuyết tật cũng đã được tạo điều kiện chăm sóc và tiếp cận giáo dục. Trong đó, các Trung tâm hỗ trợ và phát triển giáo dục hòa nhập tại các địa phương đã hỗ trợ can thiệp cho trẻ khuyết tật và hỗ trợ chuyên môn về giáo dục trẻ khuyết tật tại các trường mầm non.
Tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi đối với cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và tỷ lệ học sinh hoàn thành giáo dục tiểu học vào năm học 2016-2017 lần lượt là 99%, 92,5% và 63,3%, 99,7%. Tỷ lệ hoàn thành bậc tiểu học và trung học cơ sở tăng dần qua các năm cho thấy những tín hiệu tích cực của những chính sách và chương trình giáo dục được ban hành và sự đầu tư nguồn lực từ Nhà nước cùng xã hội.
Đối với học sinh DTTS, hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú đang được phát triển cả về quy mô và chất lượng. Ngoài việc dạy văn hóa, các trường còn tổ chức các hoạt động giáo dục khác như thể dục thể thao, giáo dục kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề…
Với mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên trên cả nước đã tăng rõ rệt qua các thập niên vừa qua và đến năm 2016 đạt 95%, tăng hơn 7% so với năm 1989. Điều này cho thấy sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện các chương trình về xóa mù chữ.
Một trong những thách thức đối với ngành giáo dục hiện nay là cơ sở vật chất trường học ở nhiều địa bàn trên cả nước, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa vẫn còn thiếu thốn, làm ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục toàn diện, chất lượng giáo dục cho trẻ em vùng DTTS vẫn cần tiếp tục được cải thiện.
Đạt được bình đẳng về giới, tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái (SDG 5)
Bình đẳng giới ở Việt Nam đã dần trở thành nội dung xuyên suốt trong tất cả các lĩnh vực chính trị-kinh tế-văn hoá-xã hội với nhiều thành tựu nổi bật. Tỷ lệ phụ nữ Việt Nam tham gia vào Quốc hội nhiệm kỳ 2016-2021 đạt 26,72%, tăng hơn nhiệm kỳ trước tới 2,62%. Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021 các cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ đại biểu nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tăng từ 21,57% trong nhiệm kỳ 1999-2004 lên 26,54%, cấp huyện đạt 27,85%, cấp xã cũng tăng mạnh lên 26,59% vào nhiệm kỳ nhiệm kỳ 2016-2021. Ngoài ra, tính đến hết tháng 8/2017, có 12/30 Bộ, ngành có lãnh đạo chủ chốt là nữ.
Tuy nhiên tỷ lệ trên vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 là trên 35%. Tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp có xu hướng tăng, hiện tại là 31,6%. Có tới 98% số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, trong đó doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ chiếm 71,7%, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn lại chiếm 28,3%...
Việt Nam đã cam kết bảo đảm khả năng tiếp cận toàn dân các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tình dục và sinh sản. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia đầu tiên trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã lồng ghép bình đẳng giới vào Luật Ngân sách năm 2015, cụ thể là nguyên tắc quản lý về ngân sách nhà nước (Điều 8) và căn cứ yêu cầu lập dự toán ngân sách (Điều 41), tuy nhiên văn bản hướng dẫn chưa được ban hành kịp thời nên việc phân bổ ngân sách phù hợp cho các hoạt động bình đẳng giới còn khó khăn…
Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người (SDG 6)
Mặc dù công suất cấp nước đô thị đã tăng 1,6 lần so với 10 năm trước, tuy nhiên, do quá trình đô thị hóa đang gia tăng, nhiều khu công nghiệp, khu đô thị mới được hình thành và dân số đô thị cũng tăng nhanh chóng, nên hệ thống cấp nước vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt của đô thị.
Về nguồn nước hợp vệ sinh, tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh tăng liên tục. Cấp nước sạch nông thôn trong nhiều năm qua đã được ưu tiên đầu tư, thông qua nhiều chương trình, dự án từ nhiều nguồn kinh phí. Tỷ lệ dân số nông thôn được cấp nước qua hệ thống cấp nước tập trung đạt khoảng 43,5%.
Nhìn chung, nhận thức của cộng đồng, đặc biệt là những khu vực có lợi thế về nguồn nước, khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa có trình độ dân trí thấp về sử dụng và chi trả dịch vụ nước sạch còn hạn chế. Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã vận động xã hội hỗ trợ các hộ nghèo ở các vùng nhiễm mặn do tác động của biến đổi khí hậu để có các dụng cụ trữ nước sạch sinh hoạt phục vụ cuộc sống.
Để đảm bảo việc sử dụng nước được hiệu quả, bền vững, thời gian qua, công tác điều tra tài nguyên nước mặt, nước ngầm được chú trọng và tăng cường. Chính phủ đã tập trung tìm kiếm nguồn nước sinh hoạt phục vụ chống hạn cho vùng núi cao, vùng khan hiếm nước, phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ngoài ra công tác quy hoạch tài nguyên nước giai đoạn 2020-2035 trên địa bàn các tỉnh, thành phố trong cả nước cũng đang được xây dựng và hoàn thiện…
Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người (SDG 7)
Những năm gần đây, Việt Nam có tỷ lệ dân số được tiếp cận với nguồn điện khá cao nhờ những nỗ lực trong cải cách lĩnh vực năng lượng cũng như phát triển mạnh lưới điện quốc gia và một số lưới điện trên đảo cung cấp điện cho cộng đồng. Mức tiêu thụ điện bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng nhưng Việt Nam vẫn là một trong các nước có mức sản xuất và tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người thấp so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước trong khu vực. Mặc dù đã bước đầu thực hiện các chính sách hướng tới sử dụng năng lượng bền vững và hiệu quả song Việt Nam vẫn còn đi sau nhiều quốc gia khác về hiệu quả sử dụng năng lượng và khai thác năng lượng tái tạo không phải là thủy điện.
Gần đây, Việt Nam đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển nguồn năng lượng tái tạo. Đã có nhiều dự án phát triển năng lượng tái tạo được triển khai như dự án điện gió, điện mặt trời.
Tuy vậy, tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu sử dụng năng lượng cuối cùng hiện còn rất thấp, chỉ chiếm khoảng 0,4%, thấp hơn nhiều nước trong khu vực, trong khi theo đánh giá của Bộ Công Thương, Việt Nam còn nhiều tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo chưa được khai thác
Để đạt mục tiêu SDG 7, bên cạnh việc tiếp tục đầu tư cho hạ tầng năng lượng với ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống thể chế, chính sách hiện hành theo hướng thúc đẩy hơn nữa sản xuất và sử dụng năng lượng bền vững, đặc biệt là xây dựng và thực hiện định mức sử dụng năng lượng cho các ngành công nghiệp, thực hiện kiểm toán năng lượng đối với mọi đối tượng sử dụng năng lượng.
Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người(SDG 8)
Ba năm bắt đầu thực hiện SDG 2015-2017 mức tăng năng suất lao động cao hơn so với giai đoạn 2011-2015, tương ứng đạt 6,5%, 5,3% và 6,0%. Riêng trong năm 2017, đã có 126.859 doanh nghiệp thành lập mới tạo ra thêm 161.300 lao động. Đây là kết quả bước đầu của quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp.
Với việc thực thi Luật đầu tư công từ năm 2015, chi tiêu công, hiệu quả đầu tư, đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí và nợ đọng xây dựng cơ bản từng bước được kiểm soát chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng nguồn lực, nhất là nguồn lực của nhà nước vẫn chưa được cải thiện nhiều. Để có thể duy trì tăng trưởng bền vững, Việt Nam cần ưu tiên thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, hiệu quả, trong đó, vấn đề đầu tiên cần giải quyết là nâng cao hiệu quả đầu tư công.
Thu nhập của người lao động làm công ăn lương trong khu vực Nhà nước nhìn chung đã và đang được cải thiện. Cải thiện chất lượng việc làm còn thể hiện ở việc chuyển dịch lao động từ khu vực có năng suất và thu nhập thấp, thiếu ổn định và nhiều điều kiện lao động chưa đảm bảo (khu vực phi chính thức, nông-lâm-thủy sản) sang khu vực có thu nhập cao hơn. Hơn nữa thị trường lao động Việt Nam vẫn còn duy trì tỷ lệ lao động phi chính thức trong tổng số việc làm còn cao, chiếm khoảng 33,8%.
Vấn đề đảm bảo môi trường làm việc an toàn cho người lao động ngày càng được chú trọng. Các sự cố tai nạn lao động nghiêm trọng được thanh tra, kiểm tra xác định nguyên nhân và xử lý trách nhiệm kịp thời, hạn chế tác động tiêu cực…
Một số thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt khi thực hiện SDG 8, đó là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức độ phát triển không đồng đều giữa các vùng miền và giữa các nhóm dân tộc; Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những ảnh hưởng sâu rộng của nó đến các quốc gia với trình độ phát triển chưa cao như Việt Nam; Tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua dựa nhiều vào tăng đầu tư, mà chủ yếu là đầu tư nhà nước với hiệu quả đầu tư còn chậm được cải thiện. Năng suất nhiều ngành, lĩnh vực còn thấp; công nghệ sản xuất ở nhiều doanh nghiệp còn lạc hậu. Việc sử dụng tài nguyên còn lãng phí, kém hiệu quả. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng còn hạn chế. Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều.
Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới (SDG 9)
Trong thời gian qua, hệ thống kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư xây dựng; chi cho kết cấu hạ tầng được Chính phủ ưu tiên cao nhất, thường chiếm khoảng 20% tổng chi đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước. Hạ tầng giao thông cả đường bộ, đường sắt, đường hàng không, hàng hải, đường thủy đều được quan tâm đầu tư. Nhiều công trình quan trọng, thiết yếu được đưa vào sử dụng, bảo đảm sự kết nối tốt hơn trên phạm vi cả nước và giao thương quốc tế, tạo diện mạo mới cho đất nước và góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
So với nhiều quốc gia với cùng trình độ phát triển, kết cấu hạ tầng của Việt Nam, nhất là ở khu vực thành thị có mức độ tương đương. Giao thông nông thôn được quan tâm, nhiều cây cầu được xây dựng tạo thuận lợi cho người dân đi lại, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển, chưa đồng bộ, hiệu quả kết nối và chất lượng chưa cao, nhất là ở các đô thị lớn, dẫn đến tình trạng quá tải, thường xuyên ùn tắc. Nhiều công trình kết cấu hạ tầng ở các vùng với khí hậu khắc nghiệt và hay bị ảnh hưởng của thiên tai còn chưa đủ bền vững để chống chịu với thời tiết bất thường, với khả năng phục hồi yếu.
Công nghiệp hóa cũng đã có những thành tựu đáng kể. Tuy tỷ trọng công nghiệp từ năm 2010 đến nay duy trì ở mức khoảng 26-28% tổng GDP, cơ cấu công nghiệp đã có chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng công nghiệp khai khoáng, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo. Tuy nhiên, công nghiệp hóa ở Việt Nam chưa thực sự bền vững, nhiều nghành công nghiệp chưa thân thiện môi trường và chưa bao trùm. Phát triển một số ngành công nghiệp vẫn chưa dựa vào lợi thế cạnh tranh và tận dụng một cách hiệu quả nguồn lực trong nước. Năng suất lao động còn thấp. Tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo chỉ chững lại ở mức khoảng 13% GDP trong suốt giai đoạn 2011-2015, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Phát triển một số ngành công nghiệp đã và đang dẫn tới ô nhiễm, hủy hoại môi trường với hậu quả cực kỳ nghiêm trọng.
Hạ tầng công nghệ thông tin tại Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây. Việt Nam được đánh giá là nước có mật độ phổ biến dịch vụ viễn thông cao so với các nước trên thế giới.
Để có thể thực hiện thành công SDG 9, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện đáng kể tính đồng bộ, đáng tin cậy, bền vững của hệ thống giao thông và khả năng kết nối giữa các loại phương tiện giao thông trên phạm vi toàn quốc. Duy trì tăng trưởng công nghiệp bền vững, xây dựng nền “công nghiệp xanh”. Sửa đổi, bổ sung các cơ chế chính sách khuyến khích mạnh mẽ hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy cung - cầu công nghệ.
Giảm bất bình đẳng trong xã hội (SDG 10)
Chính phủ Việt Nam tiếp tục chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 hướng tới không tăng bất bình đẳng. Tỷ lệ giảm nghèo (theo chi tiêu) của 40% dân số có thu nhập thấp nhất giảm trung bình 6.8% một năm trong giai đoạn 1993-2014. Việt Nam cũng có tiến bộ trong giảm bất bình đẳng về thu nhập với chỉ số Gini đạt 0,43 năm 2016.
Mặc dù đã có sự tiến bộ trong việc giảm nghèo, nhưng tình trạng chênh lệch về mức sống giữa các nhóm khác nhau có xu hướng tăng. Đáng chú ý là bất bình đẳng giới gia tăng ở khu vực Miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, nơi tập trung chủ yếu nhóm DTTS. Điều này sẽ trở thành một trong những thách thức đối với việc giảm nghèo bền vững nói riêng và sự PTBV nói chung của Việt Nam trong tương lai.
Việt Nam cam kết thúc đẩy các biện pháp đẩy mạnh sự tham gia chính trị, kinh tế và xã hội của tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, giới tính, khuyết tật, sắc tộc, dân tộc, nguồn gốc, tôn giáo, điều kiện kinh tế hoặc điều kiện khác.
Về an sinh xã hội và đảm bảo xã hội, Việt Nam xây dựng và thực thi các chính sách nhằm giảm thiểu rủi ro cho các nhóm dễ bị tổn thương, người nghèo, cận nghèo và các nhóm yếu thế khác bao gồm việc tăng tiếp cận các dịch vụ công, tiếp cận và sử dụng bảo hiểm, các chương trình an sinh xã hội…
Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những khó khăn chủ quan và khách quan để bảo đảm nguồn lực cần thiết cho phát triển, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách hỗ trợ và bảo đảm các quyền của các nhóm yếu thế trong xã hội. Tầm bao phủ của hệ thống an sinh xã hội hiện nay còn khiêm tốn, nhất là đối với người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương, dù các chương trình ưu tiên đã tương đối phát huy tác dụng. Nguy cơ gia tăng bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ, nhất là các dịch vụ liên quan đến các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội luôn hiện hữu giữa các khu vực địa lý, các cộng đồng và các nhóm dân cư. Toàn cầu hóa và Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư cũng sẽ làm gia tăng những bất bình đẳng.
Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn; phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng (SDG 11)
Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển đô thị mạnh mẽ nhất từ trước đến nay. Việt Nam đã có chính sách khuyến khích phát triển vận tải hành khách công cộng tại các đô thị, khuyến khích người dân sử dụng phương tiện công cộng thay phương tiện cá nhân hướng tới hệ thống giao thông vận tải bền vững, thân thiện với môi trường. Với hệ thống giao thông được cải thiện đáng kể trong thời gian gần đây, người dân đi lại dễ dàng hơn nhờ tiếp cận tốt hơn với tất cả các loại hình giao thông…
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động nhất của thiên tai và biến đổi khí hậu, đặc biệt là bão, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán có xu thế tăng cường về cường độ, tần suất trong giai đoạn 1990-2017 gây nhiều tổn thất lớn về người và thiệt hại cho nền kinh tế. Mặc dù vậy, khả năng ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai còn hạn chế.
Việc thu gom và xử lý chất thải rắn thông thường có xu hướng được cải thiện, với khoảng 80% bình quân trong cả nước vào năm 2016, trong đó vùng Đông Nam Bộ là nơi đi đầu trong việc xử lý chất thải rắn thông thường, với hầu như toàn bộ chất thải rắn thông thường thu gom đã được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; tiếp theo là Đồng bằng Sông Hồng với khoảng 90% chất thải rắn được xử lý…
Để thực hiện thành công SDG 11, Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa các chính sách tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế và người dân phát triển nhà ở. Áp dụng chính sách khuyến khích sử dụng các vật liệu xây dựng mới tiên tiến, thân thiện môi trường; công nghệ mới trong xây dựng nhà ở đảm bảo chất lượng tốt, giá thành hạ. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và quản lý thực hiện quy hoạch các cấp. Hoàn thiện thể chế về quản lý phát triển đô thị bền vững. Hoàn thiện quy hoạch, từng bước xây dựng, vận hành hệ thống thu gom, xử lý chất thải. Xử lý nước thải tập trung tại các đô thị loại IV trở lên và áp dụng chế độ kiểm tra, quan trắc nước thải sau xử lý. Thúc đẩy và giám sát chặt chẽ việc thực hiện Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn.
Đảm bảo mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững (SDG 12)
Việc thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, góp phần thúc đẩy quá trình xanh hóa sản xuất và tiêu dùng bền vững, đặc biệt nhận thức của các bên liên quan (chính quyền, doanh nghiệp và người dân) về sự cần thiết phải tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh đã có những chuyển biến rõ rệt, góp phần thúc đẩy thực hiện mục tiêu SDG 12.
Sau 10 năm triển khai tích cực các dự án thúc đẩy sản xuất sạch hơn trong các doanh nghiệp công nghiệp thông qua các chương trình của Chính phủ và với sự hỗ trợ của đối tác phát triển, hàng ngàn doanh nghiệp Việt Nam đã được tiếp cận với dự án sản xuất sạch hơn và sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả. Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đã được triển khai rộng khắp ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, với sự tham gia của hơn 9 nghìn doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp như khai khoáng, sản xuất thép, công nghiệp thực phẩm và nước giải khát, công nghiệp hóa chất, xây dựng và các ngành công nghiệp chế biến khác. Nhiều mẫu hình sản xuất bền vững trong công nghiệp, thiết kế sản phẩm bền vững cũng đã bước đầu được thực hiện, tuy nhiên, trên thực tế, còn ở phạm vi hẹp, đa phần nhờ sự hỗ trợ của các dự án có sự hỗ trợ của đối tác phát triển…
Cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện mục tiêu SDG 12, đặc biệt là thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững. Trong những năm gần đây, đã có một số sáng kiến và hoạt động do cộng đồng doanh nghiệp thực hiện liên quan đến vấn đề này. Đặc biệt, một số công ty đã thực hiện các thông lệ bền vững và tích hợp các thông tin về bền vững vào các báo cáo định kỳ của mình. Các mô hình doanh nghiệp PTBV đã được tôn vinh và chia sẻ kinh nghiệm tại Diễn đàn doanh nghiệp PTBV được tổ chức hằng năm.
Việt Nam cũng đang trong quá trình áp dụng các thông lệ mua sắm công bền vững. Hiện tại, việc mua sắm công xanh mới được áp dụng đối với các sản phẩm tiết kiệm năng lượng và được quy định tại một Quyết định của Thủ tướng Chính phủ vào năm 2011…
Ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai (SDG 13)
Việt Nam đã thành lập Ủy ban Quốc gia về biến đổi khí hậu và hầu hết các Bộ, ngành và địa phương đều đã có cơ quan, đơn vị chuyên trách về biến đổi khí hậu. Các chủ trương, chính sách về biến đổi khí hậuđã được Chính phủ ban hành đồng bộ, có hệ thống, là định hướng quan trọng cho các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam, đồng thời, xây dựng các kịch bản về tác động của biến đổi khí hậu tại các vùng khác nhau và đang tiếp tục cập nhật kịch bản này.
Về công tác cảnh báo, dự báo thiên tai, năng lực cán bộ và trang thiết bị cảnh báo, dự báo thiên tai của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã được đầu tư đáng kể. Việt Nam đã vận động tài trợ từ nguồn ngoài nước để đầu tư cho các công trình, dự án ứng phó với biến đổi khí hậu có tính chất ưu tiên cấp bách của các địa phương…
Tuy nhiên, công tác ứng phó với biến đổi khí hậutại Việt Nam vẫn còn tồn tại một số khó khăn, thách thức. Biến đổi khí hậu là vấn đề liên vùng, tuy nhiên cách tiếp cận hiện nay vẫn phổ biến theo tư duy địa giới hành chính, do đó việc đề xuất và triển khai các dự án mang tính liên vùng còn gặp nhiều hạn chế. Biến đổi khí hậu cũng tạo ra các cơ hội phát triển, song việc tận dụng các cơ hội còn nhiều hạn chế, chẳng hạn như vấn đề tiếp cận các quỹ khí hậu, tiếp cận công nghệ, đổi mới mô hình tăng trưởng, sự tham gia của khối tư nhân trong ứng phó với biến đổi khí hậucòn thiếu sự đột phá. Hành lang pháp lý cho hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậucòn thiếu, chưa đủ rõ. Việc lồng ghép yếu tố biến đổi khí hậuvào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển còn hạn chế. Việc bố trí ngân sách trung ương cho biến đổi khí hậu không đủ, mới đạt 71% so với tổng vốn nhu cầu, do đó một số mục tiêu đặt ra không hoàn thành.
Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững (SDG 14)
Việt Nam đã và đang triển khai thực hiện việc kiểm soát ô nhiễm biển, quản lý và bảo vệ hệ sinh thái biển và ven biển và khai thác, phát triển thủy sản theo các mục tiêu đưa ra trong các văn bản chiến lược, chính sách.Chất lượng nước biển ven bờ cũng như biển khơi vẫn còn khá tốt, nhưng tiềm ẩn nguy cơ bị ô nhiễm vì khu vực cửa sông, ven bờ vẫn tiếp nhận chất thải cư dân và hoạt động sản xuất.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn hiện cũng đang bị suy thoái nghiêm trọng. Sự suy thoái này thể hiện rõ nét nhất qua sự suy giảm nhanh chóng về diện tích và chất lượng các khu rừng ngập mặn. Việt Nam đã mất đi 67% diện tích rừng ngập mặn so với năm 1943. Với thực trạng hầu hết các hệ sinh thái biển đã và đang đứng trước chiều hướng suy thoái nghiêm trọng trong khi nguồn lực có hạn như hiện nay, khả năng đạt được mục tiêu SDG 14.2 đến 2030 là rất khó khăn.
Việt Nam đã thành lập được 10 khu bảo tồn biển. Tổng diện tích các khu bảo tồn biển Việt Nam được quy hoạch là 270.272 ha, chiếm khoảng 0,24% tổng diện tích vùng biển Việt Nam. Tuy nhiên, với tốc độ thành lập và đưa vào hoạt động các khu bảo tồn như hiện nay, việc đạt được mục tiêu của quy hoạch cũng còn nhiều khó khăn, chưa kể đến nếu so với mục tiêu SDG 14. “Đến năm 2030, diện tích các khu bảo tồn biển và ven biển đạt 3-5% diện tích tự nhiên”, thì việc hoàn thành mục tiêu này là vô cùng thách thức. Đối với các khu bảo tồn biển đã thành lập, việc duy trì hoạt động cũng là thách thức lớn bởi nguồn tài chính hạn chế…
Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất (SDG 15)
Việt Nam đã ban hành Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, trên cơ sở đó, 18 địa phương đã xây dựng và phê duyệt quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học cấp tỉnh, 13 địa phương đang trong quá trình xây dựng. Việt Nam đã xây dựng và đề cử thành công 8 Khu Ramsar, 6 Vườn Di sản ASEAN (Khu AHP).
Công tác trồng rừng được triển khai tích cực, bình quân hằng năm trồng được 225.000 ha rừng tập trung, trong đó trên 90% là rừng sản xuất với năng suất rừng trồng tiếp tục được cải thiện. Diện tích được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững đạt khoảng 225 nghìn ha trong đó rừng tự nhiên là 86.000 ha và rừng trồng 139.000 ha. Khai thác rừng tự nhiên được quản lý chặt chẽ hơn, thực hiện đóng cửa rừng tự nhiên trên phạm vi toàn quốc vào năm 2017, nhờ vậy, độ che phủ của diện tích rừng đã tăng nhanh chóng, đạt 41,5% năm 2017. Như vậy, đến năm 2020, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu nâng tỷ lệ che phủ rừng lên 42 % theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã kết thúc đàm phán, ký kết Hiệp định Đối tác Tự nguyện về Thực thi Lâm luật, Quản trị rừng và Thương mại Lâm sản (VPA/FLEGT) vào năm 2017.
Việt Nam là nước đã triển khai thực hiện thành công chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, góp phần tạo nguồn thu cho các hộ gia đình tham gia bảo vệ rừng, tăng giá trị sản xuất lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ rừng. Đồng thời, triển khai các hoạt động để bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm nhưng kết quả đạt được còn hạn chế. Nơi cư trú của động vật hoang dã vẫn bị thu hẹp do thay đổi phương thức sử dụng đất; nhiều loài đang ở mức báo động, đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng cao. Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong xây dựng chính sách, hoàn thiện bộ máy quản lý về kiểm soát buôn bán động, thực vật hoang dã, tuy nhiên, việc kiểm soát và ngăn chặn nạn buôn bán động thực vật hoang dã trái phép tới nay chưa đạt kết quả như mong muốn. Công tác phòng, chống các loài ngoại lai xâm hại đã đạt được một số kết quả tích cực…
Về mục tiêu thúc đẩy xã hội hòa bình, công bằng, bình đẳng vì phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp (SDG 16), trong những năm qua, công tác cải cách hành chính đã được Chính phủ quan tâm triển khai thực hiện, với nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động của bộ máy hành chính các cấp từ trung ương tới cơ sở. Nền hành chính đã có chuyển biến tích cực theo hướng nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp, hiện đại, năng động, trách nhiệm, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của người dân và xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kết quả cải cách hành chính đạt được toàn diện trên các lĩnh vực đã đóng góp quan trọng vào thành tựu chung phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế của đất nước trong giai đoạn vừa qua…
Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững (SDG 17)
Chính phủ Việt Nam đã đạt được bước tiến trong hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của quốc gia.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 187 nước, trong đó có 26 nước là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện; có quan hệ kinh tế, thương mại với hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ và là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn khu vực và toàn cầu. Việt Nam trở thành tâm điểm của liên kết kinh tế khu vực với mạng lưới FTA gồm 59 đối tác, trong đó có cả 5 nước thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, 15 nước nhóm G20, tạo sự đan xen về lợi ích và khuôn khổ hợp tác sâu rộng và dài hạn với các đối tác quan trọng…
Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao của Liên hợp quốcvề thuận lợi hóa trung chuyển, thương mại và thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triên bền vững, đóng góp hiệu quả vào những vấn đề thuộc quan tâm chung của khu vực và quốc tế là tăng cường thuận lợi hóa thương mại, hướng tới phát triển bền vững. Đồng thời, tăng cường huy động tài chính từ các nguồn khác bao gồm từ khu vực tư nhân thông qua PPP.
Quốc hội Việt Nam, với tư cách là thành viên Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU), đã tích cực tham gia các hoạt động có liên quan đến nội dung thúc đẩy triển khai CTNS 2030 tại tất cả các diễn đàn của IPU104. Thông qua các diễn đàn này, Quốc hội Việt Nam cũng đã tham gia thực hiện mục tiêu SDG 17 về Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự PTBV. Mặt khác, Quốc hội Việt Nam cũng nghiêm túc xem xét, cụ thể hóa các khuyến nghị được đưa ra với các Nghị viện thành viên của IPU, phù hợp với bối cảnh chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội và theo quy định của pháp luật Việt Nam.Chính phủ Việt Nam tạo môi trường thuận lợi và khuyến khích tất cả các tổ chức xã hội và người dân đóng góp vào quá trình thực hiện, theo dõi, đánh giá SDG./.
Tùng Linh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư