Năm 2019, các cấp, các ngành trong tỉnh đã tập trung triển khai thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra từ đầu năm nhằm tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường các hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trên địa bàn tỉnh nên tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn giữ được ổn định và có bước phát triển khá.
I. Nông - Lâm - Thuỷ sản
1. Trồng trọt
* Cây hàng năm:
Vụ Đông xuân và vụ Hè thu nhìn chung thuận lợi về thời tiết, nguồn nước tưới cho diện tích sản xuất được đảm bảo. Vụ Hè thu có nơi xảy ra nắng cục bộ làm ảnh hưởng đến việc sản xuất, chủ yếu ở những khu vực sản xuất dựa vào nguồn nước trời, trong vụ có xảy ra hiện tượng mưa lớn và kèm theo lốc xoáy như trên địa bàn huyện Tánh Linh làm ảnh hưởng đến một số diện tích, năng suất cây trồng nhưng không đáng kể.
Vụ Mùa 2019 đến nay nhìn chung thuận lợi, các địa phương đã tập trung xuống giống vụ đồng loạt nhằm né rầy, hạn chế sâu bệnh hại trên cây trồng. Các loại cây trồng trong năm được đầu tư chăm sóc tích cực, năng suất có sự chuyển biến rõ nét ở một số loại cây trồng, tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng không diễn biến phức tạp chỉ xảy ra dưới dạng cục bộ ảnh hưởng không đáng kể.
Trong cơ cấu đất trồng có sự chuyển đổi diện tích cây lúa kém hiệu quả sang các loại cây ngắn ngày khác như bắp, đậu phộng, rau các loại và cây lâu năm nhằm mục đích phát huy hiệu quả sử dụng đất và tăng cường tiết kiệm nguồn nước tưới, hạn chế sâu bệnh hại. Tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng không diễn biến phức tạp, xảy ra dưới dạng cục bộ và ảnh hưởng không đáng kể đến cây trồng. Diện tích sản xuất so với năm trước giảm hơn nhưng năng suất các loại cây trồng tăng khá do được chú trọng đầu tư trong sản xuất. Diện tích gieo trồng cây hàng năm 2019 đạt 192.997,6 ha, bằng 97,6% so với năm trước. Trong đó:
- Diện tích cây lương thực có hạt ước đạt 134.661,9 ha bằng 95,4% so năm trước, sản lượng lương thực đạt 789.475,4 tấn bằng 97,1% so năm trước. Diện tích giảm chủ yếu ở diện tích sản xuất lúa. Nguyên nhân do chuyển đổi 5.096 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng các cây ngắn ngày khác hiệu quả hơn (vụ Đông Xuân 2018 - 2019 chuyển đổi 4.769 ha, vụ Hè thu 2019 chuyển đổi 327 ha), mặt khác ở vụ Hè thu có một số diện tích tại các địa phương như Tuy Phong, Tánh Linh, Đức Linh không tiến hành sản xuất lúa để cải tạo đất cho sản xuất vụ Mùa đạt hiệu quả cao, cụ thể diện tích các loại cây như sau:
+ Cây lúa diện tích đạt 118.626,3 ha, bằng 94,7% so năm trước (giảm 6.581 ha, đất kém hiệu quả sang trồng cây ngắn ngày khác hiệu quả hơn), năng suất lúa bình quân đạt 57,66 tạ/ha tăng 1,01 tạ/ha so năm trước; sản lượng lúa đạt 683.984,2 tấn, bằng 96,4% so năm trước.
+ Cây bắp diện tích ước đạt 16.035,6 ha tăng 0,1% so năm trước, năng suất bắp bình quân đạt 65,8 tạ/ha tăng 1,25 tạ/ha so năm trước, sản lượng đạt 105.941,2 tấn, tăng 2,1% so năm trước.
- Diện tích cây chất bột cả năm sơ bộ đạt 27.893,4 ha, tăng 3,9% so năm trước, trong đó chủ yếu là cây mỳ với diện tích là 26.423,3 ha tăng 2,8% so năm trước, năng suất ước đạt 184,7 tạ/ha, sản lượng đạt 488.141,1 tấn tăng 4,2% so năm trước; diện tích cây khoai lang đạt 796,2 ha tăng 37,8% so năm trước, năng suất ước đạt 68,3 tạ/ha, sản lượng đạt 5.437,5 tấn tăng 58,6% so năm trước.
- Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày sơ bộ đạt 11.083 ha, đạt 96,4% so năm trước, trong đó Cây lạc, diện tích đạt 5.308,1 ha tăng 1,2% so cùng kỳ năng suất ước đạt 17,5 tạ/ha, sản lượng đạt 9.280,8 tấn tang 19,3% so năm trước; Cây mè, diện tích đạt 4.481 ha bằng 92,9% so với cùng kỳ năng suất ước đạt 5,6 tạ/ha, sản lượng đạt 2.498 tấn bằng 92,4% so năm trước; Cây mía diện tích đạt 1.264 ha bằng 97,3% so cùng kỳ năng suất ước đạt 427,5 tạ/ha, sản lượng đạt 54.033 tấn bằng 90% so năm trước.
- Diện tích cây rau các loại đạt 8.831,8 ha, tăng 11,4% so với năm trước; đậu các loại 8.894,9 ha, tăng 2,8% so với năm trước. Diện tích tăng chủ yêu tập trung ở các loại cây như Dưa lấy hạt do điều kiện thời tiết năm nay thuận lợi cho việc xuống giống loại cây này. Sản lượng rau các loại đạt 101.536,5 tấn tăng 30% so năm trước; Sản lượng đậu các loại đạt 10.831 tấn tăng 54% so năm trước.
- Cây hàng năm khác: Sơ bộ diện tích gieo trồng cả năm đạt 1.682,6 ha tăng 6,4% so với năm trước, trong đó cây gia vị diện tích đạt 345,1 ha, bằng 93,9% so năm trước; cây dược liệu, hương liệu như nghệ, sả... diện tích đạt 198,2 ha; cây hàng năm khác đạt 1077,1 ha bằng 96,9% so năm trước, trong đó: Sen lấy hạt 187 ha; cây làm thức ăn gia súc diện tích đạt 890,1 ha, tăng 1,3% so năm trước.
* Cây lâu năm:
Tổng diện tích trồng cây lâu năm 2019 đạt 107.349,4 ha, tăng 1,03% so cùng kỳ (+1.093,5 ha), trong đó diện tích cây công nghiệp lâu năm 63.178,7 ha giảm 1,36% so cùng kỳ (-869,6 ha); cây ăn quả lâu năm đạt 42.545,8 ha tăng 4,67% so với cùng kỳ (+1.896,8 ha); cây lâu năm còn lại 1.625 ha tăng 4,26 % so cùng kỳ (+66,3 ha). Một số cây lâu năm chủ lực của tỉnh như sau:
- Thanh long: Tổng diện tích toàn tỉnh ước đạt 30.652,9 ha, tăng 4,72% so cùng kỳ (+1.381 ha). Diện tích tăng nhiều ở Hàm Tân (+493,3 ha), Hàm Thuận Nam (+359 ha) Tuy Phong (+209 ha), La gi (+200 ha), Bắc Bình (+154 ha) Phan Thiết (+18 ha), Hàm Thuận Bắc (+18,7 ha). Riêng Đức Linh (-9 ha), Tánh Linh (-8 ha). Năng suất bình quân sơ bộ đạt 228,1 tạ/ha, sản lượng thu hoạch năm 2019 sơ bộ đạt 642.030,2 tấn, tăng 8,46% so với cùng kỳ (+50.065,3 tấn). Đến thời điểm ngày 10/12/2019 toàn tỉnh có 10.379,8 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap, trong đó Hàm Thuận Nam 6.622,7 ha, Hàm Thuận Bắc 3.021,1 ha, Bắc Bình 421 ha, Phan Thiết 89,8 ha, Hàm Tân 36,5 ha, La Gi 153,1 ha.
- Cây điều: Tổng diện tích toàn tỉnh ước đạt 17.154,7 ha, giảm 2,44 % so cùng kỳ (-426,8 ha). Trong đó Hàm Tân (+203 ha), Tuy Phong (+5 ha), Phú Quý (+3,4 ha), Bắc Bình (-272 ha), Phan Thiết (-200 ha), Hàm Thuận Bắc (-106 ha), Tánh Linh (-32 ha), La Gi (-30 ha).
- Cao su: Diện tích toàn tỉnh ước đạt 42.250,7 ha giảm 0,35 % so cùng kỳ (-150 ha). Diện tích cao su giảm do giá thấp, một số vườn già, năng suất kém, nhà vườn chặt bỏ để chuyển đổi trồng cây khác. Năng suất sơ bộ đạt 14,7 tạ/ha, sản lượng đạt 57.100 tấn tăng 9,93% so cùng kỳ (+5.157,1 tấn), sản lượng tăng chủ yếu là do tăng diện tích đến kỳ cho thu hoạch sản phẩm (+3.494,7 ha so cùng kỳ).
- Cây tiêu: Tổng diện tích toàn tỉnh ước đạt 1.430,6 ha, giảm 5,55% so cùng kỳ (-84 ha). Nguyên nhân giảm là do nấm bệnh và giá bán thấp người trồng ngại đầu tư. Năng suất bình quân sơ bộ đạt 12 tạ/ha, giảm 1,8 tạ/ha so cùng kỳ (do nấm bệnh), sản lượng thu hoạch ước đạt 1.610 tấn giảm 9,99% so cùng kỳ (-178,7 tấn).
- Cây cà phê: Tổng diện tích toàn tỉnh ước đạt 2.373,5 ha, tăng 6,15% so cùng kỳ (+137,5 ha), diện tích tập trung ở Hàm Thuận Bắc, Đức Linh, Tánh Linh. Năng suất sơ bộ đạt 12,5 tạ/ha, sản lượng ước đạt 2.930,4 tấn tăng 11,19% so cùng kỳ (+294,9 tấn).
Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể.
* Tình hình sâu bệnh:
Tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng không diễn biến phức tạp, chỉ xảy ra dưới dạng cục bộ ảnh hưởng không đáng kể đến cây trồng.
- Cây lúa: Sâu cuốn lá gây hại trong kỳ với diện tích 2.609 ha; đạo ôn lá gây hại 1.817 ha; bệnh bạc lá gây hại 954 ha.
- Cây thanh long: Diện tích nhiễm bệnh đốm nâu là 2.609 ha; thối cành quả, vi khuẩn gây hại trên diện tích 1.033 ha; Ốc sên gây hại trên diện tích 770 ha; bệnh thán thư cành quả có diện tích nhiễm trong kỳ là 627 ha.
- Cây mì (sắn): Khảm lá virut gây hại trên diện tích 572,5 ha trên địa bàn huyện Đức Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Nam, La Gi, Bắc Bình.
- Cây bắp (ngô): Sâu keo mùa thu tiếp tục gây hại trên cây ngô với diện tích 988 ha trên nhiều địa bàn trồng ngô (bắp). Đây là loại sâu có khả năng gây hại mạnh, do đó cần chú ý tập trung theo dõi để phòng trừ kịp thời.
* Tình hình tưới phục vụ sản xuất:
Trong năm duy trì nguồn nước phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, dân sinh kinh tế tại các địa phương trong tỉnh, đạt 94,27% nhiệm vụ được giao. Tổng diện tích được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện thực hiện năm 2019 là 108.175 ha/114.749 ha kế hoạch (đạt 94,27% so kế hoạch), cụ thể như sau:
- Vụ Đông xuân: Kết quả cấp nước sản xuất vụ Đông Xuân 2018 - 2019 được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện trên toàn tỉnh 49.116 ha kế hoạch, đạt 97,82%. Trong đó diện tích lúa, hoa màu: 30.266 ha kế hoạch đạt 96,51%; Diện tích Thanh long và Nho: 18.850 ha kế hoạch đạt 100,16%. Nguyên nhân giảm một ít so kế hoạch đề ra do người dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất và cơ cấu cây trồng, một số nơi không sản xuất màu và lúa, giảm so với cùng kỳ năm trước 32.342 ha.
- Vụ Hè Thu: Kết quả cấp nước sản xuất vụ Hè Thu 2019 thực hiện 46.610 ha kế hoạch đạt 89,69%. Trong đó diện tích lúa, hoa màu: 26.921 ha kế hoạch đạt 81,29%; Diện tích Thanh long và Nho: 19.689 ha kế hoạch đạt 104,45%. Diện tích có giảm so kế hoạch đề ra, do người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, một số nơi không sản xuất lúa, diện tích sản xuất giảm so cùng kỳ năm trước.
- Vụ Mùa: Kết quả cấp nước sản xuất vụ Mùa năm 2019, tổng diện tích được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện trên toàn tỉnh 50.577 ha kế hoạch đạt 101,50%. Trong đó diện tích lúa, hoa màu: 30.888 ha kế hoạch đạt 99,69%; Diện tích Thanh long và Nho: 19.689 ha kế hoạch đạt 104,45%. Diện tích giảm một ít do người dân xuống giống trễ và giảm 667 ha.
* Công tác quản lý chất lượng nông, lâm, thủy sản và vật tư nông nghiệp:
Đã hỗ trợ 12 cơ sở (08 cơ sở nông sản, 04 cơ sở thủy sản) áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo quan điểm HACCP, đến nay 12 cơ sở được chứng nhận đủ điều kiện ATTP. Đồng thời, hỗ trợ 05 cơ sở thực hiện chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến HACCP, VietGAP (03 cơ sở chứng nhận HACCP, 02 vùng trồng rau chứng nhận VietGAP). Tính đến ngày 15/11/2019, đã thẩm định điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm nông, thủy sản tại 274 lượt cơ sở, đạt điều kiện 250 cơ sở, chiếm tỷ lệ 91,2% số lượt cơ sở kiểm tra. Thực hiện thanh tra về ATTP tại 97 cơ sở; qua đó, xử phạt vi phạm hành chính 3 cơ sở.
2. Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp có kiểm soát an toàn dịch bệnh và môi trường. Tại thời điểm 15/12/2019, số lượng gia súc, gia cầm toàn tỉnh như sau:
- Đàn trâu, bò: Có 176.272 con, tăng 0,23% so cùng kỳ (đàn trâu 8.852 con, giảm 1,36%; đàn bò 167.420 con, tăng 0,32%). Nhìn chung, số lượng đàn trâu giảm nhẹ, đàn bò tiếp tục duy trì và phát triển, không có bệnh dịch xảy ra.
- Đàn lợn:Giảm do ảnh hưởng bởi dịch tả lợn Châu phi, đàn lợn hiện có 269.000 con, giảm 3,48% so cùng kỳ. Chăn nuôi lợn vẫn còn đối mặt với tình hình dịch tả lợn Châu phi, số lượng hộ chăn nuôi nhỏ lẻ giảm đáng kể, tuy nhiên các doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi lớn đang phát triển quy mô tổng đàn. Toàn tỉnh có 16 doanh nghiệp chăn nuôi lợn với quy mô 72.919 con (tăng 7 doanh nghiệp, tăng 38.378 con) so cùng kỳ.
- Đàn gia cầm: Giá đầu ra ổn định, tình hình dịch bệnh không xảy ra nên đàn gia cầm phát triển khá thuận lợi. Toàn tỉnh có 3.652 ngàn con gia cầm, tăng 3,08% so cùng kỳ.
Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2019 ước đạt 57.000 tấn giảm 1,08% cùng kỳ năm 2018. Trong đó thịt trâu 503 tấn giảm 1,18%; thịt bò 7.798,5 tấn tăng 0,59%; thịt lợn 40.104,5 tấn giảm 2,21%; thịt dê, cừu 246 tấn tăng 3,02%, thịt gia cầm các loại 8.342,5 tấn tăng 2,95%. Nhìn chung sản lượng thịt hơi xuất chuồng toàn tỉnh giảm do dịch tả lợn Châu phi phát sinh từ cuối tháng 6/2019 và cơ cấu thịt lợn chiếm đến tỷ trọng lớn (70,4 %) trong tổng sản lượng của toàn tỉnh.
Sản lượng trứng gia cầm 85.848,1 ngàn quả, tăng 2,99% so cùng kỳ năm trước. Trong đó trứng gà 34.750 ngàn quả, tăng 1,24%; trứng vịt 35.500 ngàn quả, tăng 1,08%; trứng ngan 80,2 ngàn quả, tăng 0,25%, trứng chim cút 15.500 ngàn quả tăng 12,22% so cùng kỳ (do các trại tăng quy mô đàn). Nhìn chung, sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại gia súc, gia cầm đủ khả năng cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh và xuất bán các tỉnh lận cận trong dịp tết đến.
* Công tác phòng, chống dịch:
Tình hình bệnh dịch tả lợn Châu Phi có phần giảm nhiệt hơn các tháng trước; tính đến hết ngày 11/12/2019, toàn tỉnh có 47 xã, phường, thị trấn, huyện, thị xã, thành phố công bố dịch bệnh dịch tả lợn Châu Phi (trong đó có 11 xã, phường và thị trấn đã công bố hết dịch và 17 xã đã qua 30 ngày không phát sinh ổ dịch mới), tổng trọng lượng đã tiêu hủy 2.611,6 tấn. Cụ thể ở các địa phương:
- Thị xã La Gi: đã công bố hết Dịch tả lợn Châu Phi trên địa bàn xã Tân Tiến, Tân Phước. Lũy kế đến ngày 11/12/2019, tổng số lợn tiêu hủy là 691 con/33,7 tấn/27 hộ/7 xã, phường.
- Huyện Hàm Thuận Bắc: trên địa bàn thị trấn Ma Lâm không phát sinh thêm ổ dịch mới. Lũy kế đến ngày 11/12/2019, tổng số lợn tiêu hủy là 221 con/7,4 tấn/16 hộ/ 4 xã, thị trấn.
- Huyện Đức Linh: Trên địa bàn xã Đức Tín phát sinh 02 hộ có lợn bị nhiễm bệnh Dịch tả lợn Châu Phi, đã tiến hành tiêu hủy 21 con/02 hộ; các xã Vũ Hòa, Đức Chính, Mê Pu, Nam Chính, Đa Kai, Sùng Nhơn và thị trấn Đức Tài không phát sinh ổ dịch mới; riêng các xã Đức Hạnh, Tân Hà, Trà Tân, Đông Hà và thị trấn Võ Xu đã qua 30 ngày không phát sinh ổ dịch mới. Lũy kế đến ngày 11/12/2019, tổng số lợn tiêu hủy là 33.251 con/2.130,8 tấn/1.416 hộ/13 xã, thị trấn công bố dịch.
- Huyện Tánh Linh: Trên địa bàn các xã Gia An, Đồng Kho, Bắc Ruộng, Nghị Đức và Đức Bình phát sinh thêm 10 hộ có lợn bị nhiễm bệnh Dịch tả lợn Châu Phi, đã tiến hành tiêu hủy 66 con/10 hộ. Riêng các xã Đức Phú, Huy Khiêm, Đức Tân, La Ngâu, Đức Thuận, không phát sinh ổ dịch mới; Thị trấn Lạc Tánh và xã Măng Tố đã qua 30 ngày không phát sinh thêm ổ dịch. Lũy kế đến ngày 11/12/2019, tổng số lợn tiêu hủy là 6.775 con/402,5 tấn/676 hộ/12 xã, thị trấn công bố dịch.
- Huyện Hàm Tân: Đang đề nghị công bố hết dịch bệnh Dịch tả lợn Châu phi trên địa bàn các xã Tân Hà, Sơn Mỹ và thị trấn Tân Minh; các xã Thắng Hải và Tân Đức không phát sinh ổ dịch mới. Lũy kế đến ngày 11/12/2019, tổng số lợn tiêu hủy là 303 con/11 tấn /19 hộ/7 xã, thị trấn.
- Thành phố Phan Thiết: đã công bố hết bệnh Dịch tả lợn Châu phi trên địa bàn xã Phong Nẫm, Tiến Lợi, Thiện Nghiệp. Lũy kế đến ngày 11/12/2019, tổng số lợn tiêu hủy là 465 con/25,9 tấn/12 hộ/4 phường, xã.
Các địa phương vẫn tiếp tục tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về các nguyên nhân lây lan, biện pháp phòng ngừa, phát tờ rơi về hướng dẫn phòng chống dịch,... để tất cả người dân đều nắm bắt diễn biến, tình hình dịch bệnh, biện pháp phòng tránh dịch bệnh trong vùng dịch.
* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật
- Công tác tiêm phòng: Trong tháng 12/2019, đã triển khai tiêm phòng các loại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm 2.358.152 liều, trong đó đàn trâu, bò 17.090 liều, đàn heo 29.350 liều, đàn gia cầm 2.310.749 liều. Lũy kế cả năm 14.158.415 liều, trong đó đàn trâu, bò 154.971 liều, đàn heo 647.739 liều, đàn gia cầm 13.345.737 liều.
- Kiểm dịch động vật: Trong tháng đã kiểm dịch 603.782 con, trong đó 118.269 con heo; 1.413 con trâu, bò; 484.100 con gia cầm; Riêng trên đàn dê trong tháng không kiểm dịch. Lũy kế cả năm 6.211.022 con động vật các loại, trong đó 1.443.902 con heo; 22.602 con trâu, bò; 4.733.446 con gia cầm; 11.072 con dê.
3. Lâm nghiệp
Trong năm ngành chức năng đã tiếp tục chỉ đạo, triển khai thực hiện các biện pháp giải quyết tình trạng phá rừng, khai thác lâm sản, lấn chiếm đất lâm nghiệp; đồng thời, chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, truy quét chống phá rừng, đặc biệt tại vùng giáp ranh với các tỉnh.
- Diện tích rừng trồng mới trong tháng ước đạt 369 ha, giảm 29,3% so cùng kỳ năm trước; lũy kế cả năm ước đạt 4.800 ha, giảm 2,5% so cùng kỳ.
- Giao khoán bảo vệ rừng: Đã thực hiện 132.377 ha, đạt 109,3% kế hoạch, giảm 2,5% so cùng kỳ. Trong tháng không có tình trạng chặt phá cây rừng, lấn chiếm đất rừng làm rẫy xảy ra trong khu vực nhận khoán.
- Khoanh nuôi tái sinh rừng: Đã thực hiện chuyển tiếp 5.710 ha, đạt 100% kế hoạch. Trồng cây phân tán 275 ha/KH 250 ha, đạt 110% kế hoạch.
- Công tác bảo vệ rừng được tăng cường, ngăn chặn tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp; kiểm tra, truy quét chống phá rừng tại các điểm nóng và vùng giáp ranh với các tỉnh; làm tốt công tác phòng cháy, chữa cháy rừng tại những vùng trọng điểm giáp ranh và nội tỉnh, đã xây dựng 1.345,3 km đường băng cản lửa (trong đó 1.206,6 km đường băng trắng và 138,7 km đường băng xanh), 6 chòi canh lửa kiên cố; trang bị 166 máy móc thiết bị và 3.315 công cụ thủ công, sẵn sàng ứng phó khi có tình huống cháy khẩn cấp xảy ra, bên cạnh đó thành lập 120 ban chỉ huy phòng chống cháy rừng các cấp. Có 93 xã có kiểm lâm phụ trách, có 118 thôn xây dựng hương ước bảo vệ rừng. Ngoài ra các hộ dân sống trong khu vực có rừng ký cam kết bảo vệ rừng, không gây cháy hoặc phát hiện cháy phải báo ngay cho trạm bảo vệ rừng gần nhất. Trong tháng không xảy ra cháy rừng, từ đầu năm đến nay (10/12/2019) có 16 trường hợp cháy thực bì dưới tán rừng với diện tích 25,6 ha, giảm 14 trường hợp so cùng kỳ; các vụ cháy chủ yếu cháy trảng cỏ, cây bụi, lá khô dưới tán rừng được huy động chữa cháy kịp thời nên không gây hại về tài nguyên rừng.
- Vi phạm lâm luật: Trong tháng (từ ngày 01-10/12/2019) đã phát hiện 28 vụ vi phạm lâm luật, khai thác gỗ và lâm sản khác 11 vụ, mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 5 vụ, vi phạm khác 9 vụ, phá rừng làm nương rẫy 3 vụ. Lũy kế cả năm 327 vụ, trong đó: khai thác gỗ và lâm sản khác 98 vụ; mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 88 vụ, phá rừng trái phép 23 vụ, vi phạm quy định về sử đụng đất lâm nghiệp 1 vụ, vi phạm khác 132 vụ, vi phạm về chế biến gỗ và lâm sản khác 3 vụ, mua bán động vật hoang dã 2 vụ.
4. Thuỷ sản
Trong tháng 12, sản lượng thủy sản ước đạt 14.211,6 tấn, tăng 0,02% so cùng kỳ; luỹ kế cả năm ước đạt 234.497,9 tấn, tăng 1,21% so cùng kỳ và đạt 104,96% so kế hoạch năm. Trong đó:
+ Nuôi trồng thủy sản: Diện tích nuôi trồng cả năm ước đạt 3.028,2 ha, tăng 2,22% so cùng kỳ. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 12 ước đạt 11.268,9 tấn, tăng 1,65% so cùng kỳ; lũy kế cả năm ước đạt 14.170,1 tấn, tăng 2,02% (tăng 280,1 tấn) so cùng kỳ năm trước.
+ Khai thác thuỷ sản: Trong tháng ảnh hưởng áp thấp nhiệt đới, gió bão, tình hình ngư trường không thuận lợi cho việc khai thác thuỷ sản. Ngư dân vẫn tích cực bám biển khai thác, các tàu thuyền có công suất lớn tập trung khai thác ở vùng biển xa, sản lượng thủy sản khai thác trong tháng 12 ước đạt 12.942,7 tấn giảm 0,13% so cùng kỳ; luỹ kế cả năm ước đạt 220.327,8 tấn, tăng 1,16% so cùng kỳ (trong đó khai thác biển đạt 219.644,4 tấn, tăng 1,15% so cùng kỳ, khai thác nội địa đạt 683,4 tấn, tăng 2,08% so cùng kỳ).
- Sản xuất giống thuỷ sản: Sản lượng giống sản xuất chủ yếu là tôm giống, trong tháng 12 ước đạt 1,5 tỷ con tăng 1,76% so cùng kỳ; lũy kế cả năm ước đạt 24,46 tỷ con, tăng 3,7% so cùng kỳ và đạt 101,94% kế hoạch. Công tác quản lý về nguồn gốc tôm, giám sát con giống luôn được tăng cường.
- Tình hình dịch bệnh: Trong năm 2019, tình hình nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh tương đối thuận lợi không có dịch bệnh xảy ra, chỉ rải rác một số hộ tôm có hiện tượng đốm trắng, chậm lớn nhưng ở mức độ nhẹ.
- Công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản luôn được tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các vi phạm khi sử dụng các biện pháp khai thác mang tính huỷ diệt nguồn lợi thuỷ sản như giã cào, mắt lưới nhỏ so quy định, xung điện, chất nổ,... Số vụ vi phạm trong tháng (từ ngày 01-10/12/2019) không có vụ nào xảy ra. Luỹ kế cả năm (từ ngày 01/01 - 10/12/2019) có 402 vụ vi phạm: 2 vụ không có sổ nhật ký khai thác, 24 vụ sử dụng tàu cá không đăng ký lại, 18 vụ không có giấy phép thủy sản, 17 vụ không mang theo giấy chứng nhận an toàn tàu cá, 42 vụ hành nghề lặn trái phép, 21 vụ không bằng máy thuyền trưởng, 30 vụ trang bị cứu sinh không đầy đủ, 25 vụ sử dụng mắc lưới nhỏ hơn quy định, 1 vụ tàu không có hoạt động giám sát, 21 vụ sử dụng công cụ kích điện trên tàu cá, 67 vụ không đăng ký lại tàu cá, 26 vụ giã cào đáy sai vùng khai thác, 24 vụ khai thác sò lông nhỏ hơn quy định, 38 vụ tàng trữ công cụ kích điện trên tàu cá, 9 vụ không ghi nhật ký khai thác thủy sản, 12 vụ sử dụng ngư cụ cấm, 7 vụ ghi không đầy đủ nhật ký khai thác thủy sản, 5 vụ không đánh dấu nhận biết tàu cá.
- Thực hiện Chỉ thị số 45/CT-TTg, ngày 13/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để khắc phục cảnh báo của Ủy ban Châu Âu về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định và Chỉ thị số 30-CT/TU của Tỉnh ủy Bình Thuận; trong năm 2019 có 05 vụ vi phạm với 6 tàu cá/40 thuyền viên bị nước ngoài bắt giữ.
II. Công nghiệp; đầu tư phát triển; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư
1. Công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 12 ước tăng 41,63% so cùng kỳ năm trước (so tháng trước tăng 12,73%); trong đó, ngành khai khoáng tăng 6,17%; ngành chế biến, chế tạo tăng 13,07%; sản xuất và phân phối điện tăng 54,43%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,34%. Nguyên nhân do các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất nhằm cung ứng nhu cầu thị trường, nhất là trong dịp tết Nguyên đán Canh Tý năm 2020.
Tính chung cả năm 2019, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 33,03% so với năm trước (quý I tăng 55,90%; quý II tăng 30,92; quý III tăng 22,98%; quý IV ước tính tăng 27,90%); trong đó, ngành sản xuất và phân phối điện duy trì tốc độ tăng trưởng cao 36,44%; ngành khai khoáng tăng 12,35%; ngành chế biến, chế tạo tăng 7,14% và ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,96%.
Trong năm 2019, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh năm 2010 ước đạt 33.066,1 tỷ đồng, đạt 116,18% kế hoạch năm, tăng 19,73% so cùng kỳ năm trước, trong đó: Công nghiệp khai khoáng 660,8 tỷ đồng (tăng 7,07%); công nghiệp chế biến chế tạo 16.885,9 tỷ đồng (tăng 4,04%); sản xuất và phân phối điện 15.249,2 tỷ đồng (tăng 45,10%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 270,3 tỷ đồng (tăng 3,48%).
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so năm trước gồm: Cát sỏi các loại (tăng 2,51%), đá khai thác (tăng 5,78%), thủy sản đông lạnh (tăng 4,20%), thủy sản khô (tăng 3,18%), nước mắm (tăng 2,39%), hạt điều nhân (tăng 13,60%), nước khoáng (tăng 3,97%), quần áo may sẵn (tăng 4,70%), gạch các loại (tăng 0,48%), nước máy sản xuất (tăng 2,94%), điện (tăng 45,91%), sơ chế mủ cao su (tăng 7,81%), đồ gỗ và các sản phẩm gỗ (tăng 0,72%), thức ăn gia súc (tăng 3,40%), giày dép các loại (tăng 2,38%). Sản phẩm giảm: Muối hạt (giảm 13,21%).
Nhìn chung, trong năm 2019 sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển, đạt mức tăng trưởng cao so với năm trước. Tính chung cả năm 2019, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 33,03%; trong đó, nổi bậc là ngành sản xuất và phân phối điện duy trì tốc độ tăng trưởng cao với mức tăng 45,82% do sản lượng tăng mới từ nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1, Vĩnh Tân 2, Vĩnh Tân 4 và điện mặt trời. Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng; ngành cung cấp nước, quản lý - xử lý rác thải, nước thải và ngành công nghiệp chế biến chế tạo đều tăng so cùng kỳ; một số sản phẩm như: Hạt điều nhân, mủ cao su, đá khai thác, quần áo may sẵn, thủy sản đông lạnh, nước khoáng tăng khá; riêng sản lượng muối hạt giảm sâu do diện tích sản xuất muối giảm (chuyển mục đích sang sản xuất điện mặt trời, xây dựng khu dân cư).
2. Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư toàn xã hội năm 2019 (theo giáhiện hành)ước đạt33.152,0tỷ đồng, tăng38,13% so cùng kỳ năm trước, chiếm 43,45% GRDP, trong đó:
- Vốn khu vực Nhà nước đạt 5.097,8 tỷ đồng, chiếm 15,38% tổng vốn, tăng 48,28% so cùng kỳ năm trước. Nguồn vốn này tăng cao do phát sinh từ việc thực hiện công tác giải phóng mặt bằng dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc – Nam, đoạn đi qua tỉnh Bình Thuận. Tính đến ngày 15/12/2019, tổng vốn được Bộ Giao thông Vận tải giao là 1.834 tỷ đồng, đã giải ngân 1.220,8 tỷ đồng.
- Vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 24.555,2 tỷ đồng, chiếm 74,07% tổng vốn, tăng 35,92%. Nguồn vốn này tăng cao do một số doanh nghiệp hoạt động trong ngành điện năng lượng mặt trời tận dụng chính sách ưu đãi theo Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg ngày 11/4/2017 của Thủ tướng về tăng giá điện mặt trời nên nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư mua máy móc, thiết bị tranh thủ khởi công, lắp đặt sớm hoàn thiện công trình để được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước. Tính đến nay có 21 dự án điện mặt trời đã hoàn thành với tổng diện tích 1.394,3 ha, tổng vốn đầu tư ước tính 25.059 tỷ đồng.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 3.499,0 tỷ đồng, chiếm 10,55% tổng vốn, tăng 40,14% so cùng kỳ năm trước. Nguồn vốn này chủ yếu từ việc mua sắm máy móc thiết bị đầu tư cho dự án nhiệt điện Vĩnh Tân 1, Vĩnh Tân 4...
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước thực năm 2019 đạt 2.890,8 tỷ đồng, tăng 15,76% so với cùng năm trước. Trong đó vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước thực hiện 2.198,6 tỷ đồng, tăng 19,63%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước thực hiện 612,3 tỷ đồng, tăng 6,04%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã ước thực hiện 79,8 tỷ đồng, giảm 2,45% so với cùng năm trước.
Đã tổ chức thành công Hội nghị xúc tiến đầu tư tỉnh năm 2019, tại Hội nghị tỉnh đã trao Quyết định chủ trương đầu tư và ký Bản thỏa thuận ghi nhớ đầu tư cho 24 dự án, tổng vốn đăng ký 17 tỷ USD và 69.930 tỷ đồng (trong đó trao Quyết định chủ trương đầu tư cho 11 dự án đầu tư, với tổng vốn 23.367 tỷ đồng; Ký Bản thỏa thuận ghi nhớ đầu tư cho 13 dự án, với tổng vốn 17 tỷ USD và 46.563 tỷ đồng
.3. Đăng ký kinh doanh
Tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong năm 2019 (tính đến ngày 22/12/2019) là 826 doanh nghiệp, tăng 17,2% so với cùng kỳ, với tổng vốn 11.334,1 tỷ đồng, giảm 22,09% so với cùng kỳ; 91 doanh nghiệp giải thể, giảm 5,2% so với cùng kỳ; 94 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 10,58% so với cùng kỳ.
4. Đăng ký đầu tư
Tỉnh đã tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách. Trong năm 2019 (tính đến ngày 15/11/2019), có 123 dự án được cấp, điều chỉnh Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư, trong đó có 84 dự án cấp mới, 39 dự án cấp điều chỉnh, với tổng diện tích đất 922,7 ha, tổng vốn đăng ký 23.596 tỷ đồng. Lũy kế đến nay có 1.545 dự án đầu tư đã được UBND tỉnh chấp thuận đầu tư còn hiệu lực, với tổng diện tích 59.610 ha, tổng vốn đăng ký đầu tư khoảng 315.460 tỷ đồng.
Việc rà soát, tháo gỡ khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp để thúc đẩy tiến độ triển khai của các dự án có nguồn vốn ngoài ngân sách luôn được quan tâm. Từ đầu năm đến nay có 19 dự án khởi công xây dựng (cùng kỳ năm trước có 7 dự án), 33 dự án đi vào hoạt động kinh doanh (cùng kỳ năm trước có 3 dự án); đồng thời, qua rà soát đã thu hồi 16 dự án chậm triển khai (cùng kỳ năm trước thu hồi 15 dự án).
III. Thương mại, giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải
1. Thương mại, Giá cả
Năm 2019, hoạt động thương mại nội địa trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng trưởng, cơ sở hạ tầng được đầu tư nâng cấp, hệ thống phân phối hàng hóa mở rộng, chất lượng hàng hóa ngày càng cải thiện, mẫu mã phong phú và đa dạng, phục vụ tốt nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của người dân. Công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả được tăng cường, thị trường giá cả ổn định, đảm bảo được cân đối cung cầu các loại vật tư quan trọng và hàng hóa tiêu dùng thiết yếu; không có hiện tượng khan hàng, sốt giá kể cả các thời điểm lễ, Tết, mùa mưa bão.
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 12/2019 ước đạt 5.247,5 tỷ đồng, tăng 1,05% so tháng trước và tăng 9,91% so tháng cùng kỳ năm trước. Trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 3.432,4 tỷ đồng, tăng 1,23% so tháng trước và tăng 10,10% so tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 1.232,6 tỷ đồng, tăng 0,73% so tháng trước và tăng 7,57% so tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 10,4 tỷ đồng, tăng 0,7% so tháng trước và tăng 16,07% so tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ tiêu dung khác ước đạt 572,2 tỷ đồng, tăng 0,62% so tháng trước và tăng 13.94% so tháng cùng kỳ năm trước.
- Tính chung cả năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 58.246,2 tỷ đồng, tăng 11,94% so cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động: Doanh thu hoạt động thương nghiệp đạt 38.446,3 tỷ đồng, chiếm 66,01% và tăng 11,57% so cùng kỳ năm trước; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 13.350,5 tỷ đồng, chiếm 22,92% và tăng 12,78% so cùng kỳ năm trước; doanh thu du lịch, lữ hành đạt 110,9 tỷ đồng, chiếm 0,19% và tăng 9,77% so cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 6.338,5 tỷ đồng, chiếm 10,88% và tăng 12,51% so cùng kỳ năm trước. Xét theo thành phầnkinh tế: kinh tế nhà nước đạt 3.040,1 tỷ đồng, chiếm 5,22% và tăng 9,04% so cùng kỳ năm trước; kinh tế ngoài nhà nước đạt 54.688,4 tỷ đồng, chiếm 93,89% và tăng 12,1% so cùng kỳ năm trước; kinh tế có vốnđầu tưnước ngoài đạt 517,7 tỷ đồng, chiếm 0,89% và tăng 12,21% so cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2019 so tháng trước tăng 1,58%; so với tháng cùng kỳ năm trước (sau 01 năm) tăng 5,36%; bình quân 12 tháng năm 2019 tăng 2,56% so bình quân 12 tháng năm 2018.
So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 9 nhóm hàng tăng giá: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,40% (trong đó: lương thực tăng 0,31%, thực phẩm tăng mạnh 4,06%, ăn uống ngoài gia đình tăng 3,29%); May mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,97%; Hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,57%; Giao thông tăng 0,51%; Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,19%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11%; Văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,08%; Đồ uống và thuốc lá tăng 0,06%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%. Nhóm hàng giáo dục ổn định 100%, riêng nhóm hàng Bưu chính viễn thông giảm 0,14%.
* Thị trường và giá cả 12 tháng năm 2019
CPI bình quân 12 tháng năm 2019 so cùng kỳ năm trước tăng 2,56% và tăng 5,36% so tháng 12 năm trước. Một số nguyên nhân tác động làm tăng CPI trong 12 tháng năm 2019 như sau:
- Do điều hành của Chính phủ:
+ Trong tháng 8 Chính phủ áp dụng điều chỉnh tăng giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế quy định tại Thông tư số 13/2019/TT-BYT, ngày 05/7/2019 của Bộ Y tế, vì vậy giá các mặt hàng dịch vụ y tế 12 tháng năm 2019 tăng 3,31% so bình quân cùng kỳ năm trước.
+ Ngày 01/7/2019 Chính phủ điều chỉnh mức lương cơ sở từ 1.390.000 đồng lên 1.490.000 đồng, do đó tiền bảo hiểm y tế cho công chức và người lao động cũng được điều chỉnh tăng theo. Bên cạnh đó, giá một số loại dịch vụ như: dịch vụ sửa chữa đồ dùng gia đình, dịch vụ bảo dưỡng nhà ở, dịch vụ điện, nước; dịch vụ thuê người giúp việc gia đình có mức tăng giá khoảng từ 4% - 12% so với cùng kỳ năm trước.
+ Để chuẩn bị khai giảng năm học mới 2019-2020 nên nhu cầu mua sắm quần áo, giầy dép, trang phục học sinh tăng cao, góp phần chỉ số giá may mặc, mũ nón, giày dép bình quân 12 tháng tăng 2,29%; Giá sách giáo khoa tăng 8,08% do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tăng giá sách giáo khoa năm học 2019-2020 so cùng kỳ năm trước. Thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP, ngày 02/10/2015 của Chính phủ, một số trường tại địa phương đã tăng học phí các cấp học làm cho chỉ số giá nhóm dịch vụ giáo dục năm 2019 tăng 3,43% so bình quân cùng kỳ năm trước.
+ Giá vé tàu hỏa tăng 7,63% so bình quân cùng kỳ do Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam tăng giá vé đón dịp Tết Dương lịch 2019, các ngày Lễ lớn trong năm, trong mùa hè...
- Do yếu tố thị trường
+ Các dịp nghỉ Tết, nghỉ Lễ 30/4 và 1/5 kéo dài nhiều ngày, Quốc tế thiếu nhi 1/6, Lễ hội Nghinh Ông của Người Hoa, Lễ 2/9, ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, Lễ Giáng sinh nhu cầu tiêu dùng, mua sắm của người dân tăng cao. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng giá thực phẩm tăng cao làm cho giá các mặt hàng ăn uống ngoài gia đình tăng 2,50% so bình quân cùng kỳ.
+ Giá các mặt hàng lương thực bình quân 12 tháng năm tăng 1,51% so cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân, do diện tích gieo trồng trong năm 2019 có phần giảm so cùng kỳ năm trước, nguồn cung có phần hạn chế, do đó giá gạo có phần tăng so bình quân cùng kỳ năm trước. Thực phẩm bình quân 12 tháng năm tăng 5,05% so bình quân cùng kỳ năm trước, tăng ở hầu hết các mặt hàng. Nguyên nhân, do ảnh hưởng thời tiết, ảnh hưởng dịch tả lợn Châu Phi làm cho giá thịt lợn tăng 11,01% so bình quân cùng kỳ năm trước, là mặt hàng tăng giá mạnh nhất trong năm.
+ Giá các mặt hàng đồ uống, thuốc lá và các loại quần áo may sẵn tăng cao trong dịp Tết và nghỉ hè do nhu cầu tiêu dùng và mua sắm tăng, bình quân 12 tháng đầu năm 2019 chỉ số giá các nhóm này lần lượt tăng khoảng 2,53% và 5,18% so cùng kỳ năm trước.
+ Giá gas sinh hoạt cũng được điều chỉnh theo giá gas thế giới, tính từ đầu năm cho đến nay giá gas được điều chỉnh tăng 7 lần (tương đương tăng 73.000 đồng/bình 12 kg), giảm 4 lần (tương đương giảm 55.000 đồng/bình 12 kg) và 1 lần giữ nguyên giá. Mặc dù giá gas năm 2019 tăng giảm liên tục nhưng tính bình quân chung 12 tháng năm 2019 giảm 6,09% so bình quân cùng kỳ năm trước.
+ Giá nhiên liệu trên thị trường thế giới trong 12 tháng năm 2019 có sự biến động tăng, giảm khá mạnh. Trong nước giá xăng dầu cũng được điều chỉnh tăng, giảm theo làm cho giá xăng dầu bình quân 12 tháng năm 2019 giảm 3,21% so với cùng kỳ, góp phần làm cho CPI nhóm giao thông giảm 1,72% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng duy trì tốc độ tăng trưởng khá; hoạt động bán buôn, bán lẻ trên địa bàn tỉnh là yếu tố chủ yếu duy trì tốc độ tăng trưởng tốt cho thương mại và dịch vụ. Mặc dù trong năm, biến động giá xăng dầu tăng nhiều hơn giảm nhưng tình hình lưu thông hàng hóa trên địa bàn tỉnh ổn định, không xảy ra tình trạng thiếu hàng hay sốt giá; các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu đáp ứng đủ cho sản xuất, tiêu dùng của người dân trong tỉnh. Hàng hóa trên thị trường đảm bảo cung cấp đầy đủ cho nhu cầu tiêu dùng của người dân, trong đó một số ngành hàng tăng trưởng cao như: lương thực, thực phẩm; hàng may mặc; hàng hoá khác; vật phẩm văn hoá, giáo dục; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ. Nhu cầu du lịch trong và ngoài nước cùng với lượng khách quốc tế đến tỉnh tăng góp phần tăng doanh thu cho hoạt động du lịch lữ hành.
2. Du lịch
Dự ước trong tháng 12 các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh đón và phục vụ 610,1 ngàn lượt khách, tăng 1,19% so tháng trước và tăng 6,48% so tháng cùng kỳ năm trước; số ngày khách phụcvụ đạt1.028,7 ngànngày khách,tăng 1,37% so tháng trước và tăng 9,16% so tháng cùng kỳ năm trước.Luỹ kế cả năm ước đạt 6.406,9 ngàn lượt khách, đạt 100,11% kế hoạch năm và tăng 11,38% so cùng kỳ năm trước; số ngày khách ước đạt 10.666,5 ngàn ngày khách, tăng 12,73% so cùng kỳ năm trước.
Số lượt khách quốc tế tháng 12 ước đạt 71,9 ngàn lượt khách, tăng 18,53% so tháng cùng kỳ năm trước. Số ngày khách quốc tế lưu trú ước đạt 230,6 ngàn ngày khách tăng 16,05% so tháng cùng kỳ năm trước;Luỹ kế cả năm ước đạt 774 ngàn lượt khách, tăng 14,54% so cùng kỳ năm trước; số ngày khách ước đạt 2.390,9 ngàn ngày khách, tăng 15,289% so cùng kỳ năm trước. Trong tháng, tỷ lệ khách Nga vẫn chiếm cao nhất, chiếm 36,18%; Trung Quốc chiếm 17,71%; Hàn Quốc chiếm 12,23%; Đức chiếm 5,65%; Thái Lan chiếm 3,83%
Doanh thutừ hoạt độngdu lịchtháng12 ướcđạt1.346,9tỷ đồng, tăng 1,67% so tháng trướcvà tăng 17,5%sothángcùng kỳ năm trước.Lũy kế cả năm ước đạt 15.200,8 tỷ đồng, tăng 18,16% so cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, trong năm lượng khách du lịch trong nước và ngoài nước đến du lịch tại tỉnh tăng khá, đã giúp cho tổng thu của ngành du lịch tỉnh có những biến chuyển tích cực. Hoạt động du lịch diễn ra ổn định; chất lượng dịch vụ được quan tâm và ngày càng nâng cao. Trong năm tỉnh đã tổ chức xúc tiến, quảng bá, phát triển sản phẩm du lịch được đẩy mạnh, đã tổ chức Ký kết Chương trình liên kết hợp tác tam giác phát triển du lịch TP Hồ Chí Minh - Lâm Ðồng - Bình Thuận, giai đoạn 2019 - 2024,… Để tiếp tục đưa ngành du lịch Bình Thuận phát triển trong năm 2020 cần phải đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch cả trong nước và nước ngoài; địa phương thường xuyên kiểm tra tình hình hoạt động văn hóa, thể thao trong các khu du lịch, góp phần bảo đảm an toàn cho khách du lịch và người dân; tuyên truyền nâng cao nhận thức và hành động của các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, người dân địa phương về xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh, thân thiện; tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành các quy định của Nhà nước đối với các cơ sở lưu trú du lịch, kinh doanh lữ hành, kiểm soát giá cả, chất lượng các loại hàng hóa,... nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, góp phần thu hút ngày càng nhiều khách du lịch, phát triển du lịch bền vững.
3. Xuất, nhập khẩu
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 12/2019 ước đạt 39,5 triệu USD, tăng 1,55% so tháng trước và tăng 6,47% so cùng kỳ năm trước. Dự ước cả năm đạt 462,2 triệu USD, tăng 6,47% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước 352,9 triệu USD, tăng 7,85%so cùng kỳ, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 109,3 triệu USD, tăng 2,24%so cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn chủ yếu như sau:
+ Hàng thuỷ sản: Kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 136,1 triệu USD, giảm 4,96% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 29,44% kim ngạch xuất khẩu cả tỉnh. Mặc dù, tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu cả năm tăng so cùng kỳ năm trước, nhưng về giá trị xuất khẩu vẫn giảm so cùng kỳ năm 2018, nguyên nhân vẫn là thị trường lớn Trung Quốc siết chặt thương mại tiểu ngạch và kiểm tra an toàn thực phẩm, rà soát xuất khẩu theo danh sách doanh nghiệp; bên cạnh đó, sự cạnh tranh của Ấn Độ và Ecuador trên thị trường tôm và cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung trong năm cũng là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến xuất khẩu thủy sản giảm.
+ Hàng dệt, may: Kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 194,2 triệu USD, tăng 12,97% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 42,02% kim ngạch xuất khẩu cả tỉnh. Mặt hàng dệt may xuất khẩu vẫn giữ được mức tăng trưởng khá, cho thấy ảnh hưởng từ diễn biến của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, các doanh nghiệp trong tỉnh vẫn tìm được các đơn hàng ký kết xuất khẩu ổn định trong năm.
+ Hàng giày dépcác loại: Kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt67,4triệu USD, tăng3,78% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng14,59% kim ngạch xuất khẩu cả tỉnh. Trong năm ngành da giày xuất khẩu tiếp tục duy trì tăng trưởng tốt nhờ cơ hội và triển vọng phát triển, mở rộng thị trường từ hiệu ứng của các Hiệp định thương mại tự do mang lại, nhất là tại các thị trường truyền thống như Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, các doanh nghiệp đã có đơn hàng xuất khẩu ổn định được ký kết từ đầu năm.
- Xuất khẩu trực tiếp ước năm 2019 đạt 442,23 triệu USD (tăng 6,73% so cùng kỳ năm trước), trong đó thị trường Châu Á ước đạt 292,25 triệu USD (tăng 11,93%), thị trường Châu Âu đạt 56,17 triệu USD (giảm 17,64), thị trường Châu Mỹ đạt 87,5 triệu USD (tăng 18,65%).
- Ủy thác xuất khẩu 12 tháng năm 2019 ước đạt 19,99 triệu USD, tăng 0,99% so với cùng kỳ. Chủ yếu tăng ở mặt hàng áo jacket, áo loại khác, quần dài, quần loại khác.
- Xuất khẩu dịch vụ du lịch ước tháng 12 đạt 22,6 triệu USD, tăng 9,97% so tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế cả năm ước đạt 273,01 triệu USD, tăng 14,42% so cùng kỳ năm trước.
- Nhập khẩu ước năm 2019 đạt 900 triệu USD tăng 20,8% so cùng kỳ. Tăng chủ yếu ở các mặt hàng như máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu dệt may da giày, hàng thủy sản, hàng rau.
Nhìn chung, tình hình xuất khẩu của tỉnh vẫn duy trì được tốc độ tăng khá so cùng kỳ, nhóm hàng hoá khác (hàng may mặc, giày dép các loại) vẫn là nhóm hàng hoá duy trì tốc độ tăng ổn định, chiếm đến 42,75% giá trị xuất khẩu của toàn tỉnh (năm 2018 chiếm 41,54%). Nhóm hàng nông sản đã có dấu hiệu hồi phục trở lại, tăng 2,88% so năm 2018 (năm 2018 giảm 24,97% so năm 2017), trong đó chủ yếu tăng ở nhóm hàng nông sản khác. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp thương mại xuất khẩu của tỉnh trong năm đã tích cực chủ động tìm kiếm các hợp đồng xuất khẩu từ các đối tác nước ngoài và ở chiều ngược lại cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã thúc đẩy các đối tác nước ngoài tăng cường nhập khẩu các mặt hàng từ Việt Nam, bên cạnh đó chính quyền địa phương có vai trò không nhỏ trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hoạt động xúc tiến thương mại, thâm nhập thị trường nước ngoài bằng những phương thức truyền thống như hội chợ triển lãm ở nước ngoài, kết nối đối tác; cung cấp các thông tin kịp thời đến các doanh nghiệp,…
Năm 2019, cán cân thương mại của tỉnh (không tính giá trị nhập khẩu máy móc, thiết bị phụ tùng phục vụ cho nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân và năng lượng điện mặt trời) xuất siêu đạt 182,6 triệu USD (năm 2018 cán cân thương mại âm 23,7 triệu USD so năm 2017).
4. Giao thông vận tải
- Vận tải hành khách:
+ Ước tháng 12 đã vận chuyển 2.446,19 nghìn hành khách và luân chuyển 118,14 triệu hk.km. Lũy kế năm 2019, toàn tỉnh đã vận chuyển 26.829,72 nghìn hành khách, tăng 8,83% so cùng kỳ và luân chuyển 1.334,0 triệu hk.km, tăng 8,74% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 12 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 2.427,28 nghìn hành khách, lũy kế năm 2019 đạt 26.618,74 nghìn hành khách, tăng 8,81% so cùng kỳ năm trước; vận chuyển hành khách đường thủy đạt 18,91 nghìn hành khách, lũy kế năm 2019 đạt 210,98 nghìn hành khách, tăng 11,12% so cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường bộ đạt 115,89 triệu hk.km, lũy kế năm 2019 đạt 1.310,0 triệu hk.km, tăng 8,67% so cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường thủy đạt 2,25 triệu hk.km, lũy kế năm 2019 đạt 24,0 triệu hk.km, tăng 12,68% so cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hoá:
+ Ước tháng 12 vận chuyển hàng hoá đạt 979,34 nghìn tấn và luân chuyển hàng hóa đạt 52,22 triệu tấn.km. Lũy kế năm 2019, toàn tỉnh đã vận chuyển 10.445,12 nghìn tấn hàng hoá, tăng 11,81% so cùng kỳ và luân chuyển hàng hoá đạt 574,10 triệu tấn.km, tăng 10,95% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 12 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 978,47 nghìn tấn, lũy kế năm 2019 đạt 10.435,51 nghìn tấn, tăng 11,82% so cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,87 nghìn tấn, lũy kế năm 2019 đạt 9,61 nghìn tấn, tăng 7,55% so cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 52,11 triệu tấn.km, lũy kế năm 2019 đạt 572,99 triệu tấn.km, tăng 10,95% so cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,11 triệu tấn.km, lũy kế năm 2019 đạt 1,11 triệu tấn.km, tăng 9,75% so cùng kỳ năm trước.
- Cảng tổng hợp Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp tháng 12 ước đạt 13.200 tấn, lũy kế năm 2019 đạt 230.361 tấn. Các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng là quặng lmeninte, cát xây dựng, tro bay. Doanh thu tháng 12 ước 610 triệu đồng, lũy kế năm 2019 đạt 11.608,34 triệu đồng.
- Ước doanh thu hoạt động vận tải toàn ngành trong tháng 12 đạt 220,23 tỷ đồng; lũy kế năm 2019 đạt 2.428,54 tỷ đồng, tăng 11,65% so cùng kỳ năm trước (trong đó doanh thu vận tải hành khách 1.039,83 tỷ đồng, tăng 10,58%; doanh thu vận tải hàng hóa 1.336,61 tỷ đồng, tăng 12,58% và doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải 52,10 tỷ đồng, tăng 9,63% so cùng kỳ năm trước).
Nhìn chung, trong năm 2019 công tác bảo đảm giao thông, lưu thông đi lại được thực hiện tốt. Vận tải đường bộ, đường biển ổn định, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại của nhân dân. Công tác tuần tra, kiểm soát được duy trì thường xuyên nhằm kiểm tra, xử lý tình trạng xe quá khổ, quá tải, các phương tiện chở quá số người quy định,… qua đó chấn chỉnh và nâng cao chất lượng hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh.
IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng
1. Thu ngân sách
Ước thu ngân sách tháng 12 đạt 670 tỷ đồng. Lũy kế năm 2019 đạt 12.893,1 tỷ đồng, đạt 137,45% dự toán năm, tăng 21,80% so cùng kỳ năm trước; trong đó thu nội địa (trừ dầu) đạt 9.174,7 tỷ đồng, đạt 146,09% dự toán năm, tăng 24,60%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí 7.403,0 tỷ đồng, đạt 136,70% dự toán năm, tăng 34,76%; thu tiền nhà, đất 1.771,7 tỷ đồng, đạt 204,94% dự toán năm, giảm 5,23% (Trong đó thu tiền sử dụng đất 1.350,2 tỷ đồng, đạt 192,89% dự toán năm, giảm 11,53%); thu dầu thô 1.789,2 tỷ đồng, đạt 111,83% dự toán năm, giảm 6,97% và thu thuế xuất nhập khẩu 1.929,3 tỷ đồng, đạt 128,62% dự toán năm, tăng 48,46% so cùng kỳ năm trước.
Dự ước các khoản thu năm 2019 tăng (giảm) so cùng kỳ năm trước như sau: Thu từ doanh nghiệp nhà nước 1.548,2 tỷ đồng (tăng 23,95%); thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.005,8 tỷ đồng (tăng 57,26%); thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 1.453,6 tỷ đồng (tăng 37,21%); thuế thu nhập cá nhân 650,3 tỷ đồng (tăng 27,32%); thuế bảo vệ môi trường 567,0 tỷ đồng (tăng 40,21%); lệ phí trước bạ 442,0 tỷ đồng (tăng 47,95%); thu từ các loại phí, lệ phí 176,4 tỷ đồng (tăng 28,05%); thu khác ngân sách 378,8 tỷ đồng (tăng 49,56%); thu xổ số kiến thiết 1.005,3 tỷ đồng (tăng 24,79%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản 163,9 tỷ đồng (tăng 53,90%); thu tiền thuê mặt đất, mặt nước 403,1 tỷ đồng (tăng 23,62%); thu tiền sử dụng đất 1.350,2 tỷ đồng (giảm 11,53%); thu từ dầu thô 1.789,2 tỷ đồng (giảm 6,97%) và thu thuế xuất nhập khẩu đạt 1.929,3 tỷ đồng (tăng 48,46%).
Riêng khối huyện, thị xã, thành phố kết quả thu năm 2019 ước đạt 3.856,4 tỷ đồng, đạt 168,40% dự toán năm, tăng 29,32% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Phan Thiết thu 1.899,7 tỷ đồng (đạt 172,70% dự toán, tăng 37,42%); La Gi: 265,7 tỷ đồng (đạt 171,39% dự toán, tăng 31,97%); Tuy Phong: 307,8 tỷ đồng (đạt 146,58% dự toán, tăng 13,37%); Bắc Bình: 248,5 tỷ đồng (đạt 236,65% dự toán, tăng 69,11%); Hàm Thuận Bắc: 429,0 tỷ đồng (đạt 150,0% dự toán, tăng 7,98%); Hàm Thuận Nam: 286,8 tỷ đồng (đạt 191,19% dự toán, tăng 48,44%); Tánh Linh: 104,2 tỷ đồng (đạt 125,60% dự toán, tăng 0,64%); Đức Linh: 124,7 tỷ đồng (đạt 135,53% dự toán, giảm 9,93%); Hàm Tân: 154,7 tỷ đồng (đạt 177,81% dự toán, tăng 41,24%) và Phú Quý thu 35,3 tỷ đồng (đạt 160,43% dự toán, giảm 6,89%).Như vậy so dự toán có 5/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách đạt trên mức bình quân chung khối huyện (168,40%) là: Phan Thiết, Bắc Bình, Hàm Thuận Nam, La Gi và Hàm Tân; có 8/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách tăng so với cùng kỳ năm 2018.
Nhìn chung, thu ngân trong năm đạt khá; trong đó riêng nguồn thu từ thuế, phí đạt 7.403 tỷ đồng (chiếm 80,69% trong thu nội địa), tăng 34,76% so cùng kỳ năm trước. Một số khoản thu có tỷ trọng lớn trong dự toán tăng cao đã tác động đến mức tăng thu gồm: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Tăng đột biến do Công ty TNHH Điện lực Vĩnh Tân lựa chọn năm đầu tiên bắt đầu từ năm 2019 để hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và một số dự án Điện mặt trời tranh thủ lắp đặt và nộp thuế nhà thầu trước ngày 30/6/2019 để hưởng chính sách ưu đãi theo Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg ngày 11/4/2017 về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án Điện mặt trời tại Việt Nam); thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (Phát sinh chủ yếu từ thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản, thuế giá trị gia tăng qua thanh tra tại doanh nghiệp); thuế thu nhập cá nhân (Phát sinh tăng do thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản và thu nhập từ tiền lương, tiền công); lệ phí trước bạ (Chủ yếu phát sinh từ các khoản thu trước bạ nhà đất và thu trước bạ ô tô); thu khác ngân sách (Phát sinh từ nguồn tịch thu do vi phạm hành chính theo quyết định của tòa án, cơ quan thi hành án; thu hồi chi ngân sách năm trước; thu từ bán và thanh lý tài sản khác và thu tiền chậm nộp); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (Phát sinh từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với giấy phép do UBND tỉnh cấp); tiền thuê mặt đất, mặt nước (Phát sinh từ tiền thuê mặt đất nộp một lần cho cả thời gian thuê) và một số khoản thu khác. Riêng nguồn thu tiền sử dụng đất giảm khá nhiều do thời gian qua doanh nghiệp chuyển từ thuê hàng năm sang nộp tiền thuê đất một lần, trong khi đó quỹ đất có hạn nên đã sụt giảm làm ảnh hưởng đến nguồn thu này.
2. Chi ngân sách
Chi ngân sách bám sát Nghị quyết HĐND tỉnh, đảm bảo chi thường xuyên và các công việc chi đột xuất; ước thực hiện chi ngân sách năm 2019 là 11.311 tỷ đồng, đạt 118,72% dự toán năm (Trong đó chi đầu tư phát triển 2.358 tỷ đồng, đạt 113,65% dự toán năm; chi thường xuyên 6.192 tỷ đồng, đạt 102,22% dự toán năm).
3. Hoạt động tín dụng
- Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định. Trong năm thực hiện tốt các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn, mở rộng tín dụng an toàn và có hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, xuất khẩu… và các chương trình, chính sách tín dụng của Nhà nước; triển khai thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường; tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, đối thoại doanh nghiệp nhằm thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; thực hiện các giải pháp cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu; đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển mạng lưới ATM và POS,…
- Tình hình thực hiện lãi suất: Đã thực hiện tốt các quy định về lãi suất huy động và cho vay, tiết kiệm chi phí hoạt động để có điều kiện giảm lãi cho vay nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng. Mặt bằng lãi suất tương đối ổn định so đầu năm. Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 4,5-5,5%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng là 5,5-6,8%/năm, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 6,6-7,5%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 5,5-7,5%/năm, các lĩnh vực khác từ 9-10%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 10-11,5%/năm.
- Hoạt động tín dụng: Được tiếp tục đẩy mạnh để tạo nguồn cho vay phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương. Đến 30/11/2019, nguồn vốn huy động đạt 38.593 tỷ đồng, tăng 13,64% so với đầu năm; tổng dư nợ cho vay đạt 57.623 tỷ đồng, tăng 24,19% so với đầu năm. Ước đến 31/12/2019, vốn huy động đạt 39.053 tỷ đồng, tăng 15,0% so với đầu năm; dư nợ đạt 58.460 tỷ đồng, tăng 26,0% so với đầu năm.
- Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của Trung ương và địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 31.730 tỷ đồng, chiếm 55,1% tổng dư nợ; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 565 tỷ đồng, chiếm 1,0% tổng dư nợ; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 13.132 tỷ đồng, chiếm 22,8% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.699 tỷ đồng.
- Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 970,8 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ 298,8 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ 659,6 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 12,4 tỷ đồng). Nợ xấu là 11,7 tỷ đồng/4 tàu, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 60,5 tỷ đồng/65 tàu.
- Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết số 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 326 tỷ đồng phục vụ sản xuất tôm giống, nuôi tôm thịt, mua bò và chăm sóc bò giống, trồng thanh long.
- Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP: Hiện đang được triển khai tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh tỉnh với dư nợ đạt 26 tỷ đồng/68 hộ.
- Chất lượng tín dụng: Tỉnh tiếp tục thực hiện các giải pháp để ngăn chặn và xử lý nợ xấu, trong đó thực hiện đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý, thu nợ. Đến 30/11/2019, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn là 294 tỷ đồng, chiếm 0,51% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu giảm 0,3% so với đầu năm.
- Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Tiếp tục tăng cường đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển lương qua tài khoản, thanh toán qua POS. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục được mở rộng, hoạt động thông suốt và an toàn. Đến 30/11/2019, trên địa bàn có 173 máy ATM, tăng 02 máy so với đầu năm và 1.724 máy POS, tăng 224 máy so với đầu năm, hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
- Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Tiếp tục triển khai thực hiện tốt việc quản lý ngoại hối, quản lý hoạt động kinh doanh vàng trên địa bàn; tổ chức tốt công tác điều hòa tiền mặt, an toàn kho quỹ, thanh toán điện tử liên ngân hàng. Nhìn chung, các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 11 tháng năm 2019 đạt 895 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 57 triệu USD.
V. Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội
1. Hoạt động văn hóa:
Trong năm 2019, công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng kịp thời, đa dạng. Các cơ quan báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, nội dung tuyên truyền phản ánh đầy đủ, đa dạng mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội đặc biệt là tập trung vào các sự kiện nổi bật của tỉnh và đất nước. Hoạt động văn hóa, văn nghệ diễn ra sôi nổi, thiết thực phục vụ các ngày lễ, tết, ngày kỷ niệm của quê hương, đất nước, nhiều chương trình được tiếp tục duy trì và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa và giải trí của nhân dân, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Hoạt động văn hóa, văn nghệ tiếp tục hướng về cơ sở phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo, vùng bãi ngang đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân.
Hoạt động bảo tồn, bảo tàng, phát huy các giá trị lịch sử văn hoá đã đem lại cho du khách tham quan, thưởng lãm nhiều trải nghiệm quý báu về con người và văn hoá Bình Thuận. Lũy kế cả năm, tổng lượt khách tham quan các bảo tàng, Ban Quản lý di tích Tháp Pô Sah Inư Trung tâm Trưng bày Văn hoá Chăm đạt 576 ngàn lượt khách. Tổ chức thành công lễ hội Katê năm 2019 tại nhóm đền tháp Chăm Pô Sah Inư và Trung tâm Trưng bày Văn hóa Chăm. Phối hợp với Bảo tàng tỉnh Gia Lai trưng bày chủ đề “Hội ngộ di sản Văn hóa” nhân kỷ niệm Ngày di sản Văn hóa Việt Nam (23/11).
2. Thể dục thể thao:
Hoạt động thể dục thể thao diễn ra sôi nổi, thiết thực góp phần phục vụ nhu cầu rèn luyện thể chất trong nhân dân. Các giải thể thao cấp tỉnh được duy trì với quy mô tổ chức ngày càng chuyên nghiệp, công tác xã hội hóa về thể dục thể thao có bước chuyển biến tiến bộ. Công tác quản lý nhà nước tập trung chặt chẽ hơn, giáo dục đào tạo vận động viên được chú trọng; thành tích thể thao có nhiều tiến bộ đạt nhiều huy chương, đẳng cấp thông qua các giải cấp khu vực, quốc gia và quốc tế. Lũy kế cả năm, tổng số huy chương đạt được 166/95 huy chương đạt 175% kế hoạch, trong đó có 54/26 huy chương vàng (đạt 208% kế hoạch), 46/30 huy chương bạc (đạt 153% kế hoạch), 66/39 huy chương đồng (đạt 169% kế hoạch).
3. Giáo dục và Đào tạo:
Tỉnh đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, hoàn thành chương trình năm học 2018 - 2019. So năm học trước đã có sự chuyển biến đáng kể về quy mô phát triển lẫn loại hình giáo dục. Cơ sở vật chất được đầu tư xây dựng nhiều hơn, trường, lớp được xây dựng kiên cố hoá, từng bước đi đến chuẩn hóa và chất lượng giáo dục học sinh cũng được nâng cao.
* Kết quả năm học 2018 - 2019, cụ thể như sau
3.1. Giáo dục phổ thông
- Tiểu học
+ Về xếp loại học tập: Môn Toán đạt hoàn thành trở lên chiếm tỷ lệ 99,06% (trong đó hoàn thành tốt chiếm 45,60%, hoàn thành 53,46%). Môn Tiếng Việt hoàn thành trở lên chiếm tỷ lệ 98,77% (trong đó hoàn thành tốt chiếm 39,16% và hoàn thành 59,61%).
+ Về Năng lực: Tự phục vụ: đạt trở lên chiếm 99,81% (trong đó loại tốt 58,11%); Hợp tác: đạt trở lên chiếm 99,76% (trong đó loại tốt 57,17%); Tự học và giải quyết vấn đề: đạt trở lên chiếm 99,53% (trong đó loại tốt 49,93%).
+ Về Phẩm chất: Chăm học chăm làm: đạt trở lên chiếm 99,72% (trong đó loại tốt 53,29%); Tự tin trách nhiệm: đạt trở lên chiếm 99,87% (trong đó loại tốt 53,67%); Trung thực, kỷ luật: đạt trở lên chiếm 99, 95% (trong đó loại tốt 62,07%); Đoàn kết, yêu thương: đạt trở lên chiếm 99,96% (trong đó loại tốt 67,61%).
- Trung học cơ sở: Học sinh đạt học lực khá, giỏi đạt tỷ lệ 56,77% (giảm 1,17% so với năm học trước); học sinh đạt hạnh kiểm khá, tốt đạt tỷ lệ 92,82% (giảm 0,07% so với năm trước).
- Trung học phổ thông: Học sinh đạt học lực khá, giỏi đạt tỷ lệ 59,54% (tăng 2,46% so với năm trước); học sinh đạt hạnh kiểm khá, tốt đạt tỷ lệ 93,66% (giảm 0,02% so với năm trước).
- Kết quả các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia và khu vực của trường THPT chuyên Trần Hưng Đạo:
+ Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, có 09 học sinh đạt giải (01 Giải Nhì, 01 Giải Ba, 06 Giải Khuyến khích). So với năm học 2017 - 2018 (giảm 01 giải ba, 01 giải khuyến khích).
+ Kỳ thi Olympic 30/4 các trường Chuyên phía Nam năm học 2018-2019, có 48 học sinh đạt Huy chương (tăng 06 so với năm học trước), tuy nhiên số lượng Huy chương vàng giảm đáng kể 08 huy chương. Do vậy, về số lượng thì chỉ tiêu này đạt và vượt mức kế hoạch nhưng về chất lượng thì chưa đạt yêu cầu.
- Kết quả kỳ thi trung học phổ thông quốc gia: Số lượng học sinh đậu tốt nghiệp của toàn tỉnh năm 2019 đạt tỷ lệ 96,37% (riêng học sinh THPT đạt tỷ lệ 97,98%), cao hơn tỷ lệ chung của toàn quốc (94,06%). Toàn tỉnh có điểm trung bình thi đạt 5,648 điểm, xếp vị trí thứ 13/63 tỉnh, thành trong cả nước. Đồng thời, theo thống kê tổng điểm các môn thi THPT quốc gia năm 2019 (từ 5 điểm trở lên), tỉnh đạt tỷ lệ 68,17% (vượt tỷ lệ của toàn quốc 7,48%) và vượt ở tất cả các môn thi.
3.2. Về khắc phục tình trạng học sinh bỏ học
Số lượng học sinh bỏ học năm học 2018 - 2019 của các cấp là 1.121 em, chiếm tỷ lệ 0,49%, giảm tỷ lệ 0,01% so với năm học 2017 - 2018, cụ thể:
- Cấp tiểu học: có 09 học sinh, tỷ lệ 0,01%, bằng tỷ lệ so với năm học trước;
- Cấp trung học cơ sở: có 894 học sinh bỏ học, tỷ lệ 1,13%, tăng 0,09%;
- Cấp trung học phổ thông: có 218 học sinh bỏ học, tỷ lệ 0,66%, giảm 0,25%.
3.3. Kết quả huy động học sinh các cấp học và thực hiện tuyển mới các lớp đầu cấp năm học 2019 - 2020
- Tỷ lệ huy động học sinh các cấp học
+ Mầm non: Số học sinh có mặt đầu năm là 60.769 em (thấp hơn chỉ tiêu 1.214 em), trong đó nhà trẻ 6.832 (thấp hơn chỉ tiêu 1.117 em), mẫu giáo 53.937 (thấp hơn chỉ tiêu 97 em).
+ Tiểu học: số học sinh tiểu học có mặt đầu năm là 118.162 HS, vượt chỉ tiêu 4,83%.
+ Trung học cơ sở: số học sinh có mặt đầu năm 78.653 HS, tỷ lệ 98,6% (thấp hơn chỉ tiêu 1,66%);
+ Trung học phổ thông: số học sinh có mặt đầu năm 35.333 HS, trong đó tổng số học sinh DTNT 791 HS, thấp hơn 1,13%; tổng số học sinh trường chuyên 1.159 HS, thấp hơn chỉ tiêu 10,85%;
-. Thực hiện tuyển mới các lớp đầu cấp
+ Tuyển mới vào lớp 1 là 23.711 em, đạt 99,96%, vượt chỉ tiêu được giao 0,06%.
+ Tuyển mới vào lớp 6 phổ thông 21.558 HS, vượt 0,52%; tuyển mới lớp 6 DTNT 269 HS, thấp hơn chỉ tiêu 15,94%; tổng số học sinh DTNT 1.066 HS, vượt 17,9%.
+ Tuyển mới lớp 10 DTNT 384 học sinh (vượt chỉ tiêu 12,9%), số học sinh thực học 349 HS, vượt chỉ tiêu 2,6%; tuyển mới lớp 10 chuyên 382 học sinh, thấp hơn chỉ tiêu 9,05%.
+ Hiện nay, sau khi sáp nhập, số trường tiểu học công lập là 247 trường. Số lượng trường tiểu học tổ chức dạy 02 buổi/ngày có 247/247 trường, tăng 38 trường, so với năm học trước thì tỷ lệ tăng 19,93%.
3.4. Củng cố, duy trì nâng cao chất lượng công tác phổ cập giáo dục
Tính đến thời điểm báo cáo, có 127/127 xã đạt chuẩn PCGDMN 5 tuổi; xã đạt chuẩn PCGD TH có 126 xã đạt mức độ 3, 01 xã đạt mức độ 2; 120 xã đạt xóa mù chữ mức độ 2, 07 xã đạt xóa mù chữ mức độ 1; 127 xã đạt chuẩn PCGD THCS (trong đó có 25 xã đạt mức độ 1, 90 xã đạt mức độ 2, 12 xã đạt mức độ 3).
3.5. Công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia
Năm học 2018 - 2019, tổng số trường công lập là 570 trường; sau khi sáp nhập, năm học 2019-2020, đến thời điểm báo cáo, toàn tỉnh có 548 trường (giảm 22 trường). Tổng số trường đạt chuẩn quốc gia là 235/548 trường, gồm có 39 trường mầm non, 118 trường tiểu học, 64 trường THCS, 14 trường THPT. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia so với số trường công lập là 42,33% (trong đó trường mầm non đạt 26,89%/145 trường, trường tiểu học đạt 47,77%/247 trường, trường THCS 49,23%/130 trường, trường THPT đạt 53,85%/26 trường).
Nhìn chung, công tác giáo dục và đào tạo tiếp tục duy trì ổn định dạy và học ở từng cấp học trên toàn tỉnh. Tỷ lệ huy động học sinh ở các cấp học đều vượt và tăng, chất lượng giáo dục đều chuyển biến tiến bộ so năm học trước; giảm được tỷ lệ học sinh bỏ học trong năm. Công tác chuẩn bị cho kỳ thi THPT quốc gia năm 2019 được chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ, huy động được cả hệ thống chính trị và lực lượng trong xã hội cùng tham gia; học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt tỷ lệ 94,06% so tỷ lệ tốt nghiệp THPT toàn quốc và toàn tỉnh có điểm trung bình thi xếp vị trí thứ 13/63 tỉnh, thành trong cả nước.
4. Y tế
Trong tháng (15/11 - 15/12/2019) có 284 cas mắc sốt xuất huyết và không có cas tử vong (lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/12/2019 có 5.399 cas mắc sốt xuất huyết, tăng 4,65 lần so với cùng kỳ năm trước); 10 cas mắc sốt rét, 330 cas mắc tay chân miệng, không có cas tử vong. Số bệnh nhân mắc bệnh phong 11 bệnh nhân, không có bệnh nhân phát hiện mới và không có bệnh nhân mới tàn tật độ II, có 466 bệnh nhân đang quản lý.
Công tác phòng chống Lao: có 980 tổng số lượt khám, số bệnh nhân thu dung điều trị 142. Số bệnh nhân lao phổi AFB (+) mới 55.
Số nhiễm HIV mới phát hiện 11 cas (lũy kế 1.403 cas); có 4 cas chuyển IDS mới (lũy kế 998 cas); 02 cas tử vong (lũy kế 513 cas).
Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm được triển khai tích cực; trong tháng không xảy ra ngộ độc thực phẩm; Lỹ kế từ đầu năm đến ngày 15/12/2019 xảy ra 04 vụ ngộ độc thực phẩm, không có tử vong.
Các bệnh viện, các đơn vị điều trị chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân; thực hiện đầy đủ các quy định chuyên môn của Bộ Y tế; tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Trong tháng 12 số lượt bệnh nhân đến khám, chữa bệnh 84.645 lượt, số bệnh điều trị nội trú 12.181, số bệnh nhân chuyển viện là 717. Số bệnh nhân tử vong 33. Luỹ kế ước tổng số lượt bệnh nhân đến khám, chữa bệnh 2.233.568 lượt với tổng số bệnh điều trị nội trú 172.394; Công suất sử dụng giường bệnh tại các tuyến đạt kế hoạch đề ra.
Toàn tỉnh hiện có 12 phòng khám đa khoa khu vực và 115/115 trạm y tế xã, phường có bác sỹ công tác, chiếm tỷ lệ 100%. Có 126/127 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Số bác sỹ/vạn dân 7,15 người.
5. Thông tin và Truyền thông, Khoa học - Công nghệ:
Công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng kịp thời, đa dạng. Thông tin liên lạc đảm bảo thông suốt đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ nhân dân; hạ tầng mạng lưới bưu chính, viễn thông được đầu tư theo hướng hiện đại, chất lượng các dịch vụ ngày càng được nâng lên. Hạ tầng mạng viễn thông 3G, 4G được phát triển mở rộng; đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Mạng lưới phục vụ bưu chính, viễn thông với 1.130 cơ sở kinh doanh dịch vụ BCVT, đạt bán kính phục vụ bình quân là 1,48 km/cơ sở. Tổng số thuê bao điện thoại các loại ước đạt: 1.832.600 thuê bao (điện thoại cố định là 41.000 thuê bao), mật độ điện thoại 146 thuê bao/100 dân, đạt 100% kế hoạch. Tổng số thuê bao Internet ước đạt: 125.000 thuê bao, tỷ lệ người sử dụng Internet (quy đổi) là 59%.
Các sở, ngành, địa phương đã tích cực hơn trong việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động chuyên môn. Các phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước đã phát huy hiệu quả tốt, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, thúc đẩy cải cách hành chính, minh bạch hóa thông tin, phục vụ chỉ đạo điều hành, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Công tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin và phòng chống mã độc trong các cơ quan nhà nước được quan tâm thực hiện.
Hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được chú trọng. Đã tuyển chọn được 5 tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện 5 nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp tỉnh trong năm 2019; nghiệm thu kết quả thực hiện 5 nhiệm vụ khoa học và công nghệ và bàn giao vào ứng dụng 10 nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Các giải pháp nhằm hỗ trợ thúc đẩy hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ, hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đã được triển khai thực hiện và đạt được một số kết quả bước đầu. Đăng ký chỉ dẫn địa lý thanh long Bình Thuận vào Nhật Bản; Hỗ trợ huyện Phú Quý đăng ký bảo hộ cho 3 sản phẩm đặc trưng của huyện; lựa chọn 3 công trình sáng tạo khoa học và công nghệ của tỉnh để công bố trong Sách vàng Sáng tạo Việt Nam năm 2019 (Kết quả, có 1 công trình được lựa chọn công bố trong Sách vàng Sáng tạo Việt Nam năm 2019). Các giải pháp nhằm tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bước đầu đã được các ngành, địa phương triển khai thực hiện.
6. Tài nguyên - môi trường
Trong năm, cơ bản hoàn thành điểu chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất cấp huyện; Công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên đất được 7.009,36 ha, đạt 139,7% kế hoạch (trong đó các tổ chức 1.621,02 ha đạt 324,2% kế hoạch; hộ gia đình cá nhân 5.388,34 ha đạt 119,3% kế hoạch); tổng thu được từ đấu giá quyền sử dụng đất là: 171,1 tỷ đồng, đạt 342,24% kế hoạch; thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp được 30 tỷ đồng/7 tỷ đồng, đạt 428% kế hoạch. Công tác quản lý nhà nước về khoáng sản được tăng cường; các điểm nóng về môi trường luôn được giám sát chặt chẽ, tình hình môi trường tại Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân, Cụm công nghiệp chế biến hải sản Phú Hài đã tương đối ổn định. Công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành về đất đai, môi trường, khoáng sản được quan tâm và đạt được các kết quả nhất định.
7. Lao động - Xã hội; Chính sách vùng đồng bào dân tộc
- Công tác lao động, việc làm: Trong tháng đã giải quyết việc làm cho 864 lao động. Lũy kế cả năm (đến ngày 14/12/2019), toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 24.628 lao động, đạt 102,6% so kế hoạch và tăng 0,93% so cùng kỳ năm trước; trong đó, cho vay vốn giải quyết việc làm 1.218 lao động, đạt 101,5% so kế hoạch và tăng 1,5% so cùng kỳ năm trước.
Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới và đào tạo nghề trong tháng cho 1.002 người. Lũy kế cả năm 14.327 người, đạt 130,25% so kế hoạch và tăng 29,57% so cùng kỳ năm trước; trong đó đào tạo nghề cho lao động nông thôn 5.010 người, đạt 100,2% so kế hoạch năm và bằng 82,33% so cùng kỳ năm trước (đào tạo nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp 2.614 người, đạt 93,36% so kế hoạch năm; đào tạo nghề thuộc lĩnh vực phi nông nghiệp 2.396 người, đạt 108,91% so kế hoạch năm).
- Công tác chính sách người có công: Trong tháng đã trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 07 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công; Quyết định trợ cấp Ưu đãi giáo dục cho 02 trường hợp; Trợ cấp mai táng phí cho 26 trường hợp. Thực hiện chế độ cho các đối tượng khác: Cấp BHYT cho 12 trường hợp; cấp mai táng phí cho: 22 trường hợp; đổi người thờ cúng 49 trường hợp; Ngoài ra, tiếp nhận hồ sơ liệt sĩ: 11 hồ sơ; di chuyển 03 hồ sơ đi tỉnh ngoài. đính chính thông tin trong hồ sơ bệnh binh: 01 hồ sơ; đính chính thông tin trong hồ sơ liệt sĩ: 07 hồ sơ và đổi người thờ cúng 42 trường hợp.
Lũy kế cả năm trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 180 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công; Trợ cấp cho 256 thân nhân thờ cúng liệt sỹ; Quyết định trợ cấp Ưu đãi giáo dục cho 109 trường hợp; Cấp dụng cụ chỉnh hình cho 60 trường hợp; Trợ cấp mai táng phí cho 626 trường hợp. Thực hiện chế độ cho các đối tượng khác: Trợ cấp 01 lần cho 16 trường hợp; Cấp BHYT cho 356 trường hợp. Ngoài ra: di chuyển 30 hồ sơ đi tỉnh ngoài và tiếp nhận 54 hồ sơ từ tỉnh ngoài chuyển đến. Thẩm định 33 hồ sơ phong tặng và truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam anh hùng và 50 hồ sơ tặng thưởng Huân Chương Độc lập cho gia đình có nhiều liệt sĩ gửi Ban Thi đua Khen thưởng tỉnh tổng hợp trình UBND tỉnh. Tiếp nhận 22 hài cốt Liệt sĩ và an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh do Bộ CHQS tỉnh tổ chức và di chuyển 11 hài cốt liệt sĩ về địa phương theo nguyện vọng gia đình.
- Công tác giảm nghèo: Trong năm 2019 đã giải quyết cho 889 hộ nghèo, 2.213 hộ cận nghèo và 4.212 hộ mới thoát nghèo vay vốn phát triển sản xuất với tổng nguồn vốn cho vay là 299.659 triệu đồng. Cấp 17.478 thẻ BHYT cho người nghèo và 32.147 thẻ BHYT cho người thuộc hộ cận nghèo để khám, chữa bệnh. Đề nghị hỗ trợ tiền điện cho 34.461 lượt hộ nghèo và hộ chính sách xã hội, kinh phí thực hiện là 4.755 triệu đồng (theo Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ quy định về cơ cấu biểu giá bán lẻ tiền điện).
- Vận động đóng góp các loại quỹ (đến ngày 30/11/2019): Quỹ Đền ơn đáp nghĩa đã vận động đóng góp được 8,9 tỷ đồng đạt 147,5% so kế hoạch. Quỹ Bảo trợ trẻ em đã vận động được 2,23 tỷ đồng, đạt 111,4% so kế hoạch năm. Quỹ Bảo trợ trẻ em vận động các nhà tài trợ hỗ trợ mổ tim cho 24 trẻ em. Hỗ trợ học bổng 115 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Xây 01 nhà tình thương 50 triệu đồng cho 01 gia đình phụ nữ gặp khó khăn. Hỗ trợ đột xuất cho 28 trẻ bị bệnh hiểm nghèo, bị xâm hại, bị tai nạn thương tích. Phối hợp với Bảo hiểm nhân thọ hỗ trợ xe đạp và ba lô cho 20 trẻ có hoàn cảnh khó khăn tại 04 huyện Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Tân, Phú Quý. Phối hợp với Bảo hiểm AIA hỗ trợ 41 xe đạp trẻ em có hoàn cảnh khó khăn tại Phan Thiết và Tánh Linh.
- Toàn tỉnh có 2.976 người nghiện ma túy; có 107/127 xã, phường, thị trấn có người sử dụng chất ma túy trái phép, chiếm 84,25%. Số người đăng ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone đến nay là 1.531 người, hiện đang duy trì điều trị là 632 người
- Trong năm tỉnh đã quan tâm thực hiện tốt việc phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các chương trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các chế độ, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai kịp thời, đã phân khai các nguồn vốn: Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2019, Dự án 2-Chương trình 135 (18.315 triệu đồng); hỗ trợ đầu tư Dự án định canh định cư tập trung khu Saloun, xã Đông Giang huyện Hàm Thuận Bắc và hạ tầng kỹ thuật khu định canh định cư tập trung thôn I, xã Gia Huynh, huyện Tánh Linh (5.000 triệu đồng); giao khoán bảo vệ rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số năm 2019 (17.363 triệu đồng, diện tích 86.253 ha/2.381 hộ); hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số (5.000 triệu đồng/8 công trình); hỗ trợ trợ cấp đối với học sinh từ mẫu giáo đến trung học cơ sở (6.747 triệu đồng); trợ cấp cho học sinh, sinh viên đang học các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp (2.000 triệu đồng). Cung ứng kịp thời vật tư hàng hóa các loại phục vụ sản xuất và đời sống cho đồng bào dân tộc. Nhìn chung hoạt động sản xuất và đời sống của đồng bào được cải thiện rõ nét, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và hoạt động của các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trong vùng đồng bào dân tộc cơ bản ổn định, khối đại đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố tiếp tục được nâng lên và giữ vững.
8. Hoạt động Bảo hiểm (đến ngày 30/11/2019):
- Luỹ kế 11 tháng, toàn tỉnh có 96.237 người tham gia BHXH bắt buộc, đạt 96,2% kế hoạch và tăng 2,8% so cùng kỳ; có 86.718 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt 96,7% kế hoạch và tăng 6,1% so cùng kỳ; Số người tham gia BHXH tự nguyện 3.752 người đạt 112,2% kế hoạch và tăng 490,9% so cùng kỳ; Số người tham gia BHYT 982.465 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 10.785 người) đạt 97,4% kế hoạch và tăng 2,7% so cùng kỳ. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 83,6% dân số, dự ước cả năm đạt 86%.
- Luỹ kế 11 tháng, toàn tỉnh thu được 2.093,256 tỷ đồng, đạt 90,1% kế hoạch, tăng 9,2% so cùng kỳ năm trước. Tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN là 149,537 tỷ đồng, chiếm 6,43% kế hoạch thu và tăng 33,5% so cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT chính xác, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch; thực hiện tốt việc chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, BHTN đảm bảo đầy đủ, kịp thời, an toàn.
9. Tai nạn giao thông:
Trong tháng (từ 15/11/2019 - 14/12/2019), tai nạn giao thông trên địa bàn xảy ra như sau:
- Số vụ tai nạn giao thông 25 vụ, giảm 13 vụ so tháng trước và so cùng kỳ năm trước giảm 15 vụ. Luỹ kế cả năm 422 vụ (trong đó đường sắt 3 vụ), so cùng kỳ năm trước giảm 5 vụ.
- Số người bị thương 12 người, giảm 9 người so tháng trước và giảm 20 người so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế cả năm 304 người (trong đó đường sắt 1 người), giảm 9 người so cùng kỳ năm trước.
- Số người chết 21 người, tăng 11 người so tháng trước và không tăng không giảm so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế cả năm 232 người (trong đó đường sắt 5 người), giảm 13 người so cùng kỳ năm trước.
Tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra trên đường bộ, ở khu vực ngoài đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát, có rượu bia khi tham gia giao thông. Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn giao thông đường sắt đặc biệt nghiêm trọng. Lũy kế 12 tháng xảy ra 03 vụ tai nạn giao thông đường sắt và làm chết 5 người.
10. Thiên tai, cháy nổ:
- Thiên tai: trong tháng xảy ra 1 vụ thiên tai do sạt lở bờ biển, sóng lớn, triều cường, sạt lở dài hơn 300m sâu vào đất liền khoảng 04 - 05m, kéo đất, đá (đổ đá hộc dọc ven bờ) được gia cố tạm trước đây ra ngoài biển, làm ngã đổ các cây Phi lao trồng dọc ven biển và gây nguy hiểm đến nhà cửa của; chưa đánh giá được thiệt hại. Lũy kế cả năm có 19 vụ thiên tai, ước thiệt hại 5,18 tỷ đồng.
- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 4 vụ cháy, thiệt hại 19,75 triệu đồng; nổ không xảy ra. Lũy kế cả năm (đến ngày 10/12/2019) xảy ra 47 vụ cháy, giảm 12 vụ so cùng kỳ; chết 1 người và gây thiệt hại 2,2 tỷ đồng (giảm 12 tỷ so cùng kỳ).
- Vi phạm môi trường: Trong tháng đã phát hiện 01 vụ (bằng số vụ cùng kỳ), đã xử phạt 90 triệu đồng. Lũy kế cả năm xảy ra 38 vụ (tăng 2 vụ so với cùng kỳ), xử phạt 3.648 triệu đồng.
ĐÁNH GIÁ CHUNG:
- Kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng khá, vượt mục tiêu đề ra, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực.
- Sản xuất nông nghiệp có nhiều cố gắng. Sản lượng khai thác, nuôi trồng thủy sản, sản xuất tôm giống tăng nhẹ so cùng kỳ năm trước. Công tác phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và kiểm soát giết, mổ được tăng cường, triển khai tích cực các biện pháp phòng, chống dịch tả heo Châu Phi. Chú trọng công tác trồng rừng, quản lý, bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn lợi thủy sản; xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực. Các chính sách hỗ trợ phát triển dân sinh, kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm thực hiện tốt.
- Sản xuất công nghiệp tăng khá; các công trình, dự án điện được đẩy nhanh tiến độ thực hiện, sản lượng điện phát ra tăng cao so cùng kỳ năm trước. Hoạt động du lịch, thương mại, dịch vụ phát triển ổn định; lượng du khách, doanh thu du lịch tăng so với cùng kỳ năm trước. Cảng quốc tế Vĩnh Tân đưa vào hoạt động, đẩy mạnh kết nối vận chuyển hàng hóa của tỉnh và khu vực. Thu ngân sách nhà nước đạt kết quả khá. Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định. Chi ngân sách bảo đảm cho yêu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, các chính sách xã hội và các nhiệm vụ trọng tâm, bức xúc.
- Chất lượng giáo dục tiếp tục được duy trì. Tỷ lệ thí sinh đỗ tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2019 đạt cao; tiếp tục giữ vững chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Quan tâm công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vệ sinh an toàn thực phẩm. Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao, thông tin - truyền thông được duy trì ổn định. Các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Đời sống nhân dân ổn định, một bộ phận có bước cải thiện.
- Tổ chức thành công Hội nghị xúc tiến đầu tư tỉnh năm 2019, tích cực mở rộng hợp tác đối ngoại kinh tế, xúc tiến đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách và vốn đầu tư nước ngoài đạt khá. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Công tác đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách và thu hút vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhân tăng cao, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng của tỉnh thời gian qua. Thu ngân sách nhà nước đạt kết quả khá và tăng cao so với năm trước. Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định. Chi ngân sách bảo đảm cho yêu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, các chính sách xã hội và các nhiệm vụ trọng tâm, bức xúc.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn một số tồn tại, hạn chế:
- Kinh tế tuy có tăng trưởng khá, nhưng cơ cấu kinh tế tăng trưởng không đồng đều; tăng trưởng khu vực dịch vụ, khu vực nông lâm thủy sản không đạt kế hoạch năm.
- Tình hình thời tiết làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, diện tích và sản lượng lương thực giảm so với năm trước. Dịch tả heo Châu Phi đang lây lan nhanh, gây thiệt hại nghiêm trọng. Giá cả một số mặt hàng nông sản thiếu ổn định; kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản giảm so với cùng kỳ năm trước. Tình trạng vi phạm Luật Lâm nghiệp. Tình hình vi phạm về khai thác IUU (hoạt động đánh bắt cá trái phép, không báo cáo và không được quản lý) vẫn còn xảy ra.
- Giá một số nông sản chưa ổn định, chất lượng và khả năng cạnh tranh một số nông sản còn thấp. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản giảm so cùng kỳ năm trước.
- Thu hút các dự án đầu tư vào các khu công nghiệp còn chậm. Số dự án ngoài ngân sách triển khai xây dựng, đi vào hoạt động còn ít. Nguồn lực đầu tư phát triển còn hạn chế, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu và chưa đồng bộ.
- Giáo dục toàn diện có mặt chưa đáp ứng yêu cầu; Công tác đào tạo nghề còn hạn chế, chưa gắn chặt với nhu cầu của thị trường lao động. Hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị trường lao động chưa tốt.
- Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh từng lúc, từng nơi vẫn còn tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp. Tội phạm hình sự gia tăng, một số tội còn xảy ra nhiều, tính chất thủ đoạn manh động, nghiêm trọng như giết người, cướp tài sản, trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích,... Giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố và án kết thúc điều tra tỷ lệ còn thấp. Tội phạm, vi phạm về ma túy, kinh tế, môi trường, tệ nạn cờ bạc, mại dâm chưa được ngăn chặn hiệu quả. Tai nạn giao thông đường bộ tăng cả trên 03 tiêu chí (số vụ, số người chết và số người bị thương).
Từ kết quả trên, tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) năm 2019, tăng 11,09% so năm trước, trong đó giá trị tăng thêm tăng 11,12%, thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 10,63%. Giá trị tăng thêm nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,80%; công nghiệp xây dựng tăng 27,07% (công nghiệp tăng 30,45%, xây dựng tăng 10,71%); dịch vụ tăng 6,97%. GRDP bình quân đầu người đạt 61,9 triệu đồng (tương đương 2.681 USD).
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 28,66%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 31,05%; khu vực dịch vụ chiếm 33,9%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,39% (Cơ cấu tương ứng cùng kỳ năm 2018 là: 30,82%; 27,28%; 35,40%; 6,51%).