I. CÔNG NGHIỆP
Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp ước thực hiện tháng 5 tăng 6,55% so tháng trước và đạt 91,77% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo đạt 90,40%; ngành phân phối điện tăng 3,07%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý xử lý rác thải tăng 7,07%.
Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp ước thực hiện 5 tháng đạt 98,99% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo đạt 98,57%, ngành phân phối điện tăng 2,19%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý xử lý rác thải tăng 3,21%. Ngay từ đầu năm, dịch Covid-19 xuất hiện với nhiều diễn biến khó lường, tác động sâu rộng đến hầu hết các ngành kinh tế và các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Một số sản phẩm xuất khẩu sang thị trường nước ngoài bị giảm mạnh, thêm vào đó nguồn nguyên liệu cung cấp để phục vụ sản xuất bị thiếu hụt, ảnh hưởng lớn đến tiến độ giao hàng cho các đối tác mới. Vì thế, doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. Từ nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất cho đến sản phẩm đầu ra không tiêu thụ được nhiều. Cùng với đó thì việc xuất hàng hóa cũng rất khó khăn do nhu cầu sử dụng giảm, sức mua của người dân chững lại. Một số sản phẩm có chỉ số giảm như: tôm đông lạnh giảm 3,20%, thức ăn gia súc giảm 59,41%, bia lon giảm 26,35%, thuốc lá giảm 14,14%, quần áo may sẵn giảm 38,57%, bao và túi dùng để đóng gói giảm 44,64%; nguyên nhân do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, ảnh hưởng của Nghị định 100 của Chính Phủ về việc xử phạt vi phạm giao thông đường bộ và do tình hình dịch bệnh nên người dân hạn chế tụ tập dẫn đến nhu cầu tiêu thụ giảm, khối lượng sản xuất giảm. Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm đạt mức tăng trưởng khá như: gạo xay xát tăng 9,87% (tháng 4/2020 tình hình xuất khẩu gạo bị hạn chế nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia nhưng đến nay tình hình xuất khẩu gạo đã trở lại bình thường), sản phẩm in khác tăng 11,59%, xi măng tăng 48,41%, điện thương phẩm tăng 2,19%, nước sinh hoạt tăng 3,84% (thời tiết nắng nóng nên nhu cầu sử dụng điện, nước của người dân tăng). Nhờ sự hỗ trợ của các tổ chức tín dụng góp phần đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn, với những chính sách ưu đãi về vốn, góp phần giảm bớt gánh nặng kinh tế cho doanh nghiệp. Với tâm thế chủ động, nỗ lực của từng doanh nghiệp, cùng sự vào cuộc kịp thời của các tổ chức tín dụng và hơn cả là sự đồng hành của chính quyền các cấp, các doanh nghiệp đã nỗ lực vượt qua thách thức, đón thời cơ, từng bước phục hồi trong sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực vươn lên, trụ vững được trong thị trường đầy biến động này, có những doanh nghiệp nỗ lực vượt khó để đạt mục tiêu kế hoạch đề ra, duy trì sản xuất, ổn định việc làm cho người lao động.
Ước 6 tháng đầu năm 2020 chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp tăng 1,83% so cùng kỳ năm trước.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tháng 5/2020 đạt 80,95% so với tháng cùng kỳ. Nhìn chung 5 tháng chỉ số tiêu thụ chỉ ở mức 90,62% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/5/2020 tăng 16,74% so với tháng cùng kỳ. Qua chỉ số trên cho thấy có nhiều doanh nghiệp giảm hoặc không tiêu thụ được sản phẩm, hàng hóa, dẫn đến hàng hóa tồn kho tăng. Một phần bị ảnh hưởng từ dịch covid-19 nên hàng hóa sản xuất không xuất kho được, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp.
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 5/2020 tăng 0,23% so với tháng trước, giảm 0,13% so với tháng cùng kỳ năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 2,68%, doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 0,27% và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 3,51%. Nhìn chung, số lao động ở các doanh nghiệp có mức giảm nhẹ so với cùng kỳ.
Tình hình đăng ký kinh doanh: Đến ngày 15/5/2020, cấp mới 879 lượt hồ sơ đăng ký mới doanh nghiệp và các đơn vị phụ thuộc, trong đó 491 lượt hồ sơ đăng ký mới doanh nghiệp với tổng vốn 2.573,5 tỷ đồng, đạt 30,7% KH về số lượng doanh nghiệp và đạt 20,6% KH về vốn, bằng 86% về số lượng doanh nghiệp và bằng 46,9% về vốn so cùng kỳ.
Thành phố Cần Thơ hiện có tổng số 8.562 doanh nghiệp và 1.925 chi nhánh, văn phòng đại diện đang hoạt động. Đến ngày 15/5/2020, số doanh nghiệp tạm ngưng hoạt động có thời hạn, ngưng hoạt động và làm thủ tục giải thể, đã giải thể, bỏ địa chỉ kinh doanh là 705 doanh nghiệp (trong đó có 129 chi nhánh). Trong đó: tạm ngưng hoạt động có thời hạn 359 doanh nghiệp (trong đó có 47 chi nhánh); ngưng hoạt động 187 doanh nghiệp (trong đó có 39 chi nhánh); giải thể 45 doanh nghiệp (trong đó có 24 chi nhánh); bỏ địa chỉ kinh doanh 114 doanh nghiệp (trong đó có 19 chi nhánh).
II. NÔNG LÂM NGHIỆP - THUỶ SẢN
1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
- Cây lúa
Trên những chân ruộng đã thu hoạch xong lúa đông xuân, bà con làm đất xuống giống vụ hè thu 2020. Đến ngày 13/5/2020 diện tích gieo trồng lúa hè thu ước được 74.833 ha (KH 75.330 ha), đạt 99,34% so với kế hoạch, thấp hơn 4.779 ha so với cùng kỳ năm 2019; diện tích được gieo sạ bằng máy phun hạt chiếm khoảng 80% diện tích gieo trồng. Với mục tiêu nâng cao chất lượng, tăng giá trị hàng hóa nông sản để góp phần tăng thu nhập cho nông dân, ngành Nông nghiệp đã khuyến cáo sử dụng các giống lúa đặc sản chất lượng cao trong vụ hè thu chiếm trên 80% diện tích gieo trồng. Đến nay diện tích thu hoạch khoảng 449 ha tập trung tại huyện Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thới Lai và quận Ô Môn; năng suất ước đạt 59 tạ/ha.
Hiện nay, lúa hè thu đang ở giai đoạn mạ đến đòng đến chắc xanh, cây lúa sinh trưởng và phát triển khá tốt; tại một số địa phượng đã xuất hiện những cơn mưa, nhiệt độ bình quân trong ngày vẫn cao sẽ đối mặt với nhiều khó khăn do hạn, mặn đang diễn biến khốc liệt, đồng ruộng dễ bị khô nước nên nông dân phải tăng chi phí bơm tưới nước, cỏ dại và lúa cỏ có điều kiện phát triển mạnh đã ảnh hưởng một phần đến sinh trưởng và phát triển của cây lúa, hiện nông dân đang tích cực chăm sóc lúa. Tổng diện tích nhiễm dịch hại trong tháng là 493 ha (chủ yếu diện tích bệnh đạo ôn lá, bệnh cháy bìa lá... ), thấp hơn 349 ha so với cùng kỳ vụ lúa hè thu 2019. Tuy nhiên, dịch bệnh đã được kiểm soát, xử lý bằng các giải pháp kỹ thuật kịp thời nên đã khống chế sự bùng phát trên diện rộng. Ngành Nông nghiệp địa phương phân công cán bộ kỹ thuật theo dõi và thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra thực tế để kịp thời chỉ đạo vận hành hệ thống thủy lợi, đảm bảo cấp đủ nước tưới cho lúa; đồng thời, các trạm trồng trọt và BVTV thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật tổ chức thăm đồng, nắm chắc diễn biến tình hình dịch bệnh và tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: báo, đài phát thanh, truyền hình,... kịp thời phát hiện các đối tượng dịch hại để có biện pháp phòng tránh kịp thời trong vụ hè thu.
Hiện nay, Lúa hè thu đang bắt đầu thu hoạch, một số quận, huyện có diện tích canh tác lúa lớn đã có thương lái đặt cọc để thu mua.
- Cây hàng năm khác
Tính đến tháng 13/5/2020, diện tích gieo trồng cây hằng năm khác ước khoảng 9.844 ha, cao hơn so với cùng kỳ 400 ha. Nguyên nhân: Diện tích tăng tập trung chủ yếu cây mè ở quận Ô Môn, Thốt Nốt, vì cây mè chịu được thời tiết nắng nóng và chuyển đổi khoảng 2.000 ha từ diện tích sản xuất lúa kém hiệu quả sang cây mè. Đây là cây rất phù hợp với điều kiện thời tiết khí hậu hiện nay và tình hình thị trường giá mè đang tăng cao hơn năm trước từ 30-40%.
Ngành Nông nghiệp đã chỉ đạo xây dựng và mở rộng vùng rau an toàn tập trung chủ yếu ở quận Bình Thủy và huyện Phong Điền. Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất rau an toàn đã giảm chi phí, nâng cao giá trị, chất lượng sản phẩm và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, từ đó tăng hiệu quả sản xuất, góp phần tăng thu nhập cho nông hộ.
Trong tháng, có 85 ha nhiễm dịch hại và thấp hơn 28 ha so với cùng kỳ năm 2019, các đối tượng dịch hại xuất hiện trong tuần như bọ trĩ/bầu bí dưa 40 ha, bệnh cháy lá, bệnh phấn trắng/bầu bí dưa 7 ha,... phân bố tại huyện Phong Điền.
Đến ngày 13/5/2020, toàn thành phố đã thu hoạch khoảng 8.909 ha cây hằng năm khác nhanh hơn cùng kỳ khoảng 2.666 ha, năng suất các cây hàng năm khác ổn định.
- Cây lâu năm
Diện tích cây ăn trái khoảng 20.811 ha, chiếm 94,32% trong tổng diện tích cây lâu năm, tăng 2.345 ha (+2,7%) so cùng kỳ năm 2019. Ngành Nông nghiệp tiếp tục vận động nông dân khôi phục vườn cây ăn trái tập trung, chuyên canh; với định hướng phát triển theo hướng nông nghiệp đô thị, hiện nay đã xây dựng được 12 vườn cây ăn trái kết hợp phát triển du lịch sinh thái, lợi nhuận cao gấp 1,5- 2 lần so với trồng chuyên cây ăn trái và triển khai kế hoạch xây dựng vùng sản xuất vú sữa, xoài và nhãn theo tiêu chuẩn VietGAP. Ảnh hưởng dịch bệnh cây ăn trái khoảng 224 ha; Trong đó diện tích nhiễm bệnh chổi rồng trên nhãn 190 ha (diện tích nhiễm nặng 15 ha (tỷ lệ bệnh>40%), diện tích nhiễm trung bình 40 ha (tỷ lệ bệnh 20-40%), diện tích nhiễm nhẹ 135 ha (10-20%); Tuy nhiên, dịch bệnh đã được Hiện nay có 58 cơ sở sản xuất kinh doanh giống cây ăn trái (32 cơ sở vừa sản xuất và kinh doanh và 26 cơ sở kinh doanh giống cây ăn trái) với năng lực cung ứng 650.000 cây/năm.
* Tình hình xâm nhập mặn và dịch bệnh covid-19 trên địa bàn
- Hướng xâm nhập mặn vào thành phố Cần Thơ chủ yếu theo hướng từ sông Hậu (do thủy triều đẩy mặn từ biển vào dọc theo sông Hậu) “sớm, sâu, rộng và dài hơn” so với năm 2016 và dự báo sẽ kéo dài đến tháng 5 năm 2020. Qua kết quả phân tích cho thấy, xâm nhập mặn ở mức độ thấp và xảy ra trong thời gian ngắn vào những ngày đỉnh điểm của thủy triều, độ mặn dao động ở mức 0,1-0,12‰ và chưa phát hiện tình trạng xâm nhập mặn ảnh hưởng đến nuôi thủy sản và sản xuất nông nghiệp. Ðể chủ động ứng phó, thành phố yêu cầu các sở, ngành và quận, huyện giám sát, cảnh báo xâm nhập mặn để hướng dẫn người dân lấy nước phục vụ sản xuất phù hợp nhất.
Từ tháng 01/2020 đến nay, tình hình dịch bệnh Covid-19 bùng phát đã tác động mạnh đến sản xuất, tiêu thụ nông sản của người dân Cần Thơ. Các mặt hàng xuất khẩu như nhãn Ido, mít, xoài, sầu riêng, cam, thanh long,… sang thị trường chính là Trung Quốc và Hoa Kỳ gặp khó khăn, có khoảng 70% lượng trái cây không xuất khẩu được. Trái cây đến vụ thu hoạch tồn đọng và rớt giá làm cho nhiều nhà vườn điêu đứng. Bên cạnh đó, mặt hàng thủy sản (cá tra) cũng bị ảnh hưởng nặng nề, thương lái thu mua hạn chế.
b. Chăn nuôi
Trong tháng, trên địa bàn thành phố không xảy ra dịch bệnh tai xanh ở heo, lở mồm long móng trên gia súc, bệnh Dịch tả heo Châu Phi. Tuy nhiên, xẩy ra 01 ổ dịch bệnh cúm gia cầm (ngày 18/4/2020) tại phường Trường Lạc, Ô Môn, ngành Nông nghiệp đã xử lý dứt điểm và không phát sinh thêm ổ dịch.
Để chủ động phòng, chống nguy cơ xâm nhiễm và lây lan dịch bệnh Covid-19 và các loại mầm bệnh nguy hiểm ở động vật, nhất là đối với dịch bệnh Cúm gia cầm xuất hiện, lây lan rất cao và có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng trong thời gian tới, ngành Nông nghiệp tiếp tục phối hợp với các địa phương và các đơn vị liên quan triển khai thực hiện quyết liệt đồng bộ các giải pháp phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; UBND thành phố Cần Thơ.
Toàn thành phố có 15 cơ sở chăn nuôi sản xuất con giống; Trong đó có 12 cơ sở chăn nuôi heo sản xuất con giống với khả năng cung cấp gần 5.000 con giống/năm và 03 cơ sở chăn nuôi vịt sản xuất con giống với khả năng cung ứng khoảng 100.000 con giống/năm; Cơ sở nuôi giữ heo đực giống hiện có 10 cơ sở với tổng đàn 35 con. Hàng năm sản xuất và tiêu thụ khoảng 50.000 liều tinh. Bên cạnh đó giá heo giống hiện đang ở mức cao 2.500.000đ/con. Nhưng hiện nay heo giống ít được bán do chủ hộ nuôi để lại tự nuôi heo thịt.
Đến nay, đàn heo phát triển bình thường trở lại, giá heo hơi đang ở mức 90.000đ/kg - 95.000đ/kg so với cùng kỳ năm trước tăng khoảng 28.000đ/kg; nguyên nhân do bệnh Dịch tả heo Châu Phi nên tổng đàn giảm mạnh, giá thức ăn cũng dao động từ 20.000-21.000đ/kg. Giá vịt ta hơi ở mức từ 45.000-50.000 đồng/kg, vịt xiêm 65.000-70.000 đồng/kg; Gà thả vườn khoảng 100.000-110.000 đồng/kg. Trong khi chi phí thức ăn, tấm cám ở mức khá cao, nhưng giá đầu ra của gia cầm hiện tại vẫn đảm bảo có lợi cho người nuôi.
2. Lâm nghiệp
Với vị trí địa lý và đặc điểm tình hình kinh tế của Cần Thơ hiện nay, diện tích trồng cây lâm nghiệp không còn, bà con nông dân chỉ trồng cây phân tán ở những vùng đất nhỏ lẻ ven các tuyến lộ giao thông nông thôn. Ngành Nông nghiệp tiếp tục tuyên truyền vận động nhân dân ở các quận, huyện chăm sóc các cây đã trồng trong những năm trước, vận động xã hội hóa trồng cây nhân dân năm 2020. Triển khai Kế hoạch Tổ chức “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” năm 2020, phối hợp địa phương chuẩn bị tổ chức lễ phát động và thực hiện kế hoạch xã hội hóa tổ chức lễ “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” 19/5/2020.
3. Thủy sản
Trong tháng, diện tích nuôi thuỷ sản đã thu hoạch là 242 ha, được tiến hành cải tạo để thả nuôi cho vụ mới; Hiện nay giá cá tra giảm sâu ở mức 17.500-18.000đ/kg, (cá từ 700 - 900 g/con) so với cùng kỳ năm trước giảm khoảng 8.000 đồng/kg, với giá này người nuôi lỗ 4.500-6.000 đồng/kg (giá thành cá tra 22.000-24.000 đồng/kg). Giá giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước vì người dân thả nuôi quá nhiều làm cung vượt cầu và do ảnh hưởng từ dịch Covid-19, xuất khẩu cá tra vào thị trường Trung Quốc, thị trường Mỹ chịu thiệt hại nặng nề,... nên doanh nghiệp tạm thời hạn chế thu mua cá tra là nguyên nhân chính dẫn đến giảm giá cá tra.
Hiện nay, Tình hình dịch hại trên thủy sản xuất hiện rải rác các bệnh gan thận mủ, phù đầu, xuất huyết trong các ao nuôi cá tra, đặc biệt các ao ương cá giống, và ao mới thả giống, tỷ lệ hao hụt cá tra thả nuôi cao do khan hiếm con giống chất lượng cao.
Hiện nay, có 199 cơ sở sản xuất, kinh doanh giống thủy sản đã cung cấp nhu cầu nuôi của thành phố và các tỉnh lân cận trên địa bàn TP Cần Thơ. Trong tháng giá cá tra giống dao động từ 20.000-22.000 đồng/kg ổn định so với tháng trước, cá giống kích cỡ 2 cm chiều cao thân - mẫu 30 con/kg giá từ 22.000-23.000 đồng/kg, giá cá giống 1,5 cm chiều cao thân - mẫu 70 con/kg giá từ 24.000-25.000 đồng/kg.
Hiện tại các công ty chế biến thủy sản trên địa bàn TP Cần Thơ có khuynh hướng xây dựng vùng nuôi tập trung để ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào cho nhà máy chế biến. Ngành Nông nghiệp đang chú trọng phát triển các mô hình nuôi theo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và nâng cao giá trị sản phẩm hàng hóa thủy sản.
III. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
Ước thực hiện vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng 5 năm 2020 được 288,33 tỷ đồng. Trong đó vốn cân đối ngân sách thành phố thực hiện được là 48,13 tỷ đồng, vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện được 40,25 tỷ đồng, vốn nước ngoài ODA 36,95 tỷ đồng, vốn xổ số kiến thiết thực hiện được 25,03 tỷ đồng, nguồn vốn khác thực hiện được 18,3 tỷ đồng, vốn ngân sách cấp huyện được 119,68 tỷ đồng.
Vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước thực hiện 5 tháng đầu năm 2020 được 1.425,88 tỷ đồng đạt 23% kế hoạch năm. Trong đó vốn cân đối ngân sách thành phố thực hiện được là 194,4 tỷ đồng đạt 20,72% kế hoạch năm, vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện được 187,11 tỷ đồng đạt 47,17% kế hoạch năm, vốn nước ngoài ODA 145,72 tỷ đồng đạt 10,51% kế hoạch năm, vốn xổ số kiến thiết 179,47 tỷ đồng đạt 23,46% kế hoạch năm, nguồn vốn khác thực hiện được 97,41 tỷ đồng đạt 13,28% kế hoạch năm, vốn ngân sách cấp huyện được 621,77 tỷ đồng đạt 31,42% kế hoạch năm. Đến ngày 14/5/2020 đã giải ngân 800,31 tỷ đồng đạt 12,90% kế hoạch.
Ước thực hiện vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện 6 tháng đầu năm 2020 được 1.731,97 tỷ đồng đạt 27,94% kế hoạch năm.
Qua 5 tháng triển khai công tác đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhìn chung còn khá chậm, khối lượng thực hiện thấp so với kế hoạch đề ra vì những nguyên nhân như: công tác bồi thường giải phóng mặt bằng còn chậm tiến độ; năng lực thi công của các nhà thầu còn hạn chế; tình hình dịch bệnh Covid-19 kéo dài đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thi công các công trình trên địa bàn thành phố. Một số dự án trọng điểm trên địa bàn thành phố còn đang vướng khâu hoàn thiện hồ sơ thủ tục ban đầu, cụ thể dự án Bệnh viện Ung Bướu thành phố Cần Thơ. Tháng 5 năm 2020 các chủ đầu tư quyết liệt thực hiện, đẩy nhanh tiến độ các công trình để đạt kế hoạch đề ra.
Tình hình thực hiện một số dự án chủ yếu trên địa bàn thành phố:
Dự án phát triển thành phố Cần Thơ và tăng cường khả năng thích ứng của đô thị, Dự án có tổng mức đầu tư 7.339,33 tỷ đồng, được thực hiện bằng nguồn vốn ODA, do Ban quản lý ODA thành phố Cần Thơ làm chủ đầu tư. Kế hoạch vốn năm 2020 được giao 1.584,66 tỷ đồng. Thực hiện lũy kế từ đầu dự án đến cuối tháng 5/2020, ước thực hiện được 3.705,54 tỷ đồng, đạt 50,49% tổng mức đầu tư toàn dự án.
Dự án Đường tỉnh 922 (xây dựng và nâng cấp giai đoạn 1 từ quốc lộ 91B đến Cờ Đỏ), dự án có tổng mức đầu tư là 1.494,62 tỷ đồng, do Ban quản lý dự án đầu tư thành phố làm chủ đầu tư, được thực hiện bằng nguốn vốn trái phiếu chính phủ, năm 2020 dự án được thực hiện bằng nguồn vốn của năm 2018 kéo dài đến năm 2020 theo công văn số 3863/UBND-XDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2019 của Ủy ban nhân dân thành phố và công văn số 9844//BKHĐT-KTĐPLT ngày 31 tháng 12 năm 2019 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn trái phiếu chính phủ sang năm 2020 là 560 tỷ đồng, dự án đang quyết liệt thực hiện để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng phục vụ nhu cầu đi lại của người dân.
Dự án Bệnh viện Ung Bướu thành phố Cần Thơ, dự án có tổng mức đầu tư là 1.727,9 tỷ đồng được thực hiện bằng nguồn vốn ODA do sở Y tế thành phố làm chủ đầu tư, kế hoạch vốn năm 2020 được giao là 661,7 tỷ đồng và được bổ sung nguồn vốn kéo dài từ năm 2019 đến năm 2020 là 567,88 tỷ đồng, nguồn vốn kéo dài thực hiện theo công văn số 1086/UBND-XDĐT ngày 10 tháng 4 năm 2020 của Ủy ban nhân dân thành phố về việc kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư năm 2019 sang năm 2020 các nguồn vốn ngân sách Trung ương, vốn ODA và vốn ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài.
Dự án Cầu Quang Trung, dự án có tổng mức đầu tư là 227,92 tỷ đồng do Ban ODA làm chủ đầu tư, hiện nay chủ đầu tư và nhà thầu đang khẩn trương cải tạo cầu Quang Trung đơn nguyên 1 (cầu cũ) để sớm đưa vào sử dụng phục vụ nhu cầu đi lại của người dân.
IV. THƯƠNG MẠI
1. Giá cả thị trường
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 năm 2020 giảm 0,54% so với tháng trước; tăng 1,06% so với cùng kỳ năm 2019, giảm 2,33% so với tháng 12 năm 2019, chỉ số giá bình quân 5 tháng tăng 4,48% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 3 nhóm hàng hóa, dịch vụ tăng giá: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,76% (trong đó nhóm lương thực giảm 0,12%, nhóm thực phẩm tăng 1,27%, ăn uống ngoài gia đình giảm 0,01%); giáo dục tăng 0,08%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,01%.
Có 6 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng có chỉ số giá giảm so với tháng trước, cụ thể: đồ uống và thuốc lá giảm 0,26%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 3,40%; thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,29%; giao thông giảm 2,68%; bưu chính viễn thông giảm 0,11%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,41%.
Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép và nhóm thuốc và dịch vụ y tế có chỉ số giá không thay đổi.
Trong tháng 5 năm 2020, CPI của thành phố giảm chủ yếu là do tác động của nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 3,40% so với tháng trước, do giá nhà thuê, nhà trọ giảm trong tháng. Dịch bệnh COVID-19 đã khiến việc kinh doanh của nhiều cơ sở, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhiều cửa hàng buộc phải đóng cửa, trả lại mặt bằng vì thua lỗ. Trong khi nhu cầu thuê giảm, một số hộ cho thuê mặt bằng đã chủ động giảm giá cho thuê để hỗ trợ người kinh doanh. Một số nhà trọ tháng trên địa bàn thành phố cũng giảm giá để giúp người thuê phần nào vượt qua giai đoạn khó khăn. Bên cạnh đó, giá xăng dầu bình quân tháng 5 vẫn thấp hơn so với tháng trước mặc dù giá xăng dầu giữa tháng 5 có điều chỉnh tăng nhẹ, giá xăng bình quân giảm làm cho chỉ số giá nhóm giao thông tháng 5 giảm 2,68% đã tác động làm giảm chỉ số giá CPI.
Diễn biến giá tiêu dùng tháng 5 năm 2020 của các nhóm hàng chính
- Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 5 tăng 0,76% so với tháng trước, tăng 11,96% so với cùng kỳ năm trước, tăng 2,71% so với tháng 12 năm trước. Trong đó:
+ Lương thực
Chỉ số giá nhóm lương thực trong tháng 5 giảm 0,12% so với tháng trước, tăng 2,57% so với cùng kỳ năm trước, tăng 0,71% so với tháng 12 năm trước. Trong tháng 4 giá gạo tại các chợ tăng nhẹ do nhu cầu người dân mua dự trữ tăng mạnh nhưng sang tháng 5 giá nhiều mặt hàng gạo đã giảm trở lại do nhu cầu tiêu dùng đã trở lại bình thường. Giá nhiều mặt hàng lương thực chế biến như mì gói, cháo ăn liền giảm giá, khuyến mại sau khi tăng giá nhẹ trong thời gian thực hiện các biện pháp cách ly xã hội vì dịch bệnh, nhu cầu mua sắm của người dân cũng giảm.
+ Thực phẩm
Chỉ số giá nhóm thực phẩm trong tháng 5 tăng 1,27% so với tháng trước, tăng 15,29% so với cùng kỳ năm trước, tăng 2,98% so với tháng 12 năm trước. Chỉ số tăng do tác động của chỉ số giá các nhóm thực phẩm sau:
Thịt gia súc tươi sống tăng 5,18% so với tháng trước, trong đó thịt heo tăng 5,87%, thịt bò tăng 0,91%, nội tạng động vật tăng 4,11%; thịt chế biến tăng 1,94% so với tháng trước. Nguyên nhân do giá heo hơi tăng mạnh trong tháng lên 90.000-95.000 đồng/kg, giá thịt heo tăng đã kéo theo nhiều sản phẩm thịt thay thế khác tăng theo, cũng làm giá các loại thịt chế biến như thịt quay, xúc xích, thịt hộp... dầu mỡ ăn cũng tăng giá theo.
Thịt gia cầm tươi sống tăng 0,31% so với tháng trước. Nguyên nhân do giá thịt gia cầm tại khu vực nông thôn tăng trở lại trong tháng 5. Sau khi hết thời gian giãn cách xã hội việc vận chuyển, lưu thông gia cầm đi các chợ, địa phương khác thuận tiện hơn, nhu cầu tiêu dùng cũng tăng lên, nguồn cung về các chợ khu vực nông thôn không còn dồi dào như trong thời gian thực hiện cách ly xã hội. Trái ngược với khu vực nông thôn, khu vực thành thị giá thịt gia cầm tháng 5 giảm nhẹ so với tháng trước vì nguồn cung về chợ đã dồi dào hơn do việc lưu thông hàng hóa đã trở lại bình thường.
Giá các loại rau tươi, khô và chế biến tăng 1,87% so với tháng trước. Nguyên nhân do hạn hán, xâm nhập mặn ảnh hưởng đến việc gieo trồng, tưới tiêu, nhiều vùng rau sản lượng thu hoạch giảm, nguồn cung giảm.
Tuy nhiên trong tháng 5 cũng có các nhóm thực phẩm giảm giá so với tháng trước, như:
Thủy sản tươi sống giảm 0,35% so với tháng trước do nguồn cung dồi dào, chi phí đánh bắt, vận chuyển giảm do giá xăng dầu giảm, nhu cầu xuất khẩu gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh trên thế giới.
Giá trứng gia cầm các loại trong tháng giảm 0,63% so với tháng trước, nguyên nhân do nguồn cung dồi dào, nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm hơn so với tháng trước vì không còn nhu cầu mua dự trữ nữa.
Quả tươi và chế biến giảm 0,06% so với tháng trước do vào mùa thu hoạch nhiều loại trái cây ở Miền Nam, trong khi việc tiêu thụ, xuất khẩu hoa quả tươi chưa tăng cao.
- Đồ uống và thuốc lá
Chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá trong tháng 5 giảm 0,26% so với tháng trước, tăng 2,17% so với cùng kỳ năm trước, tăng 1,83% so với tháng 12 năm trước. Nguyên nhân do trong tháng 4 các đường biên giới bị kiểm soát chặt chẽ bởi dịch Covid-19 làm nguồn cung các loại thuốc lá nhập khẩu giảm mạnh, giá thuốc hút các loại đều tăng giá, sang tháng 5 việc kiểm soát cũng được nới lỏng hơn, nguồn cung các loại thuốc hút cũng tăng lên, giá thuốc lá trong nước cũng giảm theo.
- Nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng
Chỉ số giá nhóm nhà ở, điện, nuớc, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 3,40% so với tháng trước, giảm 6,84% so với cùng kỳ năm trước, giảm 7,25% so với tháng 12 năm trước.
Chỉ số giá nhóm hàng này giảm chủ yếu ở các mặt hàng sau:
Giá nhà ở thuê giảm 6,40% so với tháng trước do nhiều chủ nhà trọ, cho thuê mặt bằng giảm giá hỗ trợ người thuê trong thời gian khó khăn vì ảnh hưởng của dịch bệnh.
Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,26% so với tháng trước do giá một số loại vật liệu xây dựng như sắt thép, xi măng, cát, đá xây dựng giảm vì tồn kho tăng cao, nhu cầu tiêu thụ giảm.
Tuy nhiên trong tháng một số mặt hàng tăng giá mạnh đã tác động làm cho chỉ số giá nhóm nhà ở, điện, nuớc, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm không sâu, cụ thể:
Chỉ số giá nước sinh hoạt tăng 0,37% so với tháng trước, điện sinh hoạt tăng 0,66% so với tháng trước do nắng nóng kéo dài làm cho nhu cầu tiêu thụ của người dân tăng lên.
Giá gas tháng 5/2020 tăng 12,32% so với tháng trước do giá gas trong nước điều chỉnh tăng 34.000đ/bình 12kg, tăng theo giá gas thế giới. Trong khi đó giá dầu hỏa bình quân tháng 5 giảm 10,59% so với tháng trước do được điều chỉnh giảm vào ngày 29/4/2020 và ngày 13/5/2020 với tổng mức giảm 1.150 đồng/lít so với tháng trước.
- Thiết bị và đồ dùng gia đình
Chỉ số nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,29% so với tháng trước, tăng 0,85% so với cùng kỳ năm trước, tăng 0,61% so với tháng 12 năm trước. Chỉ số giá nhóm này giảm chủ yếu do tác động giảm giá ở nhóm thiết bị đồ dùng trong gia đình giảm 1,81% so với tháng trước, chủ yếu ở mặt hàng máy lạnh, máy giặt và chỉ số giá nhóm vật phẩm tiêu dùng khác giảm 0,50% so với tháng trước, cụ thể là mặt hàng giấy ăn và giấy vệ sinh giảm mạnh. Trong tháng nhiều đơn vị kinh doanh, siêu thị, siêu thị điện máy thực hiện nhiều chương trình khuyến mãi giảm giá nhằm cạnh tranh, thu hút khách hàng đến mua sắm trở lại sau thời gian thực hiện cách ly, giãn cách xã hội vì dịch bệnh.
- Giao thông
Chỉ số giá nhóm giao thông giảm 2,68% so với tháng trước, giảm 26,60% so với cùng kỳ năm trước, giảm 24,49% so với tháng 12 năm trước. Chỉ số giá nhóm hàng này giảm do tác động giảm giá của nhóm xăng, dầu diesel giảm 4,59% so với tháng trước. Giá xăng, dầu được điều chỉnh giảm vào ngày 29/4/2020 và điều chỉnh tăng vào ngày 13/5/2020, tuy nhiên giá bình quân xăng dầu tháng 5 vẫn còn thấp hơn giá bình quân tháng 4.
- Bưu chính viễn thông
Chỉ số giá nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,11% so với tháng trước, giảm 0,39% so với cùng kỳ năm trước, giảm 0,35% so với tháng 12 năm trước do tác động giảm giá của một số mặt hàng điện thoại di động. Nhu cầu mua sắm giảm mạnh, nhiều cửa hàng kinh doanh thiết bị viễn thông, điện thoại di động khuyến mãi giảm giá trong tháng nhằm kích thích tiêu dùng.
- Giáo dục
Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 0,08% so với tháng trước, tăng 4,44% so với cùng kỳ năm trước, tăng 0,66% so với tháng 12 năm trước. Nguyên nhân do tác động tăng giá của nhóm đồ dùng học tập chủ yếu là mặt hàng bút viết, thước, gôm, đồ dùng học tập khác, giá các mặt hàng này tăng do nhu cầu tiêu dùng tăng lên sau khi học sinh, sinh viên trở lại trường học sau thời gian dài nghỉ học vì tác động của dịch bệnh.
- Văn hóa, giải trí và du lịch
Chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,41% so với tháng trước, tăng 0,42% so với cùng kỳ năm trước, giảm 1,66% so với tháng 12 năm trước. Chỉ số giá nhóm này giảm do tác động của nhóm thiết bị văn hóa giảm 0,15% so với tháng trước, nhóm hoa tươi giảm 12,56% so với tháng trước. Nguyên nhân do mặt hàng đầu đĩa DVD, máy ảnh, máy quay video giảm giá vì nhu cầu tiêu dùng giảm, dịch Covid-19 đã làm nhu cầu tiêu thụ hoa giảm khiến việc buôn bán, kinh doanh hoa, cây cảnh sụt giảm mạnh, làm giá nhiều loại hoa tươi giảm.
- Hàng hóa và dịch vụ khác
Chỉ số nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,01% so với tháng trước, tăng 3,28% so với cùng kỳ năm trước, tăng 1,54% so với tháng 12 năm trước. Chỉ số giá nhóm này tăng chủ yếu ở mặt hàng trang sức tăng 2,12% so với tháng trước. Nguyên nhân do giá vàng trong tháng tăng mạnh so với tháng 4.
- Chỉ số giá vàng
Chỉ số giá vàng tăng 2,82% so với tháng trước, tăng 28,79% so với cùng kỳ năm trước, tăng 13,22% so với tháng 12 năm trước, giá vàng trong nước tăng theo giá của giá vàng thế giới trong bối cảnh căng thẳng giữa Mỹ, Trung Quốc và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đang ngày một "nóng" và gay gắt hơn, các nền kinh tế trên thế giới đang bị ảnh hưởng nặng nề do dịch Covid-19. Giá vàng ngày 21/5/2020 trên địa bàn thành phố dao động quanh mức 4.820.000 đồng/chỉ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,45% so với tháng trước, tăng 0,51% so với cùng kỳ năm trước, tăng 1,05% so với tháng 12 năm trước. Giá đô la Mỹ trong nước giảm là do việc điều chỉnh giá của các ngân hàng thương mại trước việc đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới giảm giá do dữ liệu kinh tế tháng 4 của Mỹ vô cùng bi quan, làm gia tăng nỗi lo suy thoái kinh tế toàn cầu. Giá đô la Mỹ ngày 21/5/2020 trên địa bàn thành phố dao động quanh mức 23.360 đồng/USD.
2. Nội thương
Tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ sở cá thể gặp rất nhiều khó khăn từ khi dịch bệnh Covid-19 xảy ra vào cuối tháng 01 năm 2020. Đến cuối tháng 4 tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát tốt nên các cơ sở cá thể và doanh nghiệp đã kinh doanh trở lại. Ước tháng 5/2020 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 10.101,13 tỷ đồng tăng 17,46% so với tháng trước, giảm 7,69% so với cùng kỳ. Ước 5 tháng đầu năm 2020 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 53.126,78 tỷ đồng, đạt 94,86% (giảm 5,14%) so với cùng kỳ. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tháng 5/2020 đạt 8.613,52 tỷ đồng tăng 11,81% so với tháng trước, giảm 3,45% so với cùng kỳ. Một số nhóm hàng có doanh thu tăng cao so với tháng trước như: hàng may mặc tăng 79,21%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 34,78%; vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 88,82%. Nguyên nhân do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt các cơ sở đã kinh doanh trở lại; nhằm kích cầu tiêu dùng các siêu thị, cửa hàng đã áp dụng nhiều chương trình khuyến mãi, giảm giá; học sinh, sinh viên đã đi học trở lại nên nhu cầu mua sắm đồ dùng học tập tăng cao.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước 5 tháng đầu năm 2020 đạt 45.042,18 tỷ đồng, đạt 98,17% (giảm 1,83%) so với cùng kỳ. Các nhóm hàng có doanh thu giảm mạnh so với cùng kỳ như: hàng may mặc giảm 15,12%; vật phẩm, văn hóa, giáo dục giảm 12%; ô tô con giảm 22,73%. Nguyên nhân do ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh Covid-19 một số cơ sở phải tạm ngưng hoạt động, học sinh, sinh viên nghỉ học từ sau Tết Nguyên đán đến cuối tháng 4 năm 2020, nhu cầu mua sắm giảm, người tiêu dùng hạn chế chi tiêu vào một số nhóm ngành hàng không thiết yếu.
- Ước tháng 5/2020 doanh thu dịch vụ đạt 851,70 tỷ đồng, tăng 44,32% so với tháng trước, giảm 24,73% so với cùng kỳ. Tháng 4/2020 thực hiện giãn cách xã hội, đến tháng 5/2020 các ngành dịch vụ đã hoạt động trở lại (trừ dịch vụ karaoke, vũ trường) nên doanh thu tháng 5/2020 tăng cao so với tháng trước. Một số ngành dịch vụ có doanh thu tăng cao so với tháng trước như: dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 22,98%; dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng mạnh gấp 5 lần do các trường học, cơ sở giáo dục khác đều đã hoạt động trở lại bình thường; dịch vụ vui chơi giải trí tăng 257,21%, tăng chủ yếu do dịch vụ xổ số kiến thiết trong tháng 4 có 5 kỳ nhưng chỉ phát hành được 1 kỳ, đến tháng 5 dịch vụ xổ số đã hoạt động trở lại bình thường; dịch vụ phục vụ cá nhân tăng 174,76%.
Ước 5 tháng đầu năm 2020 doanh thu dịch vụ đạt 4.957,28 tỷ đồng, đạt 88,57% (giảm 11,43%) so với cùng kỳ. Dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp từ đầu năm 2020, ngành dịch vụ đã chịu ảnh hưởng nặng nề. Doanh thu hàng loạt các ngành dịch vụ đều giảm mạnh so với cùng kỳ, cụ thể: dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm 14,79%, dịch vụ giáo dục và đào tạo giảm 42,76%, dịch vụ vui chơi giải trí giảm 9,06%, dịch vụ phục vụ cá nhân giảm 33,22%.
- Ước tháng 5/2020 doanh thu lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 635,92 tỷ đồng, tăng 107,94% so với tháng trước, giảm 28,55% so với cùng kỳ. Ước 5 tháng đầu năm 2020 doanh thu lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 3.127,32 tỷ đồng, đạt 69,07% (giảm 30,93%) so với cùng kỳ. Đầu tháng 4 TP Cần Thơ thực hiện nghiêm Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính Phủ về giãn cách xã hội nên các cơ sở, doanh nghiệp kinh doanh nhà hàng, khách sạn, đại lý du lịch đều ngừng hoạt động. Đến cuối tháng 4 và đầu tháng 5 các cơ sở nhà hàng, khách sạn đã hoạt động trở lại bình thường nên doanh thu tăng mạnh so với tháng trước. Các doanh nghiệp lữ hành đầu tháng 5/2020 bắt đầu tổ chức các tour du lịch nội địa, mặc dù nhu cầu du lịch trong nước bắt đầu tăng trở lại nhưng lượt khách đăng ký tour vẫn chưa nhiều, hình thức du lịch tự túc cá nhân phổ biến hơn. Ngành Du lịch Cần Thơ đang tiến hành các giải pháp phục hồi, trong đó tập trung thị trường trọng điểm, các chương trình kích cầu với chiến lược điểm đến an toàn. Các khu/điểm tập luyện thể thao, cơ sở kinh doanh dịch vụ thể dục thể thao, danh lam thắng cảnh, khu di tích, khu du lịch, điểm du lịch, bảo tàng, thư viện được hoạt động trở lại với điều kiện thực hiện các biện pháp phòng, chống Covid-19.
Ước 6 tháng đầu năm 2020 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 65.266,26 tỷ đồng, đạt 97,43% (giảm 2,57%) so với cùng kỳ.
V. GIAO THÔNG VẬN TẢI
Tình hình vận tải trong tháng 5/2020 trên địa bàn Thành phố Cần Thơ có những diễn biến như sau: Sau thời gian dài ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, tính đến đầu tháng 5/2020 khi thời gian giãn cách xã hội được nới lỏng kể từ ngày 23/4, nhìn chung tình hình kinh doanh ngành vận tải, kho bãi đã phục hồi trở lại, tuy nhiên lượng hành khách và hàng hoá luân chuyển vẫn chưa đạt cao so với những tháng bình thường, do nhu cầu đi lại trong dân vẫn còn hạn chế. Ước tính tháng 5/2020, tổng doanh thu vận tải của địa phương đạt được 183,80 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2019 hiện vẫn còn giảm tới 30,84%. Cụ thể tình hình như sau:
Vận tải hành khách
Tình hình hoạt động vận tải hành khách trên địa bàn thành phố Cần Thơ trong tháng 5 nhìn chung đã khả quan hơn sau khoảng thời gian giãn cách xã hội được nới lỏng. Các hãng xe vận chuyển hành khách lớn trên địa bàn thành phố như xe khách Phương Trang, xe khách Thành Bưởi, xe khách Vũ Linh… cũng đã hoạt động trở lại, tuy nhiên lượt khách trong khoảng thời gian này vẫn chưa đạt cao, do nhu cầu đi lại của người dân vẫn còn hạn chế. Ước tính lượt hành khách vận chuyển trong tháng 5/2020 đạt được 4.326,58 ngàn hành khách giảm 10,96% so với cùng kỳ năm 2019; luân chuyển đạt được 66,05 triệu HK.km giảm 20,07% so với cùng kỳ năm 2019. Cụ thể như sau: Ước tháng 5/2020 vận tải hành khách đường bộ đạt được 2.906,54 ngàn HK, luân chuyển được 64,37 triệu HK.km; so với cùng kỳ vận chuyển giảm 10,94% và luân chuyển giảm 20,14%. Vận tải hành khách đường sông ước đạt được 1.420,04 ngàn HK, luân chuyển đạt được 1,68 triệu HK.km; so với cùng kỳ vận chuyển và luân chuyển với mức giảm lần lượt là 11,00% và 17,42%.
Ước 5 tháng đầu năm 2020 vận chuyển 22.086,12 ngàn hành khách giảm 10,81% so với cùng kỳ, luân chuyển 343,25 triệu HK.km giảm 17,12% so với cùng kỳ. Ước 6 tháng đầu năm 2020 vận chuyển 27.810,88 ngàn lượt hành khách giảm 8,36% so cùng kỳ; luân chuyển 433,58 triệu lượt HK.Km đạt 87,59% so cùng kỳ.
Vận tải hàng hóa
Trong tháng tình hình kinh doanh của các đơn vị vận tải hàng hoá đã dần ổn định sau thời gian hết giãn cách xã hội do dịch bệnh Covid-19. Ước tính lượng hàng hóa vận chuyển tháng 5/2020 đạt được 609,31 ngàn tấn, luân chuyển ước đạt được 93,02 triệu tấn.km; so với cùng kỳ vận chuyển trong tháng giảm 27,15% và luân chuyển giảm 30,32% mức giảm thấp hơn so với tháng 4/2020. Cụ thể như sau: Ước tháng 5/2020 hàng hóa vận tải đường bộ đạt được 239,80 ngàn tấn, luân chuyển được 44,56 triệu tấn.km; so với cùng kỳ năm trước vận chuyển giảm 37,59% và luân chuyển giảm 23,25%. Hàng hóa vận tải đường sông ước đạt được 350,59 ngàn tấn, luân chuyển được 29,54 triệu tấn.km; so với cùng kỳ năm trước vận chuyển giảm 18,70% và luân chuyển giảm 45,78%. Hàng hóa vận chuyển đường biển ước đạt 18,92 ngàn tấn, luân chuyển ước đạt 18,92 triệu tấn.km; so với cùng kỳ năm trước vận chuyển giảm 9,75% và luân chuyển giảm 9,76%.
Ước 5 tháng đầu năm 2020 vận chuyển 3.199,13 ngàn tấn giảm 26,52% so với cùng kỳ, luân chuyển 477,62 triệu tấn.km giảm 28,42% so với cùng kỳ. Ước 6 tháng đầu năm 2020 vận chuyển 4.092,82 ngàn tấn hàng hoá giảm 15,63% so cùng kỳ; luân chuyển đạt 625,74 triệu T.Km đạt 77,62% so cùng kỳ.
VI. NGÀNH TÀI CHÍNH - TÍN DỤNG
1. Tài chính ngân sách
* Thu ngân sách: Thực hiện đến 20 ngày tháng 5 năm 2020, tổng thu NSNN 5.374,50 tỷ đồng đạt 30,31% dự toán, trong đó thu nội địa là 4.316,62 tỷ đồng với các nguồn thu chủ lực như: thu thuế khu vực công thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh 766,24 tỷ đồng đạt 31,47% dự toán, thu từ doanh nghiệp nhà nước 611,34 tỷ đồng đạt 37,05% so dự toán, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 475,62 tỷ đồng đạt 40,48% so dự toán, thuế thu nhập cá nhân 414,32 tỷ đồng đạt 41,43% so dự toán. Tính đến 20/5/2020 hoạt động thu thuế hải quan ước đạt 342,33 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 6,37% trong tổng thu ngân sách nhà nước và đạt 17,66% so dự toán.
* Chi ngân sách: Ước đến 20 ngày tháng 5 năm 2020 ngân sách đã chi 5.773,13 tỷ đồng chiếm 40,90% dự toán, bao gồm hoạt động chi đầu tư phát triển 3.451,03 tỷ đồng, chi thường xuyên 2.185,61 tỷ đồng.
2. Tín dụng ngân hàng
Vốn huy động đến cuối tháng 5 năm 2020 ước đạt 81.200 tỷ đồng, tăng 0,77% so với đầu tháng, giảm 0,11% so với đầu năm. Trong đó, vốn huy động VNĐ là 79.500 tỷ đồng, chiếm 97,91%, tăng 0,80%, vốn huy động ngoại tệ là 1.700 tỷ đồng, chiếm 2,09%, giảm 0,41% so với đầu tháng; vốn huy động ngắn hạn là 53.700 tỷ đồng chiếm 66,13%, tăng 0,98%, vốn huy động trên 12 tháng là 27.500 tỷ đồng, chiếm 33,87%, tăng 0,38% so với đầu tháng.
Tổng dư nợ cho vay đến cuối tháng 5 năm 2020 ước đạt 93.400 tỷ đồng, tăng 0,85% so với đầu tháng, tăng 2,27% so với đầu năm. Trong đó dư nợ cho vay VNĐ đạt 88.400 tỷ đồng, tăng 0,83% so đầu tháng, chiếm 94,65% trong tổng dư nợ cho vay, dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 5.000 tỷ đồng, tăng 1,17% so với đầu tháng, chiếm 5,35% trong tổng dư nợ cho vay; phân theo thời hạn dư nợ cho vay ngắn hạn là 48.800 tỷ đồng, tăng 0,93% so đầu tháng, chiếm 52,25%, dư nợ cho vay trung dài hạn 44.600 tỷ đồng, tăng 0,75% so đầu tháng, chiếm 47,75% tổng dư nợ cho vay.
Nợ xấu đến cuối tháng 5 năm 2020 ước là 1.400 tỷ đồng, chiếm 1,50% trong tổng dư nợ cho vay.
Lãi suất huy động và cho vay trên địa bàn phổ biến như sau:
- Lãi suất huy động: Lãi suất huy động không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng phổ biến mức 0,2%/năm; lãi suất huy động có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng ở mức 4,0% - 4,25%/năm; lãi suất huy động từ 6 đến 12 tháng phổ biến 5,3% - 6,8%/năm, kỳ hạn trên 12 tháng phổ biến ở mức 6,8% - 7,2%/năm tùy theo từng loại kỳ hạn.
- Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên là 5,0%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường từ 6,0% - 8,5%/năm; 8,5% - 11%/năm đối với trung, dài hạn.
- Lãi suất USD: Lãi suất huy động thực hiện theo quy định là 0%/năm. Lãi suất cho vay phổ biến ngắn hạn 4,0% - 4,5%/năm, trung dài hạn 4,5% - 6,0%/năm.
VII. TÌNH HÌNH VĂN HOÁ - XÃ HỘI
1. Văn hóa - Thể thao
Tuyên truyền kỷ niệm ngày lễ, sự kiện của đất nước và thành phố trong tháng. Đặc biệt, kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4), Ngày Quốc tế Lao động (01/5); 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5).
Trung tâm Văn hóa thành phố: Thực hiện 90 m2 pano, 20 băng rôn ngang, 200 băng rôn dọc, 14 cụm cờ lớn, 18 cụm cờ nhỏ, 8 cụm rẻ quạt. Thiết kế và trang trí phong sân khấu: 02 cuộc.
Từ ngày 07/5/2020, bắt đầu mở cửa trở lại phục vụ khách tham quan tại Bảo tàng thành phố, di tích Khám lớn Cần Thơ và các di tích trên địa bàn thành phố. Thực hiện 48 hồ sơ khoa học của 66 hiện vật.
Thư viện thành phố phục vụ bạn đọc 295.000 lượt người (phục vụ tài liệu điện tử qua website, tính riêng từ ngày 01/4/2020 đến 30/4/2020 đã có 278.000 lượt truy cập, chiếm tỷ lệ 94,2% tổng lượt phục vụ bạn đọc trong tháng). Bổ sung sách: 4.000 bản sách.
Hoạt động thể thao: Để phòng, chống dịch bệnh Covid-19, không tổ chức một số hoạt động thể thao trong tháng.
Thông báo chiêu sinh lớp tập huấn nghiệp vụ cơ sở về thể dục thể thao, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho các huấn luyện viên và lớp tập huấn kỹ thuật, kỹ năng bơi trong môi trường nước cho công chức, viên chức huấn luyện viên, cộng tác viên hướng dẫn viên, nhân viên cứu hộ và Giáo viên Thể dục thể thao năm 2020.
Cử Đoàn vận động viên tham dự Giải vô địch trẻ và thiếu niên quốc gia Khiêu vũ thể thao năm 2020 và Giải cúp Khiêu vũ thể thao mở rộng toàn quốc năm 2020, từ ngày 04/6 đến ngày 08/6/2020, tại Đà Nẵng.
2. Giáo dục
Từ ngày 04 tháng 5 năm 2020 thành phố đã tổ chức cho học sinh đi học trở lại, cụ thể:
- Học sinh khối lớp 8, 9 và các khối lớp trung học phổ thông, các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên, học viên các trung tâm ngoại ngữ, tin học đi học trở lại từ ngày 04 tháng 5 năm 2020.
- Học sinh khối lớp 6, 7 và học sinh tiểu học đi học trở lại từ ngày 11 tháng 5 năm 2020.
- Trẻ mầm non, mẫu giáo đi học trở lại từ ngày 18 tháng 5 năm 2020, cụ thể như sau: Trẻ lớp Lá đi học lại từ ngày 18 tháng 5 năm 2020; Trẻ lớp Chồi đi học lại từ ngày 25 tháng 5 năm 2020; Trẻ lớp Mầm và nhóm trẻ từ 25 đến 36 tháng tuổi đi học lại từ ngày 01 tháng 6 năm 2020.
Các đơn vị trường học cần vệ sinh ngoại cảnh (phát quang bụi rậm, không để nước đọng); thực hiện vệ sinh, tẩy trùng trường lớp theo đúng hướng dẫn của cơ quan y tế, bao gồm: môi trường xung quanh, các vật dụng thường xuyên cầm, nắm như tay vịn cầu thang, tay nắm cửa, bàn, ghế, xe đưa đón học sinh; thiết bị thí nghiệm, đồ dùng dạy học được sử dụng trong giờ dạy và học, đồ chơi cho trẻ; phòng học, phòng thí nghiệm, các phòng chức năng, nhà vệ sinh; rà soát, trang bị, bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế: thiết bị đo thân nhiệt, bố trí khu vực rửa tay bằng nước sạch có trang bị xà phòng hoặc nước sát khuẩn tại vị trí thuận lợi; có hình thức phù hợp để nhắc nhở cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, học sinh rửa tay thường xuyên trước cửa phòng học, phòng thí nghiệm, nhà ăn, nhà vệ sinh…
Hướng dẫn, quán triệt học sinh, giáo viên, cán bộ, nhân viên đeo khẩu trang đúng cách; theo dõi và thường xuyên nhắc nhở học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên bảo đảm giãn cách trong và ngoài phòng học, lớp học, phòng làm việc, phòng chức năng, phòng sinh hoạt theo quy định; thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; không dùng chung các đồ dùng cá nhân; bỏ rác đúng nơi quy định; khi phát hiện học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên có biểu hiện không bình thường về sức khỏe, phải kịp thời báo cáo cơ quan đầu mối về phòng, chống dịch tại địa phương, cơ quan quản lý trực tiếp để được hướng dẫn các biện pháp xử lý phù hợp.
Không tổ chức các hoạt động trải nghiệm, hoạt động tập thể cho đến khi Chính phủ công bố hết dịch; tổ chức chào cờ và các hoạt động giáo dục trong phạm vi từng lớp học; nhắc nhở học sinh không tập trung đông người ở đầu buổi học, thời gian giải lao, ra về; không tổ chức học và thảo luận theo nhóm.
3. Về Y tế - khám chữa bệnh
Tình hình dịch bệnh: Covid-19 trong tháng không ghi nhận trường hợp mới mắc; đến nay, đã điều trị khỏi 02 trường hợp nhiễm Covid-19 là BN145 và BN154. Sốt xuất huyết ghi nhận 72 trường hợp mắc, giảm 45 trường hợp so với tháng trước (117 trường hợp); từ đầu năm đến nay 324 trường hợp mắc, giảm 36 trường hợp so cùng kỳ (360 trường hợp), không có tử vong. Tay chân miệng ghi nhận 16 trường hợp mắc, giảm 07 trường hợp so với tháng trước (23 trường hợp); từ đầu năm đến nay 97 trường hợp mắc, giảm 195 trường hợp so cùng kỳ (292 trường hợp), không có tử vong. Sởi và sốt phát ban nghi sởi: Sốt phát ban nghi sởi ghi nhận 01 trường hợp, giảm 11 trường hợp so với tháng trước (12 trường hợp); từ đầu năm đến nay 186 trường hợp mắc, tăng 56 trường hợp so cùng kỳ (130 trường hợp), không có trường hợp sởi dương tính, không có tử vong. Tiêu chảy 321 trường hợp, giảm 5,59% so với tháng trước.
Công tác phòng, chống HIV/AIDS: Lũy tích số nhiễm HIV phát hiện được 6.654 trường hợp; trong đó, tử vong 2.513 trường hợp, số nhiễm HIV còn sống 4.141 trường hợp (trong đó quản lý được 3.730 trường hợp và không xác định 411 trường hợp). Duy trì điều trị ARV cho 3.497 trường hợp, điều trị Methadone cho 374 trường hợp.
Công tác phòng, chống dịch Covid-19
Thực hiện Chỉ thị 19/CT-TTg ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới, theo đó, thành phố Cần Thơ thuộc nhóm nguy cơ thấp, được phép nới lõng giãn cách xã hội, không tập trung quá 30 người tại nơi công cộng, ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện, giữ khoảng cách tối thiểu 1m khi tiếp xúc.
Lực lượng y tế cơ sở thực hiện phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà”, rà soát quản lý chặt thông tin của các trường hợp mới đến lưu trú trên địa bàn. Qua rà soát tại các xã, phường thị trấn, ấp, khu vực, tổ dân phố, đã ghi nhận 5.861 trường hợp người từ địa phương khác mới đến lưu trú tại thành phố Cần Thơ trong 14 ngày.
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật và các Trung tâm Y tế quận, huyện tiếp tục duy trì đội phản ứng nhanh, kịp thời phát hiện, khoanh vùng, cách ly, dập dịch hiệu quả. Trong dịp nghỉ lễ 30/4-01/5, ngành Y tế đã phân công cán bộ trực 24/24, bảo đảm xử lý kịp thời các tình huống dịch bệnh xảy ra.
Chuẩn bị sẵn sàng máy và sinh phẩm, bảo đảm đầy đủ các điều kiện cần thiết cho các phòng xét nghiệm xác định Covid-19 tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tât, đồng thời có phương án mở rộng cơ sở xét nghiệm khi có nhu cầu.
Thành lập “Tổ công tác thu thập, tổng hợp thông tin, dữ liệu phòng chống dịch COVID-19 thành phố Cần Thơ” có nhiệm vụ thu thập, tổng hợp thông tin phòng chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn và báo cáo Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch bệnh Covid-19.
Tiếp tục khuyến nghị người dân tự nguyện khai báo y tế qua ứng dụng NCOVI. Hiện Cần Thơ có 477.601 người khai báo y tế qua ứng dụng NCOVI. Tính đến 13/5/2020, ghi nhận 1.045 trường hợp báo cáo có yếu tố nghi ngờ, ngành Y tế đã xác minh 1.044/1.045 trường hợp, không có trường hợp mắc Covid-19.
4. Chính sách lao động - xã hội
Trong tháng, thành phố Cần Thơ giải quyết việc làm cho 709 lao động (Cung ứng lao động đi làm việc nước ngoài là 10), lũy kế từ đầu năm đã giải quyết việc làm cho 16.083 người lao động, đạt 31,98% kế hoạch đề ra (giảm 33,97% so với cùng kỳ năm 2019, nguyên nhân do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19). Tiếp nhận nội quy lao động của 05 doanh nghiệp và Thỏa ước lao động của 04 doanh nghiệp. Cấp Giấy xác nhận khai báo sử dụng máy thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động tại 04 doanh nghiệp với tổng số 55 thiết bị.
Đến nay trên địa bàn thành phố có 85 cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới và đào tạo nghề cho 9.320 người (Cao đẳng: 1.245; Trung cấp: 684; Sơ cấp: 1.433 và Đào tạo thường xuyên: 5.958), đạt 18,64% so với kế hoạch đề ra (giảm 11,43% so với cùng kỳ năm 2019, do ảnh hưởng của dịch Covid-19).
Trung tâm Dịch vụ việc làm thành phố Cần Thơ tư vấn nghề nghiệp, việc làm, quan hệ lao động cho 10.863 lượt người (lũy kế từ đầu năm 2020 là 40.286 lượt người, đạt 27,13% kế hoạch năm). Kết nối việc làm trong nước cho 62 lượt người (lũy kế từ đầu năm 2020 là 1.872 lượt người, đạt 13,37% kế hoạch năm). Đào tạo nghề và kỹ năng lao động cho 151 lượt người (lũy kế từ đầu năm 2020 là 2.073 lượt người, đạt 29,61% kế hoạch năm). Tiếp nhận 164 lượt doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động thông báo biến động lao động hàng tháng theo quy định, (lũy kế từ đầu năm 2020 là 601 lượt, đạt 50,08% so với kế hoạch năm). Có 1.395 hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 3,66 % so với tháng trước (1.448 hồ sơ). Tổ chức dạy kỹ thuật pha chế, đồ họa, thợ phụ tóc và các hoạt động khác có liên quan trên 177 người dự.
Thực hiện chính sách người có công với cách mạng: Hiện có 6.135 Người có công với cách mạng ở thành phố Cần Thơ đang hưởng trợ cấp ưu đãi thường xuyên hơn 10 tỷ đồng; trong đó có 43 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống. Trong tháng, đã tiếp nhận, xét duyệt và giải quyết 72 hồ sơ chế độ chính sách.
Công tác Bảo trợ xã hội: Trợ cấp thường xuyên cho 40.687 đối tượng bảo trợ xã hội ngoài cộng đồng với tổng kinh phí 18,03 tỷ đồng. Rà soát đối tượng hộ nghèo, cận nghèo, hộ có đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp xã hội do bị ảnh hưởng dịch Covid-19.
Trung tâm Bảo trợ xã hội quản lý 599 đối tượng. Đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm và tổ chức nấu ăn hàng ngày cho đối tượng đủ chất dinh dưỡng, hợp vệ sinh. Duy trì vệ sinh cá nhân hằng ngày cho trên 40.105 lượt đối tượng. Khám, điều trị bệnh thông thường cho 1.363 lượt, trong đó điều trị theo toa 334 lượt, khám và chỉnh liều thuốc tâm thần 98 đối tượng. Phát thuốc điều trị bệnh tâm thần cho 31.300 lượt. Can thiệp kích động: 10 lượt, điều trị bệnh động kinh 21 đối tượng. Điều trị 112 đối tượng suy nhược và đối tượng ăn yếu, chuyển qua chế độ uống sữa sáng, chiều thay cơm 08 đối tượng. Phối hợp Trung tâm Y tế dự phòng quận Ô Môn tầm soát lao và điều trị theo phác đồ lao 05 đối tượng, quản lý 03 đối tượng HIV/AIDS.
Trung tâm Công tác xã hội nuôi dưỡng 82 đối tượng (giảm 01). Tiếp tục thực hiện các mô hình như: Câu lạc bộ Tuổi Hồng; công tác xã hội trong bệnh viện… cho đối tượng đang sống tại Trung tâm thường xuyên duy trì sinh hoạt. Thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm: đảm bảo đối tượng được ăn chín, uống sôi; mua thực phẩm tươi sống, đảm bảo chất lượng và có nguồn gốc; thường xuyên lưu mẫu thực phẩm sau khi chế biến; thay đổi thực đơn hàng ngày cho đối tượng. Đảm bảo thực hiện tốt công tác phòng dịch bệnh: thực hiện tẩy trùng, diệt khuẩn các phòng ở của đối tượng 2 lần/tuần, bằng Cloramin B; hướng dẫn trẻ thường xuyên rửa tay đúng cách, vệ sinh đồ dùng cá nhân, sử dụng khẩu trang. Khám và điều trị thường xuyên cho 450 đối tượng bệnh thông thường.
5. Tai nạn giao thông
Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông thành phố Cần Thơ tình hình tai nạn giao thông (từ ngày 15/4/2020 đến 14/5/2020) trên địa bàn thành phố đã xảy ra 10 vụ tai nạn giao thông, làm chết 10 người; so với cùng kỳ năm 2019, số vụ tăng 04 vụ, số người chết tăng 04 người. 05 tháng năm 2020, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 29 vụ tai nạn giao thông, làm chết 29 người, bị thương 03 người; so với cùng kỳ năm 2019, số vụ giảm 15 vụ, số người chết giảm 17 người, số người bị thương giảm 11 người./.
Website Cục Thống kê thành phố Cần Thơ