(MPI Portal) – Ngày 09/12/2014, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp cùng Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam và Ủy ban Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (Keidanren) đồng tổ chức cuộc họp cấp cao Ủy ban Đánh giá và Xúc tiến Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản để tổng kết tình hình thực hiện Kế hoạch hành động Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn V.
|
Toàn cảnh cuộc họp. Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Ngày 26/07/2013, tại cuộc họp cấp cao Ủy ban đánh giá và xúc tiến Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản, hai bên đã ký kết Kế hoạch hành động Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn V với thời hạn 16 tháng từ 07/2013 đến 12/2014.
Kế hoạch hành động giai đoạn V gồm 13 nhóm vấn đề với 26 hạng mục và 104 tiểu hạng mục liên quan đến một số nội dung có tính trước mắt cũng như dài hạn, đó là: thực thi luật pháp, chính sách; thuế; hải quan – vận tải; dịch vụ; phi ngân hàng; sở hữu trí tuệ; phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; bán lẻ; môi trường; lao động; ổn định kinh tế vĩ mô; an toàn vệ sinh thực phẩm và xây dựng kết cấu hạ tầng có sự tham gia của khu vực tư nhân.
Sau 16 tháng triển khai, về cơ bản hai bên đã thực hiện tốt kế hoạch hành động giai đoạn V. Đến nay, 40 cuộc đối thoại chính sách giữa các cơ quan hữu quan Việt Nam với phía Nhật Bản đã được tổ chức nhằm trao đổi, thảo luận về nội dung kế hoạch hành động. Nhiều khuyến nghị chính sách mang tính xây dựng của phía Nhật Bản đã được các Bộ, ngành tiếp thu hoặc ghi nhận, tiếp tục nghiên cứu hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét trong quá trình hoàn thiện luật pháp, chính sách cũng như việc tổ chức thực thi.
|
Đại sứ Nhật Bản Hiroshi Fukuda, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh và hai ngài đồng Chủ tịch Ủy ban Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản chủ trì buổi họp báo. Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Theo kết quả đánh giá của Ủy ban đánh giá và xúc tiến Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản trong tổng số 104 tiểu hạng mục nêu tại Kế hoạch hành động giai đoạn V, đã có 95 hạng mục triển khai tốt hoặc đang triển khai, chỉ có 9 tiểu hạng mục chưa triển khai. Trong số 95 hạng mục nêu trên, có 81 hạng mục triển khai tốt và đúng tiến độ, 14 tiểu hạng mục đang triển khai nhưng chậm tiến độ.
Các hạng mục hoàn thành tốt bao gồm các vấn đề liên quan đến vận tải, hải quan, an toàn thực phẩm, thuế, ngân hàng và phi ngân hàng, sở hữu trí tuệ, xây dựng kết cấu hạ tầng.
14 tiểu hạng mục đang phát triển nhưng chậm tiến độ liên quan đến các vấn đề về liên kết chiến lược công nghiệp hóa, bán lẻ, dịch vụ, vận dụng luật. Mặc dù các hạng mục này được đánh giá chậm tiến độ song nội dung cụ thể của từng hạng mục được hai bên đánh giá tích cực. Một trong những nguyên nhân chính của việc chậm tiến độ là do phía Nhật Bản cần thêm thời gian để cung cấp tài liệu và thu thập đủ thông tin gửi các cơ quan phía Việt Nam. Ngoài ra, một số nội dung liên quan đến việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định, Luật) hoặc những vấn đề mang tính chủ trương đòi hỏi thời gian xử lý hoặc tiếp tục nghiên cứu.
9 tiểu hạng mục chưa triển khai liên quan đến các vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, thực thi quyền sở hữu trí tuệ và pháp luật bảo vệ môi trường, các hạng mục này sẽ được hai bên tiếp tục bàn thảo trong thời gian tới.
|
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh và Đại sứ Hiroshi Fukuda ký kết Biên bản đánh giá kết quả thực hiện Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn V. Ảnh: Đức Trung (MPI Portal)
|
Trải qua hơn 11 năm thực hiện, Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản với mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư và tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, có thể nói rằng về cơ bản Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản đã đạt được các mục tiêu cơ bản đề ra. Kết quả có được là nhờ sự nỗ lực chung của Chính phủ Việt Nam và các cơ quan phía Nhật Bản, đồng thời minh chứng cho chính sách kiên trì của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam.
Trên cơ sở kết quả đạt được thời gian qua, hai bên thống nhất về nguyên tắc tiếp tục thực hiện trong thời gian tới. Tuy nhiên, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đã và đang ngày càng hoàn thiện, hệ thống chính sách pháp luật được xây dựng theo hướng minh bạch, tính giải trình cao, phù hợp với thông lệ quốc tế. Do đó, các vấn đề vướng mắc mang tính kỹ thuật hoặc liên quan đến quy trình thủ tục sẽ giảm tương đối, thay vào đó là các vấn đề dài hạn, tổng thể của ngành, lĩnh vực. Do đó, trong thời gian tới, hai bên sẽ tiếp tục nghiên cứu, đề xuất cách thức hợp tác và báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định vấn đề này./.
Nguyễn Hương
Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư