Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 02/10/2020-08:14:00 AM
Tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2020 của tỉnh Ninh Bình

1. Sản xuất nông nghiệp

Trồng trọt:

Sản xuất vụ mùa:Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa năm 2020 ước đạt gần 37,8 nghìn ha, giảm 3,9% (- 1,5 nghìn ha) so với vụ mùa năm trước. Nguyên nhân diện tích gieo trồng vụ mùa giảm là do việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp (thu hồi giải phóng mặt bằng xây dựng khu dân cư, làm đường giao thông, khu công nghiệp...), một số diện tích cây trồng chuyển sang nuôi trồng thủy sản trên ruộng.

Cây lúa:Diện tích gieo cấy lúa vụ mùa ước đạt gần 31,7 nghìn ha (-1,3 nghìn ha), giảm 3,9% so với cùng vụ năm trước; trong đó diện tích lúa thuần chiếm 93,6%, tăng 0,1% so với tỷ lệ 93,5% của vụ mùa 2019. Tính đến thời điểm này, toàn tỉnh có trên 28,4 nghìn ha lúa đã trỗ bông, diện tích lúa đã gặt gần 1,6 nghìn ha (tập trung chủ yếu ở huyện Nho Quan 1,3 nghìn ha, Yên Mô 250 ha). Dự ước năng suất vụ mùa năm nay đạt 54,0 tạ/ha, tăng 0,4% (+0,2 tạ/ha); sản lượng ước đạt trên 171,0 nghìn tấn, giảm 3,5% (-6,3 nghìn tấn) so với vụ mùa năm 2019.

Tình hình sâu bệnh:Đến ngày 23/9/2020, toàn tỉnh hiện có 5,7 nghìn ha lúa bị khô vằn với 0,7 nghìn ha lúa bị nặng, phòng trừ được 4,9 nghìn ha; 75 ha lúa bị bạc lá (trong đó 6 ha bị nặng), phòng trừ được 38 ha; 267 ha lúa bị chuột phá (trong đó 44 ha bị nặng).

Cây ngô:Diện tích ngô vụ mùa gieo trồng đạt 1,3 nghìn ha, giảm 5,8% (-81,6 ha); năng suất đạt 36,5 tạ/ha, tăng 0,5% (+0,2 tạ/ha); sản lượng đạt trên 4,8 nghìn tấn, giảm 5,4% (-0,3 nghìn tấn).

Cây rau đậu và cây công nghiệp:Diện tích cây rau đậu vụ mùa năm nay đạt trên 2,2 nghìn ha, tăng 1,8% (+39,3 ha), trong đó cây rau đạt gần 2,0 nghìn ha, tăng 2,6% (+49,4 ha), cây đậu đạt 261,1 ha, giảm 3,7% (-10,1 ha); sản lượng rau ước đạt 35,5 nghìn tấn, tăng 2,6% (+0,9 nghìn tấn); sản lượng đậu ước đạt 351,8 tấn, giảm 3,5% (-12,7 tấn).

Cây công nghiệp hàng năm:Vụ mùa năm nay diện tích gieo trồng cây công nghiệp hàng năm đạt trên 1,1 nghìn ha, giảm 13,1% (-0,2 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước, trong đó cây lạc đạt 306 ha, giảm 7,8% (-25,9 ha), cây đỗ tương đạt 72,0 ha, giảm 33,4% (-36,1ha). Sản lượng lạc đạt trên 0,8 nghìn tấn, giảm 3,4% (-29,7 tấn); sản lượng đỗ tương đạt 135,2 tấn, giảm 28,0% (-52,6 tấn).

Cây lâu năm:Diện tích cây lâu năm 9 tháng đầu năm 2020 ước đạt trên 7,2 nghìn ha, tăng 1,1% (+77 ha) so với 9 tháng đầu năm trước, trong đó diện tích cây ăn quả ước đạt trên 6,5 nghìn ha, tăng 1,1% (+71 ha). Một số cây ăn quả có sản lượng tăng khá so với cùng kỳ như: dứa ước đạt 43,3 nghìn tấn, tăng 1,9%; chuối 16,7 nghìn tấn, tăng 3,5%; cam 187,8 tấn, tăng 1,2%; vải 2,1 nghìn tấn, tăng 21,3%...

Chăn nuôi:Trong 9 tháng đầu năm 2020, sản xuất chăn nuôi vẫn gặp một số khó khăn khi xuất hiện dịch cúm gia cầm H5N6 và tái xuất hiện dịch tả lợn châu Phi trong tháng 8/2020. Riêng chăn nuôi lợn do ảnh hưởng dịch tả lợn châu Phi nên các hộ chăn nuôi thận trọng hơn trong việc đầu tư tái đàn, cùng với đó là nguồn cung giống khan hiếm, giá đầu vào con giống quá cao nên người dân gặp nhiều khó khăn về kinh phí đầu tư tái đàn. Đến nay toàn tỉnh đã phát hiện 7 ổ dịch cúm gia cầm H5N6 tại các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Yên Mô và Kim Sơn với số lượng tiêu hủy gần 12,9 nghìn con gia cầm và tính từ ngày 17/8 đến ngày 22/9 đã có 7/8 huyện của tỉnh tái xuất hiện dịch tả lợn châu Phi với số lượng tiêu hủy 1.672 con lợn, trọng lượng ước tính gần 115,6 nghìn tấn.

Theo kết quả điều tra chăn nuôi 9 tháng đầu năm, tổng đàn trâu toàn tỉnh ước đạt 12,7 nghìn con, giảm 0,1% (-14 con) so với cùng kỳ năm 2019; đàn bò ước đạt 36,9 nghìn con, giảm 0,2% (-67 con); đàn lợn ước đạt trên 213,3 nghìn con, tăng 6,9% (+13,8 nghìn con); đàn gia cầm ước đạt trên 6,0 triệu con, tăng 3,7% (+0,2 triệu con).Sản lượngthịt xuất bán, giết thịt 9 tháng đầu năm: Đàn trâu ước đạt 0,8 nghìn tấn, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò ước đạt gần 2,0 nghìn tấn, tăng 1,4%; đàn lợn ước đạt gần 26,7 nghìn tấn, giảm 3,8%; đàn gia cầm ước đạt gần 8,1 nghìn tấn, tăng 12,0%.

Công tác tiêm phòng bệnh dịch luôn được quan tâm thực hiện, trong 9 tháng đầu năm 2020, Chi cục Thú ý đã cấp 8,4 nghìn lít hóa chất cho các huyện, thành phố để tổ chức phun hóa chất khử trùng tiêu độc môi trường, phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi và tiêm phòng vắc xin với số lượng như sau: 23,2 nghìn liều vắc xin lở mồm long móng trâu bò; 940 liều vắc xin tụ huyết trùng trâu, bò; 460 liều vắc xin lở mồm long móng lợn; gần 3,2 triệu liều vắc xin cúm gia cầm tương đương với gần 1,9 triệu con gia cầm; 40,4 nghìn liều vắc xin dại chó.

Lâm nghiệp:Sản xuất lâm nghiệp trong 9 tháng đầu năm vẫn duy trì bình thường. Công tác khoanh nuôi, bảo vệ rừng được kiểm soát và chỉ đạo chặt chẽ, không có vụ chặt phá rừng và buôn bán động vật trái phép nào xảy ra.

Ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung 9 tháng đầu năm toàn tỉnh đã trồng mới 158 ha rừng tập trung, tăng 11,3% so với 9 tháng năm 2019. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 18,9 nghìn m3, tăng 4,4%; củi khai thác ước đạt 26,6 nghìn ste, tăng 2,7%.

Thủy sản:Thời tiết 9 tháng đầu năm 2020 tương đối thuận lợi cho hoạt động sản xuất thủy sản. Ngành thủy sản ứng dụng công nghệ cao, quy trình nuôi đảm bảo an toàn, hạn chế dịch bệnh ngày càng được nhân rộng, phát triển đa dạng các con nuôi chủ lực nhằm đạt giá trị kinh tế cao cho các hộ nuôi.

Sản lượng thuỷ sản 9 tháng đầu năm ước đạt trên 44,1 nghìn tấn, tăng 7,0% (+2,9 nghìn tấn) so với 9 tháng năm 2019. Chia ra: sản lượng nuôi trồng đạt gần 39,0 nghìn tấn, tăng 7,8% (+2,8 nghìn tấn); sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 5,1 nghìn tấn, tăng 1,5% (+74 tấn). Trong tổng số: sản lượng cá đạt trên 24,9 nghìn tấn, tăng 6,0% (+1,4 nghìn tấn); sản lượng tôm đạt 2,3 nghìn tấn, tăng 4,6% (+0,1 nghìn tấn); sản lượng thuỷ sản khác đạt trên 16,8 nghìn tấn, tăng 8,8% (+1,4 nghìn tấn).

2. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số công nghiệp (IIP) toàn tỉnh thángChínnăm nay ước tính tăng6,67% so với cùng tháng năm trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoánggiảm13,92%, công nghiệp chế biến tăng7,47%, ngành công nghiệp sản xuất phân phối điện giảm10,55%, ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng7,27%.

So với tháng trước (tháng 08/2020), chỉ số phát triển công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng này giảm 5,12%, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng10,18%, công nghiệp chế biến giảm5,55%, ngành công nghiệp sản xuất phân phối điệntăng7,66%, ngành cung cấp nước và xử lý rác thải giảm4,83%.

Tính chung lại9tháng đầu năm 2020 chỉ số phát triển công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tăng4,18%, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm6,83%; công nghiệp chế biến tăng4,46%; công nghiệp sản xuất, PP điện tăng0,75%; sản xuất cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm2,69%.

Tính theo giá so sánh 2010: Giá trị sản xuất công nghiệp thángChíntoàn tỉnh ước đạt 7.433,2tỷ đồng, tăng9,2% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: Công nghiệp khai thác mỏ đạt gần 10,9tỷ đồng,giảm18,2%; công nghiệp chế biến đạt 7.352,5 tỷ đồng, tăng 9,6%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện đạt gần 83,0 tỷ đồng, giảm 15,1%; công nghiệp sản xuất nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải đạt 13,8 tỷ đồng, tăng 14,4%.

Tính chung lại, tổng giá trị sản xuất 9 tháng đầu năm 2020 toàn tỉnh đạt 60.007,4 tỷ đồng, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Công nghiệp khai thác mỏ đạt 87,2 tỷ đồng, giảm 29,4%; công nghiệp chế biến đạt 58.933,4 tỷ đồng, tăng 8,0%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện đạt 858,9 tỷ đồng, tăng 11,1%; công nghiệp cung cấp nước và xử lý rác thải đạt 127,8 tỷ đồng, giảm 16,8%.

Một số sản phẩm chủ yếu tháng Chín năm 2020 tăng khá so với cùng tháng năm trước là: Ngô ngọt đóng hộp 300 tấn, gấp 2,5 lần; dứa đóng hộp 651 tấn, tăng 14,0%; các sản phẩm bằng vật liệu tết bện đạt 8.926,3 nghìn cái, tăng 76,3%; sản phẩm in 4,4 triệu trang, tăng 12,8%; phân urê đạt 16,6 nghìn tấn, gấp 7,9 lần; phân hỗn hợp NPK 6,2 nghìn tấn, tăng 5,1%; phân lân nung chảy 9,1 nghìn tấn, tăng 46,8%; modul camera đạt 18,9 triệu cái, tăng 22,7%; kính máy ảnh đạt 400 nghìn cái, gấp 1,8 lần; xe ô tô 5-14 chỗ đạt 6,0 nghìn chiếc, tăng 7,3%; cần gạt nước ô tô đạt 1,2 triệu cái, tăng 28,7%; nước máy thương phẩm đạt 3,2 triệu m3, tăng 7,0%; thép cán các loại đạt 24,8 nghìn tấn, tăng 1,2%; kính xây dựng đạt 40,0 nghìn tấn, tăng 3,1%;...

Tuy nhiên trong tháng, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: Đá các loại 302,0 nghìn m3, giảm 13,7%; hàng thêu 18,3 nghìn m2, giảm 68,5%; quần áo các loại đạt 7.603,0 nghìn cái, giảm 8,9%; giầy, dép các loại 3.050 nghìn đôi, giảm 7,3%; xi măng và clanhke đạt 951,4 nghìn tấn, giảm 8,6%; đồ chơi hình con vật đạt 916 nghìn con, giảm 49,3%; điện sản xuất đạt 39,0 Tr.Kwh, giảm 24,1%...

Tính chung lại, 9 tháng đầu năm 2020 các sản phẩm công nghiệp có mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước là: Dứa đóng hộp 5.432 tấn, tăng 23,1%; nước dứa tươi 1.733,0 nghìn lít, tăng 11,0%; giày dép các loại 25.822 nghìn đôi, tăng 8,3%; các sản phẩm bằng vật liệu tết bện 58,6 triệu cái, tăng 42,3%; phân hỗn hợp NPK 68,1 nghìn tấn, tăng 17,6%; kính xây dựng 353,0 nghìn tấn, tăng 21,3%; thép xây dựng đạt 218,5 nghìn tấn, tăng 2,0%; thanh nhôm, que nhôm ở dạng hình 31,5 nghìn tấn, tăng 80,0%; cấu kiện tháp, cột bằng sắt, thép bắt chéo nhau 11,8 nghìn tấn, tăng 98,2%; cần gạt nước ô tô gần 7,0 triệu cái, tăng 19,6%; bàn, tủ bằng gỗ đạt gần 84,3 nghìn chiếc, tăng 1,3%; điện sản xuất 593,7 triệu Kwh, tăng 0,6%; nước máy thương phẩm 27,2 triệu m3, tăng 5,6%...

Tuy nhiên, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút là: Ngô ngọt đóng hộp 2.625 tấn, giảm 44,4%; quần, áo các loại 61,2 triệu cái, giảm 16,3%; găng tay 4.825,0 nghìn đôi, giảm 39,5%; phân u rê đạt 243,7 nghìn tấn, giảm 17,5%; phân lân nung chảy đạt 78,8 nghìn tấn, giảm 20,6%; linh kiện điện tử 142,9 triệu sản phẩm, giảm 24,7%; modul camera 121,6 triệu cái, giảm 8,9%; tai nghe điện thoại di động 10,7 triệu cái, giảm 23,5%; kính máy ảnh 1.368,1 nghìn cái, giảm 27,2%; xe ô tô 5-14 chỗ lắp ráp 47,7 nghìn chiếc, giảm 4,5%; xe ô tô chở hàng hóa 1.231 chiếc, giảm 51,6% ...

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Chín năm 2020 gấp hơn 2,9 lần so với tháng 9 năm 2019, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng tháng năm trước như: Sản xuất xe có động cơ gấp 31,9 lần; sản xuất thiết bị truyền thông gấp 3,5 lần; sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại gấp 3,1 lần; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 50,3%, sản xuất trang phục tăng 65,2%...

Một số sản phẩm tồn kho đến 31/8/2020 là: Giày, dép 2.043,2 nghìn đôi; đạm urê 17,3 nghìn tấn; phân NPK 28,8 nghìn tấn; phân lân nung chảy 7,3 nghìn tấn; kính xây dựng 191,7 nghìn tấn; camera và linh kiện điện tử 1.584,9 nghìn cái; loa, tai nghe điện thoại 741,2 nghìn cái; xe ô tô 5-14 chỗ 1.225 chiếc ...

3. Vốn đầu tư và phát triển

Tổng vốn đầu tư phát triển thángChínnăm nay toàn tỉnh ước đạt gần 2.189,8tỷ đồng, tăng2,9% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước đạt244,4tỷ đồng, tăng49,0%; vốn tín dụng30,0 tỷ đồng, tăng66,7%; vốn trái phiếu Chính Phủ đạt63,0 tỷ đồng, tăng29,3%; vốn ngoài nhà nước đạt 1.680,2 tỷ đồng,giảm0,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt146,8tỷ đồng, giảm23,8%.

Tính chung lại,tổng vốn đầu tư phát triển9tháng đầu năm 2020 toàn tỉnh ước đạt 18.024,6tỷ đồng, tăng6,9% so với cùng kỳ năm trước(đạt71,8%kế hoạch năm 2020). Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước đạt 1.861,8tỷ đồng, tăng 67,8%; vốn tín dụng 277,5tỷ đồng, gấp3,9lần; vốn trái phiếu Chính Phủ đạt 535,6tỷ đồng, gấp2,6lần; vốn ngoài nhà nước đạt 14.110,8tỷ đồng,tăng3,6%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt1.050,9 tỷ đồng, giảm37,5%.

Khối lượng vốn đầu tư thực hiện trong9tháng đầu năm 2020 tập trung ở một số công trình, dự án như:

- Khu vực đầu tư công:

+ Vốn ngân sách Nhà nước:Dự án xây dựng, nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ tầng thị trấn Me - huyện Gia Viễn ước đạt 306 tỷ đồng; dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu Trung tâm hành chính huyện Gia Viễn ước đạt 91 tỷ đồng; dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư mới xã Gia Thịnh, xã Gia Vượng-huyện Gia Viễn ước đạt 90,5 tỷ đồng; dự án xây dựng đường cứu hộ, cứu nạn cho Nhân dân vùng mưa lũ các xã Yên Nhân, Yên Từ, Yên Phong đến đê sông Vạc-huyện Yên Mô ước đạt trên 35,1 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng các tuyến đường trục chính xã Gia Thịnh-huyện Gia Viễn ước đạt 25 tỷ đồng; dự án xây dựng đường Tân An kết hợp kênh tưới N5 đoạn từ xã Gia Lập đến xã Gia Thắng-huyện Gia Viễn ước đạt 24 tỷ đồng; dự án xây dựng thêm 8 phòng học Trường Mầm non xã Khánh Cư-huyện Yên Khánh ước đạt 21,4 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu giãn dân xã Lưu Phương - huyện Kim Sơn ước đạt 18,7 tỷ đồng; dự án xây dựng Nhà văn hóa trung tâm huyện Yên Mô ước đạt trên 17,9 tỷ đồng…

+Khu vực vốn trái phiếu Chính phủ:Dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Cao Bồ - Mai Sơn thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 ước đạt 338,4 tỷ đồng;dự án thành phần đầu tư xây dựng tuyến đường kết nối Cao tốc - Cầu Giẽ Ninh Bình với Quốc lộ 1 (Giai đoạn 2)ước đạt 95 tỷ đồng; dự án nâng cấp tuyến đê hữu Hoàng Long và sông Đáy kết hợp giao thông đoạn từ Bái Đính đi Kim Sơn ước đạt 90 tỷ đồng.

+Khu vực vốn ODA:Dự án đầu tư xây dựng Âu Kim Đài phục vụ ngăn mặn giữ ngọt và ứng phó với tác động nước biển dâng cho 06 huyện, thành phố khu vực phía Nam tỉnh Ninh Bình ước đạt 94,9 tỷ đồng.

+Khu vực doanh nghiệp Nhà nước:Các dự án xây dựng, sữa chữa, cải tạo công trình điện, mua sắm máy móc, thiết bị của Công ty TNHH MTV Điện lực Ninh Bình ước đạt trên 183,7 tỷ đồng; vốn sửa chữa tài sản của Công ty TNHH MTV Xi măng Vicem Tam Điệp ước đạt 16,7 tỷ đồng.

- Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước:Dự án xây dựng khu liên hợp du lịch và thể thao của Công ty Cổ phần Đầu Tư Pv-inconess ước đạt 92,7 tỷ đồng; dự án xây dựng Trung tâm Thương mại Tràng An của Doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường ước đạt 48,8 tỷ đồng; dự án xây dựng trụ sở văn phòng của Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng và Phát triển Xuân Thành ước đạt 33,8 tỷ đồng; dự án xây dựng Trạm dừng nghỉ của Công ty CP Tập đoàn Xuân Khiêm ước đạt 24,9 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy nước sạch Hoàng Long và mạng lưới đường ống cung cấp nước của Công ty TNHH Đầu tư và Xây dựng Hoàng Dân ước đạt gần 23,4 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng nhà máy số 2 của Công ty Cổ phần Sản xuất Ô tô Huyndai Thành Công Việt Nam với tổng mức đầu tư trên 3.200 tỷ đã được khởi công tháng 9/2020…

- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Dự án mua tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị và xây dựng nhà xưởng sản xuất của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt gần 745,6 tỷ đồng;dự án của Công ty TNHH Athena Việt Nam ước đạt 73,8 tỷ đồng;dự án xây dựng thêm nhà xưởng sản xuất giày của Công ty TNHH Regis ước đạt 47 tỷ đồng; …

Một số dự án lớn được khởi công xây dựng mới: Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật các tuyến đường trục chính xã Gia Thịnh, huyện Gia Viễn với tổng mức đầu tư 347 tỷ đồng; dự án xây dựng tầng kỹ thuật các tuyến đường trục chính xã Gia Vượng, huyện Gia Viễn với tổng mức đầu tư 216,9 tỷ đồng; dự án xây dựng đường Tân An kết hợp kênh tưới N5 đoạn từ Gia Lập đến Gia Thắng-huyện Gia Viễn với tổng mức đầu tư 30 tỷ đồng;dự án xây dựng Sân vận động Trung tâm huyện và khu cây xanh huyện Gia Viễn với tổng mức đầu tư 29,3 tỷ đồng…

4. Thương mại, dịch vụ và giá cả

4.1. Bán lẻ hàng hóa

Trong 9 tháng đầu năm, dưới tác động nặng nề của dịch Covid-19, hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn toàn tỉnh có sự sụt giảm, đặc biệt là các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch, lữ hành. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2020 ước đạt gần 25.782,3 tỷ đồng, giảm 3,1% so với 9 tháng năm 2019. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt gần 21.268,8 tỷ đồng, giảm 1,1%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 2.739,0 tỷ đồng, giảm 15,0%; doanh thu du lịch lữ hành 4,5 tỷ đồng, giảm 59,0%; doanh thu dịch vụ khác 1.769,9 tỷ đồng, giảm 4,4%.

Các nhóm giảm chủ yếu tập trung ở một số nhóm hàng hóa không thiết yếu như: Nhóm phương tiện đi lại (trừ ô tô, kể cả phụ tùng) ước đạt gần 1.386,7 tỷ đồng, giảm 18,5%; xăng dầu các loại 1.834,3 tỷ đồng, giảm 15,5% (một phần do giá xăng, dầu được điều chỉnh giảm nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh); hàng may mặc 1.600,9 tỷ đồng, giảm 8,5%; ô tô các loại 1.048,7 tỷ đồng, giảm 3,5%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 459,8 tỷ đồng, giảm 2,8%. Bên cạnh đó, các nhóm hàng hóa tiêu dùng thiết yếu vẫn đạt mức tăng khá so với cùng kỳ: Lương thực, thực phẩm ước đạt trên 6.468,9 tỷ đồng, tăng 3,3%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 2.443,5 tỷ đồng, tăng 3,2%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 366,7 tỷ đồng, tăng 3,6%; gỗ và vật liệu xây dựng 3.580,9 tỷ đồng, tăng 6,8%....

Cơ cấu tiêu dùng của người dân trong thời gian qua cũng có sự thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng mua sắm các mặt hàng thiết yếu như: Lương thực, thực phẩm (chiếm 30,4% tổng mức bán lẻ); gỗ và vật liệu xây dựng (chiếm 16,8%); đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình (chiếm 11,5%)...

4.2.Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trên thị trường toàn tỉnh sau ba tháng tăng liên tiếp từ tháng 6/2020, đến tháng Chín lại giảm 0,16% so với tháng trước. Nguyên nhân chính tác động làm giảm CPI này do nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,27%, trong đó nhóm lương thực giảm 0,09% do giá gạo giảm 0,45%; nhóm thực phẩm giảm 1,93% chủ yếu do giá các loại thịt gia súc, các sản phẩm chế biến từ thịt đồng loạt giảm khi người dân chuyển sang dùng các loại thịt gia cầm nhiều hơn, cụ thể: giá thịt gia súc giảm 9,1% so với tháng trước (giá thịt lợn giảm 10,9%; giá thịt bò giảm 2,85%; nội tạng động vật giảm 6,43%); giá thịt chế biến các loại giảm 5,46%; dầu mỡ ăn và chất béo khác giảm 2,08%...; riêng nhóm ăn uống ngoài gia đình vẫn giữ nguyên. Cùng có chỉ số giảm là nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,09%. Có 4 nhóm có chỉ số tăng, trong đó nhóm giáo dục tăng mạnh nhất với 4,9% do giá dịch vụ giáo dục tăng 5,99% khi mức học phí các cấp trong tháng được điều chỉnh tăng theo Nghị quyết số 21/2018/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Ninh Bình ngày 10/7/2018 đã quy định từ năm học 2019-2020 trở đi, hàng năm, mức tăng học phí được tính bằng mức học phí của năm trước liền kề nhân với mức tăng bình quân chỉ số giá tiêu dùng do Bộ Kế hoạch & Đầu tư thông báo (làm tròn đến hàng nghìn) và Công văn số 918/SGDĐT-KHTC ngày 21/8/2020 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Ninh Bình“Về việc hướng dẫn thực hiện các khoản thu, chi trong trường học năm học 2020-2021”cụ thể: học phí mầm non tăng 1,88%, học phí trung học cơ sở tăng 4,92%, học phí trung học phổ thông tăng 3,67%; đặc biệt học phí giáo dục đại học tăng 15% do từ tháng 9/2020 mức học phí đại học được điều chỉnh tăng theo Nghị quyết số 25/2016/NQ-HĐND ngày 04/8/2016 của HĐND tỉnh Ninh Bình“Về việc quy định mức thu học phí đối với chương trình đào tạo đại trà trình độ Đại học, Cao đẳng, Trung cấp tại các cơ sở giáo dục công lập thuộc tỉnh Ninh Bình quản lý từ năm học 2016-2017 đến năm học 2020-2021”.Tiếp theo, nhóm giao thông tăng 0,18% do nhóm nhiên liệu tăng 0,41%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,16%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,14%. Năm nhóm còn lại giữ chỉ số ổn định.

CPI bình quân 9 tháng đầu năm 2020 tăng 4,69% so với bình quân cùng kỳ năm 2019. Trong đó có 7/11 nhóm có chỉ số tăng: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 15,46%(lương thực tăng 9,47%; thực phẩm tăng 19,99%; ăn uống ngoài gia đình tăng 8,3%); giáo dục tăng 3,99%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,82%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,78%; nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,28%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,26%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,21%. Bốn nhóm còn lại có chỉ số giảm gồm: Nhóm giao thông giảm 9,36%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 5,42%; bưu chính viễn thông giảm 2,54%; hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,16%.

Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ:Chỉ số giá vàng tháng này giảm 0,91% so với tháng trước, tăng 37,81% so với tháng 12/2019 và tăng 35,72% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá bán lẻ đô la Mỹ giảm 1,2% so với tháng 8/2020, giảm 0,44% so với tháng 12/2019 và giảm 1,77% so với tháng 9/2019.

4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Xuất khẩu:Giá trị xuất khẩu tháng Chín năm 2020 đạt trên 270,2 triệu USD, tăng 16,6% so với tháng Chín năm 2019. Tính chung lại, tổng giá trị xuất khẩu 9 tháng năm nay ước đạt trên 1.814,9 triệu USD, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: Quần áo các loại đạt 174,6 triệu USD; xi măng, clanke đạt 411,4 triệu USD; giầy dép các loại đạt 287,3 triệu USD; camera và linh kiện điện thoại 763,7 triệu USD; linh kiện điện tử 51,1 triệu USD…

Trong 9 tháng năm nay, một số mặt hàng xuất khẩu đạt khá so với cùng kỳ năm trước như: Dứa, dưa chuột đóng hộp trên 12,3 nghìn tấn, tăng 88,6%; nước dứa cô đặc 1.134 tấn, gấp 3,4 lần; giầy dép các loại 26,3 triệu đôi, tăng 8,9%; thảm cói 36,2 nghìn m2, gấp gần 2,9 lần; sản phẩm cói khác 689,4 nghìn sản phẩm, gấp 2,2 lần; xi măng, clanke 10,9 triệu tấn, tăng 17,9%; cần gạt nước 8.223 nghìn chiếc, tăng 50,5%; phôi nhôm 18,5 nghìn tấn, gấp 2,5 lần... Tuy nhiên một số sản phẩm xuất khẩu giảm sút như: Quần áo các loại 26,1 triệu chiếc, giảm 27,9%; hàng thêu 77,4 nghìn chiếc, giảm 58,9%; camera và linh kiện điện thoại 118,6 triệu sản phẩm, giảm 12,6%; kính quang học 1.109,4 nghìn chiếc, giảm 40,9%; túi nhựa 1.057 tấn, giảm 42,7%.

Nhập khẩu:Giá trị nhập khẩu tháng Chín năm nay ước đạt trên 256,2 triệu USD, tăng 4,2% so với cùng tháng năm trước. Tổng giá trị nhập khẩu 9 tháng đầu năm ước đạt gần 2.173,0 triệu USD, giảm 9,8% so với 9 tháng năm 2019. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: Linh kiện điện tử 982,9 triệu USD; linh kiện ô tô đồng bộ các loại 685,8 triệu USD; vải may mặc 56,6 triệu USD; phụ liệu may mặc 74,5 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày dép 131,1 triệu USD; phế liệu sắt thép 57,4 triệu USD; máy móc thiết bị 32,0 triệu USD.

4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa

Các đơn vị hoạt động kinh doanh vận tải trên địa bàn tỉnh trong 9 tháng đầu năm phải đối mặt với những thách thức không hề nhỏ do nhu cầu đi lại, vận chuyển giảm mạnh, doanh thu sụt giảm nghiêm trọng trong khi các chi phí phục vụ công tác phòng chống dịch lại tăng. Trong đó, vận tải hành khách chịu thiệt hại nặng nề nhất, các hoạt động vận chuyển hành khách tuyến cố định liên tỉnh, nội tỉnh, xe buýt, taxi, hoạt động vận chuyển hành khách theo hợp đồng, xe du lịch đều phải tạm ngừng hoạt động từ ngày 01/4/2020 đến hết ngày 22/4/2020.

Vận tải hành khách:Khối lượng hành khách vận chuyển 9 tháng đầu năm 2020 ước thực hiện trên 12,2 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 17,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ ước thực hiện gần 10,8 triệu lượt khách, giảm 15,1%; vận tải đường thủy trên 1,4 triệu lượt khách, giảm 32,7%. Khối lượng luân chuyển hành khách trong 9 tháng ước thực hiện trên 657,9 triệu lượt khách.km, giảm 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt trên 652,3 triệu lượt khách.km, giảm 17,5%; vận tải đường thủy trên 5,6 triệu lượt khách.km, giảm 39,1%.

Vận tải hàng hóa:Ước tính vận chuyển hàng hóa toàn tỉnh trong 9 tháng năm nay đạt gần 37,9 triệu tấn, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ đạt trên 17,8 triệu tấn, tăng 0,5%; vận tải đường thủy nội địa gần 18,9 triệu tấn, giảm 2,8%; vận tải biển gần 1,2 triệu tấn, giảm 12,1%. Khối lượng luân chuyển hàng hóa ước thực hiện trên địa bàn toàn tỉnh đạt gần 5.341,4 triệu tấn.km, giảm 7,7% so với 9 tháng 2019. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt trên 907,2 triệu tấn.km, tăng 0,2%; vận tải đường thủy nội địa trên 3.784,1 triệu tấn.km, giảm 8,1%; vận tải đường biển gần 650,0 triệu tấn.km, giảm 14,8%.

Doanh thu vận tải:Ước thực hiện 9 tháng đầu năm doanh thu hoạt động vận tải trên toàn tỉnh ước thực hiện gần 4.542,8 tỷ đồng, giảm 3,9% so với cùng kỳ. Xét theo loại hình vận tải, tất cả các loại hình vận tải đều giảm, cụ thể: Vận tải hành khách ước thực hiện gần 513,1 tỷ đồng, giảm 13,4%; vận tải hàng hóa gần 3.823,9 tỷ đồng, giảm 0,9%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải trên 204,7 tỷ đồng, giảm 25,6%; doanh thu bưu chính, chuyển phát gần 1,2 tỷ đồng, giảm 6,8%.

4.5.Du lịch

Trước ảnh hưởng của dịch Covid-19, để đảm bảo an toàn cho người dân và khách du lịch, các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh phải tạm ngừng các hoạt động đón tiếp khách tham quan, du lịch trong thời gian 13/3/2020-27/4/2020, thêm vào đó do tâm lý lo ngại dịch bệnh nên người dân cũng hạn chế đi du lịch, vì thế 9 tháng đầu năm nay lượng khách đến du lịch tại Ninh Bình giảm mạnh, đặc biệt là khách quốc tế. Trước tình hình đó, ngành du lịch Ninh Bình đã xác định phát triển du lịch trong thời gian tới với tiêu chí an toàn phòng, chống dịch bệnh, xây dựng Ninh Bình trở thành điểm đến an toàn, thân thiện và mến khách. Bên cạnh đó, ngành du lịch cũng chủ động tập trung vào khai thác thị trường khách du lịch nội địa, các đơn vị kinh doanh du lịch đã thực hiện đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, triển khai hàng loạt chương trình ưu đãi giảm giá, kích cầu nhằm thu hút khách du lịch nội địa.

Ước tính số lượng khách đến các điểm thăm quan du lịchtrongtỉnh9 tháng đầu năm 2020 đạt gần2.029,9nghìn lượt,giảm 68,8% so với9tháng đầu năm 2019.Trong đó: Khách trong nước ước đạt gần 1.849,8 nghìn lượt, giảm 68,3%; khách quốc tế 180,1 nghìn lượt, giảm 73,4%. Số lượt khách đến các cơ sở lưu trú ước đạt trên 321,0 nghìn lượt khách, giảm 49,5%; số ngày khách lưu trú gần 428,2 nghìn ngày khách, giảm 49,5%. Doanh thu du lịch trong 9 tháng đầu năm nay ước thực hiện gần 1.180,4 tỷ đồng, giảm 60,5% so với cùng kỳ năm trước (Trong đó: Doanh thu lưu trú ước thực hiện trên 238,5 tỷ đồng, giảm 55,5%; doanh thu nhà hàng 445,6 tỷ đồng, giảm 60,4%; doanh thu vận chuyển khách du lịch 165,3 tỷ đồng, giảm 61,0%; doanh thu bán hàng cho khách du lịch 146,0 tỷ đồng, giảm 67,2%; doanh thu dịch vụ khác 184,9 tỷ đồng, giảm 59,6%).

5. Một số vấn đề xã hội

Trong9tháng năm nay,ảnh hưởng củadịch bệnh Covid-19đãtác động tiêu cực đến hầu hết các hoạt động kinh tế,gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh,ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống dân cư,đặc biệt làđợt cao điểm bùng phát dịch vào tháng Ba đến tháng giữa tháng Năm và đợt bùng phát trở lại vào tháng Bẩy, làm một số hoạt động sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ, đặc biệt là hoạt động kinh doanh dịch vụ,làm giảm thu nhập của một bộ phận dân cư, một số lao động mất việc làm hoặc việc làm không ổn định. Trước tình hình đó công tác an sinh xã hội được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm góp phần giúp nhân dân ổn định cuộc sống.

5.1. Lao động và việc làm.

Trong9tháng năm 2020, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm chogần 11,1nghìn lao động, trong đó xuất khẩu lao động 0,6 nghìn trường hợp; tổ chức đào tạo nghề cho trên11,7nghìn lao động, trong đó lao động đào tạo dài hạn là 3,2 nghìn người, đào tạo ngắn hạn 8,5 nghìn người; tư vấn, giới thiệu việc làm cho 1,4 nghìn lao động; giải quyết cho 4,5 nghìn lao động được hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Thực hiệnNghị quyết 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về hỗ trợ người lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19,tính đến ngày 11/9/2020 toàn tỉnhđãthực hiện chi trả cho 370 hộ kinh doanh, với số kinh phí 370 triệu đồng; chi trả cho 8.911 người lao động với số kinh phí trên 8.919 triệu đồng.

5.2.Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội.

Do có sự quan tâm, hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ, các cấp, ngành địa phương cũng như sự chung tay của toàn xã hội trên tinh thần“không ai bị bỏ lại phía sau”nên đã khắc phục được khó khăn, ổn định cuộc sống, đến nay toàn tỉnh không có hộ dân nào bị thiếu đói.

Trong9tháng,toàn tỉnh đã tổ chức thăm hỏi, tặng quà trong các dịp lễ, tết và hỗ trợ cho cho các đối tượng chính sách, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, hỗ trợ ảnh hưởng dịch Covid-19.... Tính đến nay[1], tổng số kinh phí thăm, tặng, hỗ trợ gần 196.479triệu đồng, tặng cho361.265lượt đối tượng.Trong đó: Thăm hỏi, tặng quà trong dịp tết Canh Tý 2020 cho 174.739 đối tượng, với tổng kinh phí 58.248 triệu đồng; hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, với tổng kinh phí 118.259triệu đồng cho 99.720đối tượng. Hoàn thành xây mới 22ngôi nhà Đại đoàn kết cho các hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn về nhà ở với kinh phí hỗ trợ 50 triệu đồng/nhà, nguồn vốn hỗ trợ trích từ Quỹ “Vì người nghèo” của tỉnh. Hỗ trợ tiền điện sinh hoạt cho 7.900hộ nghèo được kịp thời, đúng quy định, với định mức hỗ trợ là 55,4 nghìn đồng/hộ/tháng; cấp phát423.261thẻ bảo hiểm y tế khám chữa bệnh miễn phí cho hộ nghèo và các đối tượng bảo trợ xã hội, những người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế khó khăn (người dân tộc thiểu số, và những người sống tại vùng bãi ngang ven biển); giải quyết cho 2.240 hộ nghèo, cận nghèo được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh.

5.3. Giáo dục, đào tạo

Trong 9 tháng năm 2020, ngành Giáo dục và Đào tạo đãkhắc phục khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19,điều chỉnh khung kế hoạch thời gian năm học 2019-2020;rà soát, tinh giản nội dung dạy học, triển khai các hình thức dạy học qua internet và trên truyền hình đảm bảo nội dung chương trình và kiến thức cho học sinh, đặc biệt là học sinh cuối cấp khi dịch Covid-19 bùng phát và diễn biến phức tạp trong những tháng đầu năm.Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức dạy học từ xa đối với học sinh lớp 9 THCS trên sóng Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Ninh Bình. Các hệ thống học trực tuyến cũng được tổ chức miễn phí để các trường, các thầy cô, học sinh và phụ huynh có thể sử dụng kho bài giảng, bài tập thực hành và bài kiểm tra trực tuyến.Bên cạnh đó, tổ chức thành công một số kỳ thi và đạt được những kết quả như sau:

Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2019-2020, tại Hội đồng thi tỉnh Ninh Bình có 71 học sinh của tỉnh dự thi 10 môn. Kết quả: Có 46 thí sinh đoạt giải chiếm 64,79%; trong đó có 8 giải Nhì, 20 giải Ba, 18 giải Khuyến Khích(tăng 11 giải so với kỳ thi năm 2019, trong đó tăng 4 giải Nhì vả 7 giải Ba).

Tổ chức thi chọn học sinh giỏi, học viên giỏi lớp 12 cấp tỉnh, tổng số 913 thí sinh đăng ký dự thi (trong đó có 840 thí sinh hệ THPT đăng ký dự thi). Kết quả 377 thí sinh đoạt giải (14 giải Nhất, 89 giải Nhì, 124 giải Ba và 150 giải Khuyến khích).

Tổ chức thi Khoa học kỹ thuật học sinh trung học cấp tỉnh, có 98 dự án dự thi (32 dự án của 8 Phòng Giáo dục và Đào tạo; 66 dự án của 23 trường THPT). Kết quả: Có 59 dự án đoạt giải, trong đó có 04 giải Nhất, 19 giải Nhì, 20 giải Ba và 16 giải Tư.

Tổ chức thành công kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT và kỳ thi THPT quốc gia năm học 2019-2020. Trong đó, tại cuộc thi THPT quốc gia, điểm trung bình của các môn thi đạt 6,72 điểm, xếp thứ 3 toàn quốc; tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt 99,31% (khối THPT đạt 99,72%; khối GDTX đạt 95,56%). Có 18 trường có tỷ lệ đỗ tốt nghiệp 100%; số thí sinh có tổng điểm 3 môn thi xét tuyển đại học đạt từ 26 điểm trở lên là 922 thí sinh, đạt từ 27 điểm trở lên là 268 thí sinh, đạt từ 28 điểm trở lên là 39 thí sinh.

Ngoài ra còn tham gia cuộc thi Đình Trạng nguyên tiếng Việt tiểu học cấp quốc gia, đạt 01 giải Thám Hoa, 02 giải Nhất, 08 giải Ba và 05 giải Khuyến khích; tham dự Olympic tiếng Anh trên internet (IOE) toàn quốc, đạt 05 giải Vàng, 10 giải Bạc, 14 giải Đồng và 20 giải Khuyến khích; đặc biệt, em Nguyễn Thu Hằng (trường THPT Kim Sơn A) đã đạt giải Nhất tại vòng chung kết cuộc thi năm 2020 cuộc thi“Đường lên đỉnh Olympia”do Đài truyền hình Việt Nam tổ chức.

5.4. Y tế

Trước sự lây lan và bùng phát mạnh của dịch bệnh viêm đường hô hấp do chủng mới của virus Covid - 19 (nCov), công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh đã được triển khai kịp thời, khẩn trương, quyết liệt, hiệu quả. Cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở và nhân dân toàn tỉnh tích cực tham gia phòng, chống dịch, với tinh thần, trách nhiệm cao và sự chia sẻ, hỗ trợ kịp thời. Tỉnh đã hỗ trợ tiền ăn thêm cho mỗi công dân về cách ly tại tỉnh 23.000đ/người/ngày; hỗ trợ khẩu trang, phun thuốc khử khuẩn, cồn rửa tay, trang bị bảo hộ, hỗ trợ nhân lực là các bác sỹ, điều dưỡng, nhân viên y tế trực 24/24 để trực tiếp phân loại các công dân Việt Nam được đưa về cách ly tại các địa điểm trên địa bàn tỉnh.

Tính đến ngày 17/9/2020 toàn tỉnh đã tiếp nhận và cách ly và giám sát 11.130 trường hợp; trong đó: Cách ly tại cơ sở y tế là 494 trường hợp; cách ly y tế tại cơ sở cách ly tập trung là 3.111 trường hợp (trong đó: 3.022 trường hợp được lấy mẫu xét nghiệm với SARS-CoV-2 đủ 2 lần, phát hiện ra 22 ca bệnh xác định; 80 trường hợp được lấy mẫu xét nghiệm với SARS-CoV-2 đủ 3 lần, không phát hiện ca bệnh xác định); cách ly y tế tại nhà và nơi lưu trú là 7.525 trường hợp.

Tổng số ca bệnh đã được lấy mẫu gửi đi xét nghiệm cộng dồn là 8.826 ca. Tính đến nay trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 25 trường hợp dương tính với Covid-19 (trong đó: Có 01 ca tái nhiễm với Covid-19, đã điều trị khỏi và xuất viện cả 25 trường hợp); 8.791 trường hợp có kết quả xét nghiệm âm tính; 01 trường hợp đã lấy mẫu xét nghiệm nhưng không đủ tiêu chuẩn để xét nghiệm mẫu;số trường hợp giám sát theo dõi trong ngày đã qua 14 ngày, hoặc chưa hết 14 ngày nhưng tiếp xúc với người có kết quả xét nghiệm âm tính không phải quản lý và theo dõi là 109 trường hợp.

Trong 8 tháng năm 2020,toàn tỉnh xảy ra 159ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm;281ca mắc chân tay miệng;338ca mắc thủy đậu;26ca sốt xuất huyết…Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã khám bệnh cho962nghìn lượt bệnh nhân, điều trị nội trú cho115nghìn lượt, khám phụ khoa36,7nghìn lượt, khám thai37,6nghìn lượt, đặt vòng1.895ca, triệt sản24ca.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong8tháng đầu năm phát hiện mới44người nhiễm HIV, chuyển sang giai đoạn AIDS51trường hợp, có10trường hợp tử vong do AIDS.

5.5.Hoạt động văn hóa, thể thao

Trong những tháng đầu năm bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nênmột số giải thi đấu thể thao quốc gia, quốc tế tạm dừng,không tổ chức hoặc lùi ngày tổ chức các lễ hội trong năm Du lịch Quốc gia 2020.Tuy nhiên, trước và sau đợt cao điểm bùng phát dịch bệnh Covid-19 các hoạt động văn hóa trên địa bàn tỉnh diễn ra với nhiều nội dung thiết thực từ tuyên truyền cổ động trực quan đến các hoạt động văn hóa, văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị của đất nước và địa phương.

Phong trào thể thao quần chúng diễn ra sôi nổi, đặc biệt là trong dịp tết Nguyên đán cổ truyền,các giải thể thao quần chúng được tổ chức như:Tổ chức giải Bóng chuyền và Hội vật mừng xuân Canh Tý 2020 tại sân vận động công cộng thành phố Ninh Bình; tổ chức thi đấu giải giao hữu Quần vợt đầu xuân; phát động toàn dân tập luyện môn bơi, phòng chống đuối nước và giải bơi học sinh, thiếu niên, nhi đồng“Đường đua xanh”năm 2020 trên địa bàn tỉnh.

Đối với thể thao thành tích cao:Trong 9 tháng, các đoàn vận động viên thể thao thành tích cao của tỉnh thi đấu các giải quốc gia và quốc tế đạt 103 huy chương các loại, trong đó 24 huy chương vàng, 30 huy chương bạc, 49 huy chương đồng. Trong đó nổi bật là: Đoàn vận động viên Cờ vua đi tham gia thi đấu giải Cờ vua - Cờ tướng các nhóm tuổi trẻ Miền Trung mở rộng năm 2020 tại Thành phố Vinh đạt 11 huy chương vàng, 14 huy chương bạc, 12 huy chương đồng; đoàn vận động viên Vật tham gia thi đấu giải vô địch trẻ các lứa tuổi Vật cổ điển, Vật tự do quốc gia năm 2020 tại Thanh Hóa đạt 02 huy chương vàng, 04 huy chương bạc, 05 huy chương đồng; đoàn vận động viên KickBoxing tham gia thi đấu giải vô địch trẻ KickBoxing toàn quốc tại Nghệ An đạt 01 huy chương vàng, 01 huy chương bạc, 2 huy chương đồng; đoàn vận động viên Cờ vua tham gia thi đấu giải vô địch Cờ vua trẻ toàn quốc năm 2020 tranh Cup Vietcombank tại Bà Rịa Vũng Tàu đạt 07 huy chương vàng, 05 huy chương bạc, 18 huy chương đồng.

5.6. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

Thực hiện Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ, tỉnh Ninh Bình đã tăng cường tuyên truyền, đồng thời chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao thông thực hiện nghiêm các nội dung trong Nghị định, đặc biệt là quy định về xử phạt vi phạm nồng độ cồn. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, công tác bảo đảm trật tự ATGT có những chuyển biến tích cực, tai nạn giao thông giảm đáng kể.

Tính đến 14/9/2020 trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 91 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 24 người và bị thương 77 người (giảm 08 vụ, tăng 05 người chết, giảm 3 người bị thương so với 9 tháng năm 2019); xảy ra 01 vụ giao thông đường thủy làm 01 người chết; xảy ra 266 vụ phạm pháp hình sự, tăng 46 vụ so với cùng kỳ năm trước; phát hiện 204 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma túy với 228 đối tượng, giảm 90 vụ và giảm 140 đối tượng.

Cũng tính đến thời điểm 14/9/2020, trên địa bàn tỉnh xảy ra 14 vụ cháy (trong đó có 1 vụ cháy rừng), gây thiệt hại gần 654 triệu đồng./.



Website Cục thống kê tỉnh Ninh Bình

  • Tổng số lượt xem: 939
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)