Tình hình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 9 tháng đầu năm 2022 diễn ra trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình quốc tế, trong nước tiếp tục có những biến động lớn nhất là đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong quý I năm 2022; Xung đột chiến tranh giữa Nga và Ucraina căng thẳng, chi phí các nguyên liệu đầu vào tăng cao trong khi thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa dịch vụ thiếu ổn định; một số hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội bị ngưng trệ, thu hẹp sản xuất ảnh hưởng đến tâm lý và đời sống của Nhân dân.Bên cạnh đó, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm đã gây ảnh hưởng đến tổng đàn và thiệt hại cho các hộ chăn nuôi.
Trong bối cảnh đó,dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh cùng sự vào cuộc của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân trong công tác phòng, chống dịch,sang quý II năm 2022, dịch Covid - 19 trên địa bàn tỉnh được kiểm soát tốt. Các cấp, các ngành đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh như: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ; miễn, giảm lãi vay, gia hạn nộp thuế, bảo hiểm xã hội… Đồng thời, tập trung cao cho việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng và triển khai thực hiện giải ngân các dự án đầu tư công, nhất là các dự án trọng tâm. Tiếp tục tạo môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút đầu tư, tích cực hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp.Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong 6 tháng đầu năm tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưngvới quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà để hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2022, UBND tỉnh đã ban hành văn bản số 101/UBND-VP2 ngày 25 tháng 7 năm 2022 về việctập trung các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng 6 tháng cuối năm 2022 trên địa bàn tỉnh,đến quý III năm 2022 sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh đã có nhiều dấu hiệu tích cực, nhiều ngành, lĩnh vực đều tăng trưởng khá, nhất là khu vực dịch vụ. Dưới đây là kết quả chủ yếu về tình hình kinh tế - xã hội tháng Chín và 9 tháng đầu năm 2022:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Trong 9 tháng đầu năm 2022,sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn khi giá cả vật tư đầu vào tăng cao; thời tiết đầu vụ Đông Xuân có nhiềuđợt rét đậm, rét hại, khiến cho nền nhiệt xuống thấp, ảnh hưởng quá trình sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng. Tuy nhiên, tình hình sâu bệnh xuất hiện muộn, mức độ hại thấp hơn so với năm trước.Dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm có xu hướng thuyên giảm rõ rệt, dịch tả lợn châu Phi cũng đã được kiểm soát nhưng vẫn còn một số địa phương tái dịch; công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng tiếp tục được quan tâm; sản xuất thủy sản phát triển tốt không có dịch bệnh xảy ra. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng đầu năm đạt được những kết quả sau:
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
a) Sản xuất vụ Mùa: Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Mùa năm 2022 đạt 37,3 nghìn ha, giảm 1,5% (- 0,6 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước.
Cây lúa:Diện tích gieo cấy lúa vụ Mùa năm nay đạt 31,4 nghìn ha, giảm 1,2% (- 0,4 nghìn ha) so với vụ Mùa năm trước; trong đó, cơ cấu lúa thuần chiếm 94,9% tổng diện tích lúa đã cấy, diện tích lúa thuần tăng 1,3% (+ 0,04 nghìn ha); toàn tỉnh gieo cấy được 17,8 nghìn ha lúa chất lượng cao, bằng 56,8% tổng diện tích lúa đã cấy; diện tích lúa chất lượng cao tăng 1,3% (+ 0,5 nghìn ha). Diện tích lúa nếp trong vụ gieo cấy đạt 6,0 nghìn ha, chiếm 19,1 % tổng diện tích lúa đã cấy giảm 1,5% (- 0,1 nghìn ha).
Tính đến 21/9/2022, toàn tỉnh có 13,3 nghìn ha lúa đã trỗ, bằng 42,2% diện tích lúa đã cấy; diện tích lúa thu hoạch đạt 1,2 nghìn ha thuộc huyện Nho Quan. Ước tính năng suất lúa vụ Mùa năm nay đạt 54,5 tạ/ha, tăng 0,2% (+ 0,1 tạ/ha) so với cùng vụ năm trước; sản lượng ước đạt 171,2 nghìn tấn, giảm 1,1% (- 2,0 nghìn tấn).
Cây ngô:Diện tích gieo trồng ngô vụ Mùa 2022 đạt 1,3 nghìn ha, giảm 6,7% (- 0,1 nghìn ha); năng suất ước đạt 36,7 tạ/ha, tăng 2,2% (+ 0,8 tạ/ha); sản lượng ước đạt 4,7 nghìn tấn, giảm 4,8% (- 0,2 nghìn tấn).
Cây rau, đậu:Diện tích cây rau, đậu vụ mùa năm nay đạt 2,4 nghìn ha, tăng 2,2%, trong đó cây rau đạt 2,1 nghìn ha, tăng 1,0%, cây đậu đạt 0,3 nghìn ha, tăng 13,5%; sản lượng rau ước đạt 37,9 nghìn tấn, tăng 1,4%; sản lượng đậu ước đạt 0,4 nghìn tấn, tăng 14,7%...
Tình hình sâu bệnh:Đến ngày 21/9/2022, toàn tỉnh hiện có 0,9 nghìn ha lúa cỏ với 0,3 nghìn ha bị nặng, cắt tỉa được 0,8 nghìn ha; 1,1 nghìn ha lúa bị sâu đục thân 2 chấm lứa 5, phòng trừ được 0,7 nghìn ha; 0,2 nghìn ha lúa bị bạc lá, đốm sọc vi khuẩn với 44 ha bị nặng;...
b) Kết quả 9 tháng đầu năm 2022
Cây hàng năm: Tính chung lại, diện tích gieo trồng cây hàng năm đến nay đạt 92,6 nghìn ha, giảm 1,4% (- 1,3 nghìn ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cây lúa diện tích gieo cấy đạt 71,2 nghìn ha, giảm 0,7% (- 0,5 nghìn ha); cây ngô đạt 4,3 nghìn ha, giảm 11,4% (- 0,6 nghìn ha); cây rau các loại diện tích đạt 9,4 nghìn ha, giảm 0,2% (- 0,02 nghìn ha)...
Sản lượng cây trồng: Trong 9 tháng đầu năm, sản lượng lúa ước đạt 268,8 nghìn tấn, giảm 0,9% (- 2,6 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước; trong đó, sản lượng lúa vụ Đông Xuân đạt 264,5 nghìn tấn, sản lượng lúa tái sinh ước đạt 4,3 nghìn tấn; sản lượng ngô đạt 11,5 nghìn tấn, giảm 12,8% (- 1,7 nghìn tấn); sản lượng rau các loại ước đạt 164,2 nghìn tấn, tăng 2,8% (+ 0,2 nghìn tấn)...
Cây lâu năm:Diện tích cây lâu năm hiện có đến thời điểm báo cáo ước đạt 7,6 nghìn ha, tăng 1,1% (+ 0,08 nghìn ha) so với cùng thời điểm năm trước, trong đó diện tích cây ăn quả ước đạt 6,9 nghìn ha, tăng 1,2%. Các loại cây ăn quả có diện tích tăng so với cùng kỳ năm trước là cây dứa 3,4 nghìn ha, tăng 2,0%; cây na 0,5 nghìn ha, tăng 1,8%;...
Trong 9 tháng đầu năm 2022, sản lượng cây ăn quả ước đạt96,8 ngàn tấn, tăng 2,1% (+ 2,0 nghìn tấn); trong đó sản lượng dứa ước đạt 50,9 nghìn tấn, tăng 2,3% (+1,1 nghìn tấn)chiếm 52,6% tổng sản lượng cây ăn quả của tỉnh; sản lượng chuối đạt 17,9 nghìn tấn, tăng 1,5% (+ 0,3 nghìn tấn); sản lượng na ước đạt 3,6 nghìn tấn, tăng 3,4% (+0,1 nghìn tấn)...
1.1.2. Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua vẫn gặp một số khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm và giá thức ăn chăn nuôi tăng cao. Tuy vậy, các cơ sở chăn nuôi vẫn tập trung tái đàn để cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Tại thời điểm báo cáo, tổng đàn trâu, bò ước đạt trên 49,5 nghìn con, tăng 0,7% (+ 0,4 nghìn con) so với cùng thời điểm năm trước, trong đó: đàn trâu tăng 0,8% (+ 0,1 nghìn con); đàn bò tăng 0,7% (+ 0,3 nghìn con); đàn lợn ước đạt 274,4 nghìn con, tăng 0,4% (+ 1,2 nghìn con); đàn gia cầm ước đạt 6,2 triệu con, tăng 4,2% (+ 0,3 triệu con), trong đó, đàn gà ước đạt 4,2 triệu con, tăng 2,4% (+ 0,1 triệu con).
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng: ước tính quý III năm 2022, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 14,9 nghìn tấn, tăng 1,5% (+ 0,2 nghìn tấn) so với cùng quý năm trước. Tính chung lại, trong 9 tháng đầu năm, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 46,6 nghìn tấn, tăng 8,4% (+3,6 nghìn tấn), trong đó: đàn trâu, bò ước đạt 2,8 nghìn tấn, tăng 2,1% (+0,06 nghìn tấn); đàn lợn ước đạt 31,5 nghìn tấn, tăng 10,1% (+ 2,9 nghìn tấn); đàn gia cầm ước đạt 11,0 nghìn tấn, tăng 6,1% (+ 0,6 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước...
Sản lượng trứng gia cầm ước tính quý III năm 2022 đạt 42 triệu quả, tăng 7,7% (+ 3,0 triệu quả); 9 tháng đầu năm ước đạt 125 triệu quả, tăng 8,7% (+ 10,0 triệu quả) so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình dịch bệnh: Trong 9 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh xuất hiện 05 ổ dịch cúm gia cầm ở xã Yên Lộc huyện Kim Sơn;xã Khánh Nhạc, xã Khánh Mậu huyện Yên Khánh; thị trấn Me huyện Gia Viễn và xã Đức Long huyện Nho Quan. Chi cục Chăn nuôi và Thú y đã thông báo cho các địa phương chỉ đạo, hướng dẫn tiêu hủy triệt để toàn bộ với tổng số gia cầm bị tiêu hủy bắt buộc là 12.577 con; tiến hành tiêm phòng bao vây, rắc vôi bột vệ sinh khử trùng tiêu độc toàn bộ khu vực chuồng nuôi. Đến nay các ổ dịch đã được bao vây khống chế, trên địa bàn tỉnh không xuất hiện ổ dịch mới.
Dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt trong những tháng đầu năm 2022, từ cuối tháng Tư dịch bệnh diễn biến phức tạp, tái phát trở lại ở cả 8 huyện, thành phố. Chỉ trong quý II/2022 số lợn mắc bệnh phải tiêu hủy trên địa bàn tỉnh đã lên đến 10.975 con. Trước tình hình đó, Chi cục Chăn nuôi và Thú y phối hợp với các địa phương tập trung kiểm soát chặt chẽ công tác kiểm dịch phúc kiểm con giống xuất, nhập ra vào địa bàn tỉnh; hướng dẫn các cơ sở chăn nuôi thực hiện các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh... Sang quý III/2022, dịch tả lợn châu Phi có xu hướng giảm và đến ngày 21/9/2022 dịch tả lợn Châu Phi đã được khống chế hoàn toàn, không còn ổ dịch nào trên địa bàn tỉnh. Số lượng lợn tiêu hủy tính từ ngày 01/01/2022 đến hết ngày 21/9/2022 trên địa bàn toàn tỉnh là 13.892 con với trọng lượng tiêu hủy trên 635,9 tấn.
1.2. Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp trong kỳ tập trung chủ yếuvào công tác trồng rừng,trồng cây phân tán, chăm sóc, bảo vệ và duy trì các biện pháp phòng chống cháy rừng.
Trong tháng, thời tiết thuận lợi, các hộ tiếp tục trồng rừng vụ thu đông, diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 9 ước đạt 39 ha, giảm 9,9% (- 4,3 ha) so với cùng tháng năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,1 nghìn m3, giảm 9,1% (- 0,2 nghìn m3); sản lượng củi ước đạt 2,3 nghìn ste, giảm 15,7% (- 0,4nghìn ste); số cây trồng phân tán ước đạt 47,8 nghìn cây, tăng 2,2% (+ 1,0 nghìn cây).
Tính chung lại, 9 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 139 ha, giảm 26,3% (- 49,6 ha) so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 17,4 nghìn m3, giảm 10,0% (- 1,9 nghìn m3); sản lượng củi khai thác ước đạt 19,7 nghìn ste, giảm 14,6% (- 3,4 nghìn ste); số cây trồng phân tán ước đạt 537,6 nghìn cây, tăng 7,1% (+ 35,6 nghìn cây).
Trong 9 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy rừng vào cuối tháng Tư tạikhu vực núi Thung Xoan, thôn Hang Nước, xã Quang Sơn, thành phố Tam Điệp với diện tích khoảng 0,061 ha, trong đó: diện tích núi đá không có cây thảm thực vật là 0,024 ha; diện tích rừng núi đá bị thiệt hại là 0,037 ha.
1.3. Thủy sản
Sản xuất thủy sản 9 tháng đầu năm 2022 phát triển trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, các đối tượng nuôi sinh trưởng và phát triển tốt, không có dịch bệnh xảy ra. Hình thức nuôi thâm canh, bán thâm canh được duy trì ổn định tại các vùng nuôi tập trung, nhiều hộ đã ứng dụng công nghệ vi sinh để quản lý môi trường ao nuôi, nhằm nâng cao năng suất và thu nhập cho người nuôi. Sản lượng thuỷ sản đảm bảo cung cấp kịp thời cho nhu cầu của thị trường tăng cao do các hoạt động ngành dịch vụ ăn uống phục hồi nhanh sau ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Sản xuất giống thủy sản: ngoài các đối tượng sản xuất chính là ngao, hàu và cua xanh, người dân đưa vào sản xuất thử nghiệm một số đối tượng mới như sò huyết bước đầu đem lại hiệu quả. Ngoài việc cung cấp giống cho các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng nuôi thương phẩm, các trại còn xuất bán ổn định cho các tỉnh Miền trung để ương nuôi làm thức ăn cho tôm hùm.
Sản lượng thủy sản tháng Chín ước đạt 6,1 nghìn tấn, tăng 6,5% (+ 0,4 nghìn tấn) so với cùng tháng năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng ước đạt 5,5 nghìn tấn, tăng 6,9%, sản lượng khai thác ước đạt 0,6 nghìn tấn, tăng 2,4%.
Sản lượng thuỷ sản 9 tháng đầu năm ước đạt 49,7 nghìn tấn, tăng 5,3% (+ 2,5 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: sản lượng nuôi trồng đạt 44,7 nghìn tấn, tăng 6,3% (+ 2,6 nghìn tấn); sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 5,0 nghìn tấn, giảm 2,8% (- 0,1 nghìn tấn). Sản lượng cá ước đạt 26,4 nghìn tấn, tăng 2,7% (+ 0,7 nghìn tấn); sản lượng tôm ước đạt 3,1 nghìn tấn, tăng 12,0% (+ 0,3 nghìn tấn); sản lượng thuỷ sản khác ước đạt 20,2 nghìn tấn, tăng 8,0% (+ 1,5 nghìn tấn).
2. Sản xuất công nghiệp
Tình hình dịch Covid - 19 những tháng đầu năm 2022 đãảnh hưởng trực tiếp đến hoạtđộngcông nghiệp trên cả nước nói chung và Ninh Bình nói riêng;bên cạnh đó, xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na tác động tiêu cực đến nhiều hoạt động sản xuất, làm tăng chi phí sản xuất ở các ngành, lĩnh vực. Do vậy, sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm vẫn duy trì mức tăng so với cùng kỳ, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng không cao.
Chỉ số công nghiệp (IIP)toàn tỉnh thángChínnăm nay ước tính tăng 6,60% so với cùng tháng năm 2021, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 42,85%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,52%, ngành công nghiệp sảnxuất phân phối điện tăng 3,63%, ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 4,19%.
Tính chung lại9tháng đầu năm 2022 chỉ số phát triển công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tăng 3,02%, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 1,32%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,69%; ngành công nghiệp sản xuất, phânphối điện giảm 13,4%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,29%.
Tính theo giá so sánh 2010: Giá trị sản xuất công nghiệp thángChíntoàn tỉnh ước đạt 8.236,2 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: công nghiệp khai khoáng đạt 55,6 tỷ đồng, tăng 25,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 8.073,3 tỷ đồng, tăng 10,0%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện đạt 81,3 tỷ đồng, tăng 6,3%; công nghiệp sản xuất nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải đạt 26,0 tỷ đồng, tăng 6,1%.
Tính chung lại, tổng giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm 2022 toàn tỉnh đạt 72.353,3 tỷ đồng, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: công nghiệp khai khoáng đạt 427,9 tỷ đồng, giảm 2,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 70.955,1 tỷ đồng, tăng 6,3%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện đạt 750,4 tỷ đồng, giảm 6,6%; công nghiệp cung cấp nước và xử lý rác thải đạt 219,9 tỷ đồng, tăng 3,2%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu:Trong tháng Chín năm 2022 một số sản phẩm công nghiệp tăng khá so với cùng tháng năm trước là: đá các loại 0,4 triệu m3, tăng 43,1%; ngô đóng hộp 154,0 tấn, tăng 91,3%; nước dứa tươi 140,0 nghìn lít, tăng 7,7%; thức ăn cho gia súc 3,8 nghìn tấn, gấp 2,6 lần; nước khoáng không có ga 0,5 triệu lít, tăng 46,2%; giày, dép các loại 4,6 triệu đôi, tăng 19,6%; găng tay 0,4 triệu đôi, tăng 3,9%; xi măng 0,5 triệu tấn, tăng 26,7%; tai nghe điện thoại di động 1,0 triệu cái, gấp 2,5 lần; xe ô tô chở hàng 0,7 nghìn chiếc, tăng 20,0%; cần gạt nước ô tô 1,1 triệu cái, tăng 6,5%; đồ chơi hình con vật 3,1 triệu con, tăng 56,9%; điện thương phẩm 0,2 tỷ Kwh, tăng 6,8%; nước máy thương phẩm 2,4 triệu m3, tăng 3,3%;... Bên cạnh đó, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: dứa đóng hộp 0,4 nghìn tấn, giảm 53,8%; phân Ure 44,9 nghìn tấn, giảm 10,9%; phân NPK 7,0 nghìn tấn, giảm 16,7%; phân lân nung chảy 4,0 nghìn tấn, giảm 68,3%; kính nổi 31,6 nghìn tấn, giảm 7,6%; clanke 80,0 nghìn tấn, giảm 73,7%; linh kiện điện tử 8,0 triệu cái, giảm 33,9%; kính máy ảnh 130,0 nghìn cái, giảm 32,6%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 4,6 nghìn chiếc, giảm 15,9%;...
Tính chung lại, 9 tháng đầu năm 2022 các sản phẩm công nghiệp có mức tăng khá so với cùng kỳ năm 2021 là: dứa đóng hộp 9,2 nghìn tấn, tăng 29,1%; nước dứa tươi 3,4 triệu lít, tăng 63,1%; thức ăn cho gia súc 21,4 nghìn tấn, tăng 25,6%; quần, áo các loại 77,7 triệu cái, tăng 18,5%; giày, dép các loại 38,4 triệu đôi, tăng 10,8%; phân lân nung chảy 109,7 nghìn tấn, tăng 4,5%; modul camera 250,8 triệu cái, tăng 34,0%; xe ô tô chở hàng 8,0 nghìn cái, tăng 41,6%; đồ chơi hình con vật 16,7 triệu con, tăng 40,6%;...
Tuy nhiên, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút là: đá các loại 2,7 triệu m3, giảm 0,8%; ngô ngọt đóng hộp 1,8 nghìn tấn, giảm 10,3%; nước khoáng không có ga 3,2 triệu lít, giảm 4,8%; găng tay 3,6 triệu đôi, giảm 0,1%; phân Ure 0,3 triệu tấn, giảm 14,8%; phân NPK 66,4 nghìn tấn, giảm 29,7%; clanke 1,5 triệu tấn, giảm 33,9%; linh kiện điện tử 86,5 triệu cái, giảm 13,7%; tai nghe điện thoại di động 4,0 triệu cái, giảm 21,9%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 36,7 nghìn chiếc, giảm 25,0%; cần gạt nước ô tô 8,0 triệu cái, giảm 20,4%; điện sản xuất 390,1 triệu Kwh, giảm 22,8%; điện thương phẩm 1,9 tỷ Kwh, giảm 0,4%;...
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng tháng năm trước như: sản xuất đồ uống tăng 26,0%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 56,13%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính vi tính và sản phẩm quang học gấp 2,3 lần; sản xuất thiết bị điện tăng 45,34%; ...
Khối lượng tồn kho một số sản phẩm đến 31/8/2022 là: giày, dép 1.157,5 nghìn đôi; đạm urê 30,2 nghìn tấn; phân NPK 37,2 nghìn tấn; phân lân nung chảy 20,8 nghìn tấn; kính xây dựng 107,4 nghìn tấn; xi măng 63,6 nghìn tấn;thanh, que sắt hoặc thép không hợp kim, được cán nóng 25,0 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 18,7 triệu chiếc; camera và linh kiện điện tử 15,5 triệu cái; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 291 chiếc;...
3. Vốn đầu tư và phát triển
Tổng vốn đầu tư phát triển thángChínnăm nay toàn tỉnh ước đạt 2.627,5 tỷ đồng, tăng 1,7% so với cùng tháng năm 2021. Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 481,4 tỷ đồng, tăng 14,8%; vốn ngoài Nhà nước đạt 1.899,5 tỷ đồng, giảm 4,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 246,6 tỷ đồng, tăng 35,0%.
Tính chung lại, tổng vốn đầu tư phát triển9tháng đầu năm 2022 toàn tỉnh ước đạt 22.411,2 tỷ đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước(đạt83,0%kế hoạch năm 2022). Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 3.908,9 tỷ đồng, tăng 13,1%; vốn ngoài Nhà nước đạt 15.697,6 tỷ đồng, tăng 1,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.804,7 tỷ đồng, gấp 2,2 lần.
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện trong9tháng đầu năm 2022 tập trung ở một số công trình, dự án như:
- Khu vực đầu tư công:Dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển qua tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 1) ước đạt 167,9 tỷ đồng; dự án cải tạo nâng cấp đường ĐT.477 đoạn từ ngã ba Gián Khẩu đến hết phạm vi khu 50 ha mở rộng KCN Gián Khẩu ước đạt 100,0 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường ĐT.482 kết nối quốc lộ 1A với quốc lộ 10 ước đạt 86,0 tỷ đồng; dự án nâng cấp tuyến đê hữu Hoàng Long và sông Đáy kết hợp giao thông đoạn từ Bái Đính đi Kim Sơn ước đạt 53,0 tỷ đồng; dự án xây dựng Công viên cây xanh, quảng trường, nhà văn hóa trung tâm huyện Nho Quan ước đạt 44,9 tỷ đồng; dự án xây dựng Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh Ninh Bình ước đạt 41,3 tỷ đồng; dự án xây dựng khu Trung tâm Thể dục Thể thao huyện Kim Sơn ước đạt 36,3 tỷ đồng;dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt 35,8 tỷ đồng; dự án xây dựng khu Trung tâm văn hóa Cộng đồng huyện Kim Sơn ước đạt 35,5 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng tuyến đường T21 (đường Lê Duẩn) ước đạt 26,0 tỷ đồng…
- Dự án sử dụng vốn ODA: Dự án sửa chữa nâng cao an toàn đập tỉnh Ninh Bình ước đạt 133,6 tỷ đồng;dự án đầu tư xây dựng Âu Kim Đài phục vụ ngăn mặn giữ ngọt và ứng phó với tác động nước biển dâng cho 06 huyện, thành phố khu vực phía Nam tỉnh Ninh Bình ước đạt 54,8 tỷ đồng; dự án tăng cường đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai tỉnh Ninh Bình ước đạt 4,8 tỷ đồng.
- Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước: Dự án xây dựng nhà máy nước sạch Hoàng Long và mạng lưới đường ống cung cấp nước của Công ty TNHH Đầu tư và Xây dựng Hoàng Dân ước đạt gần 232,8 tỷ đồng; dự án xây dựng đường cấp nước sạch dự phòng từ nhà máy nước Hoàng Long về Thành phố Ninh Bình của Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Ninh Bình ước đạt gần 226,2 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng của Công ty Cổ phần Dịch vụ và Hạ tầng ô tô Thành Công ước đạt 203,1 tỷ đồng; dự án sửa chữa lớn, nâng cấp hệ thống máy móc dây chuyền sản xuất xi măng của Công ty Cổ phần Vissai Ninh Bình ước đạt 151,7 tỷ đồng; dự án xây dựng khu trung tâm liên hợp du lịch và thể thao sân Golf hồ Yên Thắng của Công ty Cổ phần đầu tư PV- Inconess ước đạt 55,9 tỷ đồng; dự án xây dựng Chợ đầu mối Tổng hợp thành phố Ninh Bình ước đạt 53,7 tỷ đồng…
- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy HTMT số 2 phục vụ lắp ráp, sản xuất ô tô của Công ty Cổ phần Sản xuất ô tô Hyundai Thành Công Việt Nam ước đạt 1.379,2 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất, mua sắm tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera dule của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 485,2 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc phục vụ sản xuất giày củaCông tyTNHH giày Athena Việt Namước đạt 288,8 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy sản xuất đồ chơi trẻ em của Công ty TNHH Dream Plastic Kim Sơn ước đạt 199,1 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy sản xuất ghế ngồi ô tô của Công ty TNHH Deawon Auto Vin ước đạt 71,7 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Regis ước đạt 47,2 tỷ đồng …
-Dự án vốn Trái phiếu Chính phủ: Dự án thành phần đầu tư xây dựng Đoạn Cao Bồ-Mai Sơn thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc Nam phía đông giai đoạn 2017-2020 ước đạt 40,0 tỷ đồng.
Để hoàn thành mục tiêu kế hoạch vốn đầu tư năm 2022 của tỉnh Ninh Bình, trong những tháng còn lại của năm 2022, tất cả các đơn vị được giao quản lý và triển khai kế hoạch vốn đầu tư cần tập trung huy động mọi nguồn lực để nâng cao chất lượng hoạt động đầu tư.
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
Sau hai năm liền chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, đến nay tình hình dịch bệnh đã được kiểm soát tốt trên địa bàn tỉnh cũng như cả nước, hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch của tỉnh trong 9 tháng đầu năm 2022 đã từng bước phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước.
4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Nhu cầu mua sắm của người dân tăng cao sau đại dịch Covid-19 là nguyên nhân chính tác động làm doanh thu bán lẻ hàng hoá trên địa bàn tỉnh trong tháng Chín và 9 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng Chínước đạt gần3.419,4 tỷ đồng,tăng 70,2% so với tháng 9/2021. Trong đó, một số nhóm hàng có tổng mức bán lẻ tăng cao như: hàng may mặc 270,8 tỷ đồng, gấp gần 2,7 lần; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 374,7 tỷ đồng, tăng 91,9%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 47,2 tỷ đồng, tăng 89,9%; gỗ và vật liệu xây dựng 693,7 tỷ đồng, tăng 98,9%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con, kể cả phụ tùng) 107,9 tỷ đồng, tăng 91,3%; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) 35,2 tỷ đồng, gấp 2,0 lần; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 31,6 tỷ đồng, gấp 2,7 lần; hàng hóa khác 73,1 tỷ đồng, gấp 2,4 lần;doanh thu sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 96,1 tỷ đồng, gấp 2,1 lần.
Tính chung, trong 9 tháng năm 2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh ước thực hiện trên 27.582,9 tỷ đồng, tăng 66,8% so với 9 tháng năm 2021. Tất cả các nhóm hàng đều đạt mức tăng cao, cụ thể: lương thực, thực phẩm ước đạt 8.178,2 tỷ đồng, tăng 46,5%; hàng may mặc 2.093,7 tỷ đồng, gấp gần 2,5 lần; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 2.957,1 tỷ đồng, tăng 81,7%; vật phẩm văn hoá, giáo dục 353,3 tỷ đồng, gấp 2,7 lần; gỗ và vật liệu xây dựng 5.662,4 tỷ đồng, tăng 99,3%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 2.556,0 tỷ đồng, tăng 24,7%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con, kể cả phụ tùng) 896,2 tỷ đồng, gấp 2,4 lần; xăng, dầu các loại 3.057,2 tỷ đồng, tăng 49,8%; nhiên liệu khác 283,5 tỷ đồng, tăng 96,8%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 252,3 tỷ đồng, gấp 2,4 lần; hàng hoá khác 545,2 tỷ đồng, gấp 2,0 lần; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 747,8 tỷ đồng, tăng 88,1%.
Du lịch phát triển mạnh mẽ, lượng khách du lịch đến với Ninh Bình tăng vọt kéo theo doanh thu ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành tăng cao. Trong tháng Chín, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống toàn tỉnh ước đạt trên 506,6 tỷ đồng, gấp 2,8 lần so với cùng kỳ, doanh thu du lịch lữ hành 0,6 tỷ đồng (trong khi tháng 9/2021 các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ du lịch lữ hành tạm ngừng hoạt động). Tính chung 9 tháng, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt trên 3.323,5 tỷ đồng, tăng 94,4%; doanh thu du lịch lữ hành gần 2,6 tỷ đồng, gấp 2,7 lần.
Doanh thu một số ngành dịch vụ khác trong tháng Chín ước thực hiện 410,1 tỷ đồng, tăng 63,1% so với tháng 9/2021 và 9 tháng ước thực hiện 2.733,8 tỷ đồng, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm trước.
4.2. Chỉ số giá
Giá thịt lợn, giá gạo, giá xăng, dầu giảm và nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt giảm là những nguyên nhân chủ yếu làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2022giảm 0,47% so với tháng trước. So với tháng 12/2021, CPI tháng Chíntăng 5,44% và so với cùng kỳ năm trước tăng 4,95%. Bình quân 9 tháng năm 2022 CPI tăng 3,0% so với 9 tháng năm 2021,riêng quý III tăng 4,83%.
Trước áp lực lạm phát thời điểm cuối năm, Chính phủ cũng như các địa phương đã có những chính sách điều hành giá linh hoạt nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường hàng hoá, giá cả. Sau bốn tháng tăng liên tiếp kể từ tháng Năm, CPI tháng này ghi nhận mức giảm 0,47% so với tháng trước. Trong đó có 03 nhóm có chỉ số giá giảm, 03 nhóm có chỉ số giá tăng và 05 nhóm giữ chỉ số ổn định. Ba nhóm có chỉ số giá giảm gồm: nhóm giao thông giảm sâu nhất với 1,4% do giá nhóm nhiên liệu giảm 3,69% khi giá xăng liên tiếp được điều chỉnh giảm trong tháng (giá xăng đã giảm 3,82% so với tháng trước); nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,78%, trong đó: nhóm lương thực giảm 2,28% chủ yếu do giá gạo trong tháng giảm 3,72%; nhóm thực phẩm giảm 0,83%nguyên nhân chủ yếu là do giá thức ăn chăn nuôi sau 8 tháng đầu năm 2022 liên tục tăng đến tháng 9 đã có dấu hiệu chững lại bên cạnh đódịch tả lợn châu Phi cũng đã được kiểm soát tốt, tạo điều kiện cho các hộ chăn nuôi mở rộng quy mô, tập trung tái đàn nên giá các loại thịt gia súc, gia cầm và các sản phẩm liên quan đều giảm, cụ thể: nhóm thịt gia súc giảm 2,57% (giá thịt lợn giảm 3,16%, giá nội tạng động vật giảm 4,23%); nhóm thịt gia cầm giảm 3,73% (giá thịt gà giảm 2,84%; giá thịt gia cầm khác giảm 5,7%); nhóm thịt chế biến giảm 3,12%; nhóm dầu mỡ ăn và chất béo khác giảm 4,62%; nhóm ăn uống ngoài gia đình vẫn giữ nguyên; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,57% chủ yếu do trong thángthời tiết bắt đầu vào thu, nhu cầu sử dụng các thiết bị điện làm mát cho sinh hoạt của người dân giảmdẫn đến giá điện sinh hoạt bình quân trong tháng đã giảm 1,56%. Ba nhóm có chỉ số giá tăng là: nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,35%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,1% và nhóm văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,08%. Năm nhóm còn lại giữ chỉ số ổn định: nhóm may mặc, mũ nón và giày dép, nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình, nhóm thuốc và dịch vụ y tế, nhóm bưu chính viễn thông và nhóm giáo dục.
CPI bình quân 9 tháng năm 2022 tăng 3,0% so với cùng kỳ năm trước. Có đến 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, gồm: nhóm giao thông tăng mạnh nhất với mức tăng 14,27%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 5,26%; nhóm giáo dục tăng 2,16%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,97% (lương thực tăng 2,5%; thực phẩm tăng 1,88%; ăn uống ngoài gia đình tăng 1,96%); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,47%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,42%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,79%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,65%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,42%. Hai nhóm còn lại có chỉ số giá giảm: nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,94%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,27%.
CPI bình quân 9 tháng năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
i) Do ảnh hưởng của cuộc xung đột chính trị giữa Nga và Ucraina, nguồn cung nhiên liệu và chất đốt của thế giới trong những tháng đầu năm giảm mạnh dẫn đến giá xăng, dầu, giá gas, giá dầu hỏa trong nước buộc phải điều chỉnh tăng theo đà tăng giá của thế giới: giá xăng tăng 40,61%; giá dầu diezel tăng 61,26% đẩy giá nhiên liệu tăng 39,68%; giá gas tăng 14,69%; giá dầu hỏa tăng 68,01%.
ii) Giá vật liệu ngành xây dựng như: xi măng, sắt, thép tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào dẫn đến giá nhà ở cho thuê tăng 7,56%, giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 4,75%.
iii)Giá nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng khá cao 23,32% khi một số loại rau tươi nguồn cung giảm nên giá tăng cao: bắp cải tăng 55,88%; su hào tăng 57,73%; cà chua tăng 69,6%; rau muống tăng 31,5%; rau dạng quả, củ tăng 14,71%; rau tươi khác tăng 32,25%...
Bên cạnh đó, có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI 9 tháng năm 2022 là:
i) Giá thịt gia súc giảm 12,94%, thịt chế biến giảm 6,16% do dịch tả lợn Châu Phi được kiểm soát tốt, các địa phương tiếp tục thực hiện việc tái đàn lợn nên nguồn cung thịt lợn hơi trên địa bàn tỉnh tăng so với cùng kỳ làm cho giá thịt lợn hơi giảm 16,72%, nội tạng động vật giảm 14,07%.
ii) Giá gạo giảm 3,87% do xuất khẩu gạo gặp khó khăn.
Chỉ số giá vàng và chỉ số giá Đô la Mỹ:Chỉ số giá vàng tháng này giảm 2,07% so với tháng trước, giảm 3,8% với tháng 12/2021 và giảm 1,7% so với cùng tháng năm trước. Chỉ số giá bán lẻ đô la Mỹ tăng 0,49% so với tháng 8/2022, tăng 2,61% so với tháng 12 năm trước và tăng 3,46% so với tháng 9/2021. Bình quân 9 tháng, chỉ số giá vàng tăng 0,33%, chỉ số giá Đô la Mỹ tăng 2,55% so với cùng kỳ năm 2021. Bình quân quý III năm 2022 so với cùng kỳ năm trước, chỉ số giá vàng giảm 2,2%; chỉ số giá đô la Mỹ tăng 4,56%.
4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu:Giá trị xuất khẩu tháng Chín năm 2022 đạt 338,7 triệu USD, tăng 16,7% so với tháng Chín năm 2021. Tính chung lại, tổng giá trị xuất khẩu 9 tháng năm nay ước đạt 2.499,4 triệu USD, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước, đạt 89,3% so với kế hoạch năm. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: quần áo các loại đạt 339,3 triệu USD; xi măng, clanke đạt 419,4 triệu USD; giầy dép các loại đạt 676,9 triệu USD; camera và linh kiện 693,0 triệu USD; linh kiện điện tử 69,1 triệu USD; phôi nhôm 47,9 triệu USD…
Trong 9 tháng năm nay, một số mặt hàng xuất khẩu đạt khá so với cùng kỳ năm trước như: dứa, dưa chuột đóng hộp 13,1 nghìn tấn, tăng73,3%; nước dứa cô đặc 1,9 nghìn tấn, tăng 98,4%; quần áo các loại 70,8triệu chiếc, tăng 40,6%;thảm cói 104,6 nghìn m2, gấp 8,4 lần; giày dép các loại 61,4 triệu đôi, tăng 39,1%; camera và linh kiện 253,5 triệu sản phẩm, tăng 30,8%; phôi nhôm 15,0 nghìn tấn, tăng 74,6%... Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức giảm sút so với cùng kỳ như: xi măng, clanke 9,5 triệu tấn, giảm18,1%; kính quang học897,7nghìn chiếc, giảm33,2%; phân ure38,8 nghìntấn, giảm38,0%; sản phẩm cói khác 1,4 triệu sản phẩm, giảm8,1%.
Nhập khẩu:Giá trị nhập khẩu tháng Chín ước đạt 306,9 triệu USD, tăng 3,6% so với cùng tháng năm trước.Tổng giá trị nhập khẩu 9 tháng năm nay ước đạt 2.548,9 triệu USD, tăng 12,1% so với 9 tháng năm 2021,đạt 82,2% so với Kế hoạch. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: linh kiện điện tử 771,4 triệu USD; linh kiện, phụ tùng ô tô các loại 802,2 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày dép 438,2 triệu USD; vải và phụ liệu may mặc 121,8 triệu USD; ô tô 134,9 triệu USD.
4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Hoạt động vận tải, kho bãi tháng Chín và Chín tháng năm 2022 có bước phục hồi tích cực, khi cả nước nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng mở cửa hoàn toàn, vận chuyển hàng hoá, hành khách tăng cao sau thời gian bị hạn chế bởi dịch Covid-19.
Vận tải hành khách:Hoạt động vận tải hành khách trong tháng Chín đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng, khối lượng vận chuyển hành khách ước thực hiện gần 2,9 triệu lượt khách, gấp gần 3,1 lần và khối lượng luân chuyển ước đạt 134,6 triệu lượt khách.km, gấp 2,5 lần so với cùng tháng năm trước. Nguyên nhân là do trong tháng Chín có 4 ngày nghỉ lễ nên nhu cầu đi lại, du lịch của người dân tăng cao trong khi đó tháng 9/2021 người dân bị hạn chế đi lại do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Tính chung 9 thángnăm2022, khối lượng hành khách vận chuyển ước thực hiện trên 19,6 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 51,6% so với 9 tháng 2021. Trong đó, chủ yếu là vận tải đường bộ ước đạt 16,8 triệu lượt khách, tăng 40,5%; vận tải đường thủy 2,8 triệu lượt khách, gấp gần 2,9 lần. Khối lượng luân chuyển hành khách ước thực hiện trên 970,8 triệu lượt khách.km, tăng 39,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vận tải đường bộ ước đạt 960,0 triệu lượt khách.km, tăng 38,6%; vận tải đường thủy 10,8 triệu lượt khách.km, gấp 2,8 lần.
Vận tải hàng hóa:Tháng Chín ước thực hiện trên 7,1 triệu tấn vận chuyển, tăng 64,9% so với cùng kỳ và luân chuyển 871,3 triệu tấn.km, tăng 48,0%. Ước tính 9 tháng năm 2022, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt gần 49,5 triệu tấn, tăng 31,4% và luân chuyển 6.423,8 triệu tấn.km, tăng 26,6% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải đường bộ ước thực hiện 24,4 triệu tấn, tăng 28,5% và 1.175,9 triệu tấn.km, tăng 20,7%; vận tải đường thủy nội địa 23,8 triệu tấn, tăng 35,9% và 4.554,8 triệu tấn.km, tăng 31,4%; vận tải đường biển 1,3 triệu tấn, tăng 11,7% và 693,1 triệu tấn.km, tăng 10,0%.
Doanh thu vận tải:Doanh thu vận tải toàn tỉnh tháng Chín ước thực hiện gần 903,0 tỷ đồng, tăng 85,6%. Ước tính trong 9 tháng đầu năm, doanh thu hoạt động vận tải ước đạt gần 6.320,9 tỷ đồng, tăng 37,5% so với cùng kỳ năm 2021. Phân theo loại hình vận tải: vận tải hành khách ước đạt 924,7 tỷ đồng, tăng 56,8%; vận tải hàng hóa 5.200,0 tỷ đồng, tăng 33,7%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải 191,2 tỷ đồng, tăng 65,9%; doanh thu bưu chính, chuyển phát 5,0 tỷ đồng, tăng 20,1%.
4.5. Hoạt động du lịch
Ước tính số lượng khách đến các điểm thăm quan, du lịch trên địa bàn toàn tỉnh trong tháng Chín đạt 310,6 nghìn lượt, cùng tháng năm trước không có khách du lịch do các điểm thăm quan, du lịch trên địa bàn tỉnhđang tạm dừng đón khách để phòng chống dịch Covid-19. Số lượt khách đến các cơ sở lưu trú đạt 94,9 nghìn lượt khách, gấp 31,2 lần; số ngày khách lưu trú ước đạt 123,8 nghìn ngày khách, gấp 31,1 lần. Doanh thu du lịch trong tháng ước đạt 253,3 tỷ đồng, gấp 46,6 lần so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung lại, tổng số lượng khách đến các điểm thăm quan, du lịch trên địa bàn toàn tỉnh 9 tháng năm nay đạt 2.779,4 nghìn lượt, gấp 3,0 lần so với 9 tháng năm 2021, vượt 11,2% so với kế hoạch. Chia ra: khách trong nước đạt 2.743,6 nghìn lượt, gấp 3,0 lần; khách quốc tế 35,8 nghìn lượt khách, gấp 2,7 lần. Số lượt khách đến các cơ sở lưu trú đạt 618,5 nghìn lượt khách, gấp 3,4 lần; số ngày khách lưu trú ước đạt 810,7 nghìn ngày khách, gấp 3,3 lần.
Doanh thu du lịch trong 9 tháng đầu năm nay ước thực hiện 1.952,0 tỷ đồng, gấp 3,2 lần so với cùng kỳ năm trước, vượt 10,6% so với kế hoạch. Trong đó: doanh thu lưu trú ước thực hiện 431,0 tỷ đồng, gấp 3,2 lần; doanh thu nhà hàng 739,7 tỷ đồng, gấp 3,4 lần.
5. Một số vấn đề xã hội
Trong 9 tháng năm 2022, tình hình đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid -19 và dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, thêm vào đó giá xăng, dầu tăng cao cũng ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh và nhu cầu đi lại. Tuy nhiên, với sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát với thực tiễn của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, các ngành, các địa phương cũng đã chủ động, tập trung thực hiện các giải pháp, chương trình, đề án chính sách về lao động, giải quyết việc làm, trợ giúp xã hội, giảm nghèo..., nhất là các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, người lao động gặp khó khăn do ảnhhưởng của dịch Covid - 19, do đó đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh vẫn giữ ổn định.
5.1. Lao động và việc làm
Trong9tháng năm 2022, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho14,7 nghìn lao động, trong đó xuất khẩu lao động trên 1,1 nghìn trường hợp; tổ chức đào tạo nghề cho12,3 nghìn lao động, trong đó lao động đào tạo dài hạn là 3,8nghìn người, đào tạo ngắn hạn 8,5nghìn người; tư vấn, giới thiệu việc làm cho25,0 nghìn lao động; giải quyết chotrên3.539lao động được hưởng bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ 6.600 lao động vay vốn giải quyết việc làm.
Thực hiện Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 01/7/2021; Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, ngày 07/7/2021; Nghị quyết 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 và Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về các chínhhỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăndo đại dịch Covid-19. Tính đến ngày 13/9/2022 toàn tỉnh đã hỗ trợ cho 29.924 đối tượng, với số tiền là 43.308 triệu đồng, trong đó: hộ kinh doanh cá thể 224 đối tượng, với số tiền là 672 triệu đồng; lao động tự do 8.434 đối tượng, với số tiền là 12.651 triệu đồng; người lao động phải hoãn hợp đồng lao động, ngừng việc, nghỉ việc không hưởng lương là 5.750 đối tượng, với số tiền là 11.237 triệu đồng; hướng dẫn viên du lịch là 106 đối tượng, với số tiền là 393,3 triệu đồng; người điều trị Covid-19 và người cách ly y tế 15.410 đối tượng, với số tiền 18.335 triệu đồng. Hỗ trợ 05 đơn vị sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất với số tiền gần 1.925,0 triệu đồng; giảm mức đóng quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho 107,5 nghìn lao động thuộc 2.747 đơn vị, với tổng số tiền 29.560 triệu đồng.
5.2.Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
Công tác an sinh xã hội, giảm nghèo luôn được quan tâm thực hiện, trong 9 tháng đã thực hiện hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho gần 540,8 nghìn đối tượng là hộ nghèo, cận nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em dưới 6 tuổi, học sinh, sinh viên và hộ nông lâm ngư có mức sống trung bình; giải quyết cho 4.250 lượt đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo được vay vốnưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội để phát triển sản xuất, với tổng kinh phí là 260,0 tỷ đồng; giải quyết cho 9.500 hộ được vay vốn xây dựng nước sạch và vệ sinh môi trường với tổng kinh phí 192,0 tỷ đồng; 115 hộ được vay vốn nhà ở xã hội với tổng kinh phí 46 tỷ đồng; 1.800 lượt học sinh, sinh viên được vay vốn với tổng kinh phí 30 tỷ đồng.
Công tác bảo trợ xã hội và đền ơn đáp nghĩa cũng được thường xuyên quan tâm với tinh thần tương thân, tương ái, động viên kịp thời về vật chất và tinh thần, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn ổn định cuộc sống, nhất là trong những dịp Lễ, Tết.Trong 9 tháng năm 2022, các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư đã quan tâm động viên thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các đối tượng bảo trợ xã hội...với tổng số kinh phí 97.984,3 triệu đồng, tặng cho 282.197 đối tượng. Trong đó: 198.437 lượt đối tượng là gia đình chính sách, người có công với cách mạng, với tổng kinh phí 60.151 triệu đồng; 24.402 lượt đối tượng là người cao tuổi, với tổng kinh phí 8.537,1 triệu đồng; 51.080 lượt đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ khó khăn, với tổng kinh phí 22.945,4 triệu đồng; 897 đối tượng là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, với tổng kinh phí 487,2 triệu đồng; 1.434 đối tượng bảo trợ xã hội, với tổng kinh phí 599 triệu đồng.
5.3. Giáo dục, đào tạo
Trong 9 tháng năm 2022, ngành Giáo dục Ninh Bình đã khắc phục được khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, tích cực triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác với tinh thần chủ động, linh hoạt, thích ứng để hoàn thành chương trình năm học 2021-2022 đúng kế hoạch, chất lượng đào tạo đảm bảo ổn định và nâng cao hơn. Kết quả cụ thể:
Kết quả kỳ thi THPT năm 2022: tỉnh Ninh Bình tiếp tục khẳng định chất lượng giáo dục, đào tạo ổn định, vững chắc.Tỷ lệ tốt nghiệp đạt 99,49% (khối
trường THPT đạt 99,71%, khối GDTX đạt 97,85%); điểm trung bình các môn thi đạt 6,98 điểm, cao thứ Hai so với toàn quốc. Có 471 thí sinh đạt từ 27 điểm trở lên; 65 thí sinh đạt từ 28 điểm trở lên; và 07 thí sinh đạt từ 29 điểm trở lên; toàn tỉnh có 169 điểm 10, có 01 thí sinh đạt thủ khoa điểm thi tốt nghiệp cả nước (thí sinh Phạm Văn Linh học sinh trường THPT Yên Khánh A, có tổng điểm các môn thi 56,85 điểm).
Kết quả thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia THPT năm học 2021- 2022: có 45/68 học sinh ở 10 đội tuyển dự thi đạt giải, chiếm tỷ lệ 66,2%, tăng 12 giải so với năm học trước; trong đó có 01 giải Nhất (môn Địa lý), 03 giải Nhì, 19 giải Ba, 22 giải Khuyến khích. Các đội Hóa học, Địa lý có 100% học sinh tham gia dự thi đạt giải.
Kết quả đoàn tuyển tham gia Hội thi học sinh giỏi các trường THPT chuyên Khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc bộ lần thứ XIII: đạt 39 huy chương gồm 07 Huy chương Vàng, 11 Huy chương Bạc, 21 Huy chương Đồng và 16 giải Khuyến khích (có 55/60 học sinh đoạt giải).
Kết quả tham dự các cuộc thi cấp quốc gia khác: tham dự Kỳ thi Olympic Toán học sinh viên và học sinh Việt Nam, có 8/10 học sinh đoạt giải, chiếm tỷ lệ 80%, trong đó có 01 giải Nhì và 7 giải Ba; tham dự cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia năm học 2021-2022 dành cho học sinh THPT, kết quả có 02 dự án đạt giải Ba; tham dự vòng Chung kết cuộc thi học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp năm 2021, kết quả: dự án “Thanh Bì Khang giải pháp đột phá từ thiên nhiên cho người viêm da cơ địa” của học sinh trường THPT Ninh Bình - Bạc Liêu đạt top 10;tham gia cuộc thi vẽ tranh Quốc tế Toyota chủ đề “Chiếc ô tô mơ ước” lần thứ 11, đạt 02 giải Nhì và 03 giải Khuyến khích; tham gia giải Điền kinh học sinh phổ thông toàn quốc năm 2022, kết quả: Đoạt 11 Huy chương, trong đó 7 Huy chương Vàng, 01 Huy chương Bạc và 03 Huy chương Đồng.
5.4. Y tế
Trước sự bùng phát mạnh của dịch Covid-19, ngành Y tế đãbám sát chỉ đạo của Trung ương và của tỉnh,chủ động triển khaicác biện pháp thích ứng linh hoạt, an toàn, kiểm soát hiệu quả tình hình diễn biến dịch Covid-19. Bên cạnh đó, tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khám chữa bệnh; bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm; phục vụ tốt công tác y tế cho Đại hội thể thao Đông Nam Á (SEA Games 31)…
Tính từ khi có dịchđến ngày 14/9/2022, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 104.895 trường hợp dương tính với SARS-CoV-2, đã điều trị khỏi và xuất viện 104.649 trường hợp, đang điều trị 110 trường hợp, chuyển Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương 30 trường hợp, tử vong 106 trường hợp; tổng số trường hợp được cách ly và giám sát là 328.001 trường hợp; trong đó: Cách ly tại cơ sở y tế là 28.118 trường hợp; cách ly y tế tại cơ sở cách ly tập trung là 29.141 người; cách ly y tế tại nhà và nơi lưu trú là 270.744 người; tổng số ca đã lấy mẫu xét nghiệm 610.860 người. Đã tiêm phòngcho đối tượng trên 18 tuổi tối thiểu 01 mũi: 664.997 người, tiêm đủ 2 mũi: 661.324 người, tiêm mũi 3: 620.735 người; tiêm mũi 4: 179.834 người; tiêm cho nhóm đối tượng từ 12 đến dưới 18 tuổi mũi 1: 86.398 người; tiêm đủ 02 mũi: 83.701 người; tiêm mũi 3: 61.801người; tiêm cho nhóm đối tượng từ 05 đến dưới 12 tuổi, mũi 1: 121.171 người; tiêm đủ 02 mũi: 81.169 người.
Trong 8 tháng năm 2022,toàn tỉnh xảy ra 03 vụ ngộ độc thực phẩm làm 31 người mắc và 68 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm; 111ca mắc chân tay miệng; 22 ca mắc thủy đậu;52ca sốt xuất huyết…Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã khám bệnh cho 718,2 nghìn lượt bệnh nhân, điều trị nội trú cho106,6nghìn lượt, khám phụkhoa33,9 nghìn lượt, khám thai32,7 nghìn lượt, đặt vòng1.678 ca, triệt sản 33 ca.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong8tháng đầu năm phát hiện mới40người nhiễm HIV, có14trường hợp tử vong do AIDS.
5.5. Văn hoá thông tin
Hoạt động Văn hóa - Thông tin diễn ra với nhiều nội dung và hình thức phong phú, thiết thực chào mừng kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước và những sự kiện trọng đại của tỉnh, như: Kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Đảng 03/02, chào mừng Xuân mới Nhâm Dần 2022; kỷ niệm 200 năm Danh xưng Ninh Bình và 30 năm tái lập tỉnh; chào mừng Lễ hội Hoa Lư năm 2022; chào mừng kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2022), Quốc tế lao động 1/5; kỷ niệm 132 năm ngày sinh nhật Bác; Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 (SEA Games 31); kỷ niệm 77 năm ngàyQuốc khánh đất nước (02/9/1945 - 02/9/2022)….
Lực lượng làm công tác thông tin tuyên tuyền và cổ động trực quan đã thực hiện kẻ vẽ, sửa chữa nâng cấp, thay nội dung và làm mới pano và khẩu hiệu tường; chăng treo băng rôn; làm mới và sửa chữa cổng chào... Ngoài ra còn tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về các quy định an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, tệ nạn xã hội, đặc biệt là tuyên truyền về thực hiện nghiêm các biện pháp phòng chống dịch Covid-19.
Nhà hát chèo đã thực hiện 231 buổi biểu diễn nghệ thuật và chương trình ca múa nhạc phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ nhân dân; Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng đã tổ chức 313 buổi chiếu phim lưu động phục vụ khán giả; Bảo tàng tỉnh đã đón tiếp và hướng dẫn 7.490 lượt khách tham quan; Thư viện tỉnh cấp, đổi mới 931 thẻ bạn đọc, luân chuyển gần 383,9 nghìn lượt sách báo, phục vụ 147,2 nghìn lượt người đọc.
5.6.Hoạt động thể dục, thể thao
Trong 9 tháng, tiếp tục duy trì đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên các tuyến tại Trung tâm huấn luyện thể dục thể thao bảo đảm công tác phòng chống dịch Covid-19. Bên cạnh đó, cử các đoàn vận động viên đi thi đấu các giải, đạt được 169 huy chương các loạigồm 62 huy chương Vàng, 35 huy chương Bạc và 72 huy chương Đồng. Trong đó, đáng chú ý là thành tích thi đấu của các vận động viên tham dự Sea Games 31 đạt 09 huy chương, gồm: 03 huy chương Vàng, 03 huy chương Bạc, 03 huy chương Đồng. Hiện các đoàn vận động viên tiếp tục tham gia thi đấu các giải như: giải vô địch trẻ và Thiếu niên Vật dân tộc quốc gia lần thứ XXIII năm 2022; giải vô địch trẻ Karate quốc gia lần thứ XXIII năm 2022; Giải Cầu lông các cây vợt thiếu niên, trẻ xuất sắc quốc gia năm 2022- tranh giải Donexpro,…
Đăng cai tổ chức thành công môn thi đấu Karate thuộc khuôn khổ Đại hội thể thao Đông Nam Á (SEA Games 31); tổ chức thành công giải Bóng chuyền Cúp Hoa Lư Bình Điền lần thứ XVI năm 2022.
Thể thao quần chúng: tổ chức thành công giải giao hữu Bóng đá chuyên nghiệp - Cúp Hoa Lư năm 2022; giải Cờ vua các trường mầm non thành phố Ninh Bình; giải Việt dã xã, phường, thị trấn tỉnh Ninh Bình lần thứ VI; giảiBóng chuyền hơi nữvà giải Việt dãtrong khuôn khổ Đại hội TDTT tỉnh lần thứ VII năm 2022;tiếp tục tổ chức thi đấu các môn Bơi, Cầu lông, Bóng bàn, Đá cầu, Quần vợt trong chương trình thi đấu Đại hội thể dục thể thao tỉnh Ninh Bình lần VII năm 2022;giải Cầu lông, Bóng bàn, Quần vợt cán bộ, công chức, viên chức thuộc Công đoàn viên chức khối Cơ quan tỉnh chào mừng kỷ niệm 30 năm tái lập tỉnh;giải Golf Leus Challenge 2022, giải chạy bộ “ Dấu ấn di sản Marathon 2022”, giải chạy “Cúc Phương Junglepaths năm 2022”…
5.7. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Lực lượng Công an tỉnh chủ động nắm, kiểm soát tốt tình hình, chỉ đạo giải quyết những vấn đề nổi lên liên quan đến an ninh trật tự (ANTT), không để xảy ra đột xuất, bất ngờ. Huy động tối đa lực lượng, phương tiện, triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ thực hiện quyết liệt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, bảo đảm ANTT trong những ngày lễ, tết, những sự kiện trọng đại của tỉnh như: Lễ hội Hoa Lư, Lễ kỷ niệm 200 năm Danh xưng Ninh Bình và 30 năm tái lập tỉnh; Đại hội thể thao Đông Nam Á (Seagames 31). Đồng thời, thực hiện tuyên truyền, giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ; tập huấn kỹ năng phòng cháy, chữa cháy; tiếp tục thực hiện kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về TTATGT; thực hiện kế hoạchtuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm theo chuyên đề….
Trong tháng (tính từ ngày 15/8/2022 đến 14/9/2022), trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm bị thương 05 người, không có người chết; xảy ra 75 vụ phạm pháp hình sự; phát hiện 29 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma túy với 29 đối tượng .
Tính chung lại, từ ngày 15/12/2021 đến ngày 14/9/2022 trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 73 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 01 vụ tai nạn giao thông đường sắt; làm chết 22 người và bị thương 67 người (giảm 18 vụ, giảm 04 người chết và giảm 09 người bị thương so với cùng kỳ năm 2021); xảy ra 229 vụ phạm pháp hình sự (giảm 38 vụ); phát hiện 258 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma túy với 304 đối tượng (tăng 21 vụ và giảm 38 đối tượng); xảy ra 05 vụ cháy, gây thiệt hại 670 triệu đồng, không có thương vong về người./.
Cục Thống kê tỉnh Ninh Bình