I. SẢN XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THUỶ SẢN
1. Nông nghiệp
Cây hàng năm
Sản xuất nông nghiệp trong tháng 11 năm 2022 chủ yếu thu hoạch các loại cây trồng vụ mùa như: lúa, ngô, đậu tương, lạc, khoai lang… Đồng thời làm đất, gieo trồng các loại rau màu vụ đông xuân năm 2022-2023. Nhìn chung, thời tiết trong tháng khô hanh thuận lợi cho việc thu hoạch, phơi khô và bảo quản sản phẩm mới thu hoạch.
Tiến độ thu hoạch vụ mùa ước tính đến ngày 15/11/2022 như sau: cây lúa thu hoạch được 25.261 ha, bằng 95,1% so với diện tích gieo trồng và tăng 3,38% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thu hoạch ước đạt 110.047 tấn, tăng 3,35% so với cùng kỳ năm trước. Cây ngô thu hoạch được 8.147 ha, bằng 52,9% diện tích gieo trồng và tăng 3,93% so với cùng kỳ năm 2021; sản lượng thu hoạch ước đạt 30.486 tấn, tăng 4,45%. Cây đậu tương thu hoạch được 1.282 ha, giảm 7,03% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thu hoạch được 1.176 tấn, giảm 8,12% so với cùng kỳ năm 2021. Cây lạc thu hoạch được 1.142 ha, giảm 3,63%; sản lượng thu hoạch được 1.639 tấn, giảm 3,59%. Khoai lang thu hoạch được 225 ha, giảm 3,85%; sản lượng thu hoạch được 1.724 tấn, giảm 1,82% so với cùng kỳ năm trước. Tiến độ thu hoạch các loại cây trồng chính vụ mùa đảm bảo kế hoạch mùa vụ; hiện nay các địa phương trong tỉnh đang đẩy nhanh tiến độ thu hoạch và dự kiến hoàn thành cuối tháng 11.
Sơ bộ vụ mùa năm 2022:
Tổng diện tích gieo trồng vụ mùa năm 2022 đạt 58.390 ha, tăng 2,08% hay tăng 1.187 ha so với cùng vụ năm trước, tăng chủ yếu ở một số cây trồng như: lúa, sắn, dong riềng, thạch đen, gừng và một số cây hàng năm khác. Nguyên nhân tăng do thời tiết đầu vụ thuận lợi bà con nông dân gieo trồng hết diện tích bỏ hoang từ những năm trước và khai hoang, mở rộng thêm diện tích gieo trồng. Tổng sản lượng lương thực có hạt vụ mùa năm 2022 ước đạt 171.379 tấn, tăng 3,78% hay tăng 6.238 tấn so cùng vụ năm trước.
Cây lúa gieo trồng được 26.566 ha, tăng 3,97% hay tăng 1.014 ha ở các huyện: Trùng Khánh (+505,86 ha), Thạch An (+160,16 ha), Hà Quảng (+117,31 ha), Hòa An (+84,35 ha)... Diện tích lúa tăng so với cùng vụ năm trước do đầu vụ có nhiều thuận lợi về thời tiết mưa nhiều và đều, chủ động được nguồn nước nên những diện tích từ năm trước bị hạn hán, thiếu nước sản xuất chuyển sang trồng ngô và cây hàng năm khác đã được người dân gieo cấy lúa trở lại. Năng suất ước đạt 45,52 tạ/ha, tăng 1,22%; sản lượng đạt 120.913 tấn, tăng 5,24% hay tăng 6.015 tấn so với cùng vụ năm trước.
Cây ngô gieo trồng được 15.395 ha, tăng 0,02% hay tăng 03 ha so cùng vụ năm trước. Năng suất ước đạt 32,78 tạ/ha, tăng 0,43%; sản lượng ước đạt 50.464 tấn, tăng 0,44% hay tăng 223 tấn so cùng vụ năm trước.
Cây sắn trồng được 3.415 ha, tăng 17,64% hay tăng 512 ha, diện tích sắn tăng chủ yếu ở huyện Bảo Lạc (+408,93 ha) và Hạ Lang (+188,79 ha) do thực hiện dự án của Công ty Cổ phần Khánh Hạ Cao Bằng liên kết, ký kết hợp đồng với Ủy ban nhân dân huyện về đầu tư cho nông dân trồng sắn cao sản; công ty hỗ trợ, cung ứng giống và bao tiêu sản phẩm đầu ra cho nông dân; năng suất ước đạt 159,98 tạ/ha, tăng 3,67% so với cùng kỳ; sản lượng ước đạt 54.632 tấn, tăng 21,96% hay tăng 9.836 tấn so với vụ mùa 2021.
Cây đậu tương trồng được 1.656 ha, giảm 10,87% hay giảm 202 ha; năng suất ước đạt 10,72 tạ/ha, giảm 0,74% so với cùng vụ năm trước; sản lượng ước đạt 1.775 tấn, giảm 11,56% hay giảm 232 tấn so với vụ mùa 2021.
Cây lạc trồng được 1.457 ha, giảm 9,5% hay giảm 153 ha so cùng vụ năm trước; năng suất ước đạt 15,38 tạ/ha, giảm 0,52%; sản lượng ước đạt 2.242 tấn, giảm 9,89% hay giảm 246 tấn so với cùng vụ năm 2021 do diện tích gieo trồng giảm.
Cây mía trồng được 2.778 ha, giảm 2,39% hay giảm 68 ha so cùng vụ năm trước, giảm chủ yếu ở huyện Hạ Lang (-67,05 ha). Là cây trọng điểm của địa phương nhưng do giá bán thấp, chi phí phân bón cây trồng tăng cao, khả năng sản xuất của nhà máy đường còn hạn chế về sản lượng, một số vùng trồng mía còn xa nhà máy, lượng mía chặt xuống không vận chuyển kịp nên người dân đã dần phá bỏ cây mía để chuyển sang trồng khác như: cây sắn, gừng...
Cây lâu năm
Trong tháng, các hộ gia đình tiếp tục thu hoạch các loại cây ăn quả phục vụ gia đình và thị trường như chuối, đu đủ, ổi, cam, quýt… Đồng thời đầu tư cải tạo vườn, chăm sóc các loại cây vừa thu hoạch xong, loại bỏ những cây già cỗi, cho năng suất thấp, sản phẩm kém chất lượng và trồng mới một số diện tích cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, nhu cầu của thị trường lớn.
Tình hình dịch bệnh
Trong tháng, thời tiết khô hanh, đêm và sáng sớm có sương mù tạo điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh và gây hại đối với cây trồng ở tất cả huyện, thành phố như: Bệnh khô vằn, bệnh đạo ôn cổ bông trên cây lúa muộn; sâu keo mùa thu trên cây ngô; sâu đục thân, rệp sơ trắng trên cây mía; bệnh sâu keo, sâu gai, gây hại trên rau, đậu các loại… mức độ gây hại nhẹ và đã được cơ quan chức năng kịp thời khuyến cáo người dân xử lý các ổ bệnh không để lây lan trên diện rộng.
Chăn nuôi
Trong tháng tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh phát triển tương đối ổn định, dịch tả lợn Châu Phi được kiểm soát tốt không phát sinh thêm ổ dịch mới, số lượng mắc và tiêu hủy giảm hơn so với tháng trước. Công tác theo dõi, giám sát dịch bệnh được các địa phương thực hiện thường xuyên, đa số các ổ dịch bệnh được phát hiện sớm và kịp thời áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh theo quy định. Công tác thú y trên địa bàn tỉnh được các ngành chức năng quan tâm chỉ đạo, chủ động tiêm phòng gia súc, gia cầm và khử trùng tiêu độc chuồng trại. Việc kiểm soát giết mổ, kiểm dịch vận chuyển nội địa được quản lý chặt chẽ nhất là giai đoạn cuối năm khối lượng vận chuyển lợn ra, vào trên địa bàn tỉnh lớn.
Tổng đàn trâu hiện có 104.983 con, tăng 3,55% hay tăng 3.596 con so với cùng kỳ năm trước; đàn bò hiện có 107.569 con, tăng 0,22% hay tăng 234 con; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng tháng 11 đạt 180 tấn, tăng 1,69% hay tăng 03 tấn so với cùng kỳ năm 2021, lũy kế từ đầu năm 1.719 tấn, tăng 3,24% hay tăng 54 tấn; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng tháng 11 đạt 178 tấn, tăng 2,89% hay tăng 05 tấn, lũy kế từ đầu năm đạt 1.898 tấn, tăng 1,44% hay tăng 27 tấn so với cùng kỳ năm trước.
Tổng số lợn hiện có 322.020 con, tăng 6,56% hay tăng 19.827 con so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tháng 11 đạt 1.972 tấn, tăng 2,18% hay tăng 42 tấn so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm đạt 23.169 tấn, tăng 2,94% hay tăng 662 tấn so với cùng kỳ năm trước.
Tổng số gia cầm hiện có 2.958,74 nghìn con, tăng 0,46% hay tăng 13,52 nghìn con so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng tháng 11 đạt 637 tấn, giảm 0,16% hay giảm 01 tấn, lũy kế từ đầu năm đạt 6.085 tấn, tăng 3,26% hay tăng 192 tấn; sản lượng trứng gia cầm đạt 2.648 nghìn quả, tăng 0,65%, lũy kế từ đầu năm đạt 32.542 nghìn quả, tăng 2,73% so với cùng kỳ năm trước.
Từ ngày 13/10 đến ngày 14/11/2022, dịch tả lợn Châu Phi được kiểm soát tốt không phát sinh thêm các ổ dịch mới, tuy nhiên vẫn xảy ra rải rác tại một số ổ dịch cũ làm mắc và buộc tiêu hủy 248 con lợn; các ngành chức năng phối hợp với các ban, ngành địa phương tổ chức xử lý ổ dịch theo đúng kỹ thuật. Ngoài ra, các dịch bệnh thông thường vẫn xảy ra lác đác tại các địa phương: 03 con trâu, bò chết do bệnh tụ huyết trùng, tiêu chảy, phân trắng; 10 con lợn chết do bệnh dịch tả, tụ huyết trùng, lợn con phân trắng...; 258 con gia cầm các loại chết do bệnh Niucatxơn, tụ huyết trùng...
2. Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp tháng 11 tập trung kiểm tra, chăm sóc nuôi dưỡng, bảo vệ, khoanh nuôi diện tích rừng hiện có. Các ngành chức năng tăng cường chỉ đạo, đôn đốc thực hiện tốt công tác kiểm tra, xử lý kịp thời các vụ khai thác, vận chuyển lâm sản và chặt phá rừng trái phép; tăng cường bám sát địa bàn, tuyên truyền rộng rãi đến người dân về hoạt động quản lý bảo vệ rừng và các phương án phòng chống cháy rừng tại địa phương.
Diện tích trồng rừng mới trong tháng tính đến ngày 15/11/2022 ước tính đạt 147,2 ha, tăng 69,04% hay tăng 60,12 ha so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm là 1.888,57 ha, giảm 26,71% hay giảm 688,31 ha; sản lượng gỗ khai thác ước tính khoảng 1.532,07 m3, tăng 32,13% hay tăng 372,59 m³ so cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm là 15.858,42 m3, giảm 38,2% hay giảm 9.801,66 m³; sản lượng củi khai thác khoảng 49.011 ste, tăng 0,55% hay tăng 267,15 ste so cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm 707.478,73 ste, tăng 0,13% hay tăng 900,93 ste.
Trong tháng 11 toàn tỉnh có 4,96 ha diện tích rừng bị thiệt hại trong đó: diện tích rừng bị cháy 0,7 ha; diện tích rừng bị chặt, phá 4,26 ha.
3. Thuỷ sản
Trong tháng 11, nuôi trồng và khai thác thủy sản vẫn duy trì ổn định, các hộ nuôi trồng tập trung vào chăm sóc và thu hoạch những diện tích thả từ trước. Việc đánh bắt các loại thủy sản trên sông, suối thuận lợi hơn do trong tháng ít mưa mực nước ở sông, suối xuống thấp. Tổng sản lượng thủy sản tháng 11 ước tính đạt 75,64 tấn, tăng 0,68% hay tăng 0,51 tấn so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm 495,78 tấn, tăng 0,91% hay tăng 4,46 tấn, trong đó: Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 9,63 tấn, tăng 1,16% hay tăng 0,11 tấn, lũy kế từ đầu năm 100,86 tấn, tăng 1,17% hay tăng 1,17 tấn; sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 66,01 tấn, tăng 0,61% hay tăng 0,4 tấn, lũy kế từ đầu năm 394,92 tấn, tăng 0,84% hay tăng 3,29 tấn.
II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh duy trì ổn định, tuy còn gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất nhưng các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất công nghiệp đã nhanh chóng khắc phục khó khăn để mở rộng sản xuất và kinh doanh có hiệu quả. Sản phẩm sản xuất ra có lượng đơn đặt hàng ổn định và tăng hơn các tháng trước như: sản phẩm quặng và tinh quặng, sản phẩm từ khoáng phi kim loại, gạch...
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tháng 11/2022 ước tính tăng 13,88% so với tháng trước và tăng 2,09% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành khai khoáng tăng 31,66%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,25%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 12,27%; ngành chế biến, chế tạo giảm 0,97% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 11 tháng tăng 12,02% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành khai khoáng tăng 43,15%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 26,48%; ngành chế biến, chế tạo giảm 13,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,74% so với cùng kỳ năm trước.
Các sản phẩm sản xuất 11 tháng năm 2022 tăng so với cùng kỳ năm 2021: manggan và các sản phẩm của manggan tăng 39,96%; nước tinh khiết tăng 39,58%; điện sản xuất tăng 27,9%; gạch xây tăng 26,14%; điện thương phẩm tăng 18,4%; quặng manggan và tinh quặng manggan tăng 15,82%; xi măng tăng 10,75%; sản phẩm in khác tăng 9,2%. Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: cát tự nhiên các loại giảm 29,06%; chiếu trúc, chiếu tre giảm 28,81%; sắt thép không hợp kim (phôi thép) giảm 27,22%; đá xây dựng giảm 23,79%; nước uống được giảm 1,04%.
III. ĐẦU TƯ, XÂY DỰNG
Ước tính vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 11 năm 2022 đạt 454,53 tỷ đồng, tăng 9,95% so với tháng trước. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước thực hiện được 445,38 tỷ đồng, tăng 10,24%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước thực hiện được 9,15 tỷ đồng, giảm 2,45% so với tháng trước.
Tính chung 11 tháng năm 2022, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước tính thực hiện được 2.436,6 tỷ đồng, bằng 54,43% kế hoạch năm 2022, tăng 16,33% so với cùng kỳ năm trước.
Các dự án thuộc nguồn vốn nước ngoài ODA, nguồn cấn đối ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện, vốn ngân sách trung ương giao từ đầu năm có khối lượng thực hiện tương đối tốt và đảm bảo đạt tiến độ đã đề ra. Còn lại các nguồn vốn khác và nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia mới phân bổ đợt tháng 8/2022 vẫn đang được tỉnh tập trung thực hiện và đẩy mạnh giải ngân trong những tháng cuối năm 2022.
Trước thực trạng giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp, tỉnh Cao Bằng đã có các văn bản đề xuất Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân nhiều dự án lớn của địa phương sang năm 2023, đồng thời điều chuyển vốn giữa các dự án của tỉnh thuộc nguồn ngân sách trung ương để ưu tiên các dự án khả thi và phù hợp để giải ngân.
IV. THƯƠNG MẠI, DỊCH VỤ, GIÁ CẢ
Tình hình thương mại, dịch vụ của tỉnh trong tháng 11 năm 2022 diễn ra sôi động, doanh thu các ngành hàng có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước.
1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11 năm 2022 ước đạt 872,73 tỷ đồng, tăng 6,24% so với tháng trước và tăng 29,94% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo ngành hoạt động:
Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 682,93 tỷ đồng, tăng 6,25% so với tháng trước và tăng 21,79% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu của tất cả các nhóm hàng trong tháng ước tăng cao hơn so với tháng trước, một số nhóm có mức tăng cao như: nhóm lương thực, thực phẩm tăng 5,2%; nhóm hàng may mặc tăng 7,14%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 6,17%; nhóm vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 9,63%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 6,79%; nhóm phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 7,54%; nhóm xăng, dầu các loại tăng 6,36%; nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 7,30%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 10,01%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 129,43 tỷ đồng, tăng 6,44% so với tháng trước, tăng 76,72% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dịch vụ lưu trú ước tính đạt 12,86 tỷ đồng, tăng 3,08%; dịch vụ ăn uống ước tính đạt 116,56 tỷ đồng, tăng 6,83% so với tháng trước.
Doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt 0,67 tỷ đồng, giảm 6,16% so với tháng trước và tăng hơn 18 lần so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ khác ước đạt 59,71 tỷ đồng, tăng 5,84% so với tháng trước và tăng 58,78% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 11 tháng năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 7.788,38 tỷ đồng, tăng 14,21% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 6.362,34 tỷ đồng, tăng 12,18%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 968,11 tỷ đồng, tăng 30,69%; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 4,78 tỷ đồng, tăng 82,82%; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 453,15 tỷ đồng, tăng 12,06%.
2. Hoạt động xuất nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn quản lý tháng 11 năm 2022 ước đạt 52 triệu USD, giảm 14% so với tháng trước. Trong đó: kim ngạch nhập khẩu đạt 31,5 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 20,5 triệu USD, kim ngạch hàng giám sát, tạm nhập tái xuất đạt 14,8 triệu USD. Luỹ kế từ đầu năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 779,6 triệu USD tăng 29% so với cùng kỳ năm trước.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: hạt điều đạt 5,1 triệu USD tăng 4% so với tháng trước; hạt tiêu đạt 0,631 triệu USD giảm 77%; hàng rau quả đạt 0,572 triệu USD tăng 41%; gỗ đạt 0,486 triệu USD tăng 27% so với tháng trước; kim loại thường khác và sản phẩm đạt 1,7 triệu USD giảm 53% so với tháng trước.
Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: Vải các loại đạt 4,2 triệu USD giảm 43%; Than các loại đạt 0,164 triệu USD giảm 67%; Máy móc thiết bị phụ tùng khác đạt 1,1 triệu USD giảm 21,4%; Ô tô vận tải đạt 1,6 triệu USD giảm 57%; ô tô tải tự đổ đạt 12,7 triệu USD giảm 18% so với tháng trước.
3. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 năm 2022 tăng 0,07% so với tháng trước. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 tăng chủ yếu do nhóm giao thông tăng 2,45% do giá xăng, dầu trong tháng được điều chỉnh tăng; đồng thời do nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,48%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,4%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%.
Trong tháng có 02 nhóm hàng hoá, dịch vụ chỉ số giá giảm là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,53% do các mặt hàng rau, củ đang vào mùa, nguồn cung dồi dào nên giá giảm; và nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,49%. Các nhóm hàng hoá, dịch vụ còn lại chỉ số giá ổn định hoặc tăng không đáng kể.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 năm 2022 tăng 4,86% so với tháng 12 năm 2021, tăng 4,71% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 11 tháng năm 2022 tăng 1,51% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá vàng tháng 11 năm 2022 tăng 2,03% so với tháng trước, tăng 0,95% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá vàng bình quân 11 tháng tăng 1,85% so với bình quân cùng kỳ.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 11 năm 2022 tăng 3,28% so với tháng trước, tăng 9,04% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá Đô la Mỹ bình quân 11 tháng tăng 1,69% so với bình quân cùng kỳ.
4. Hoạt động vận tải
Doanh thu hoạt động vận tải tháng 11 năm 2022 ước đạt 30,94 tỷ đồng, tăng 2,67% so với tháng trước và tăng 28,55% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, doanh thu vận tải hành khách tăng 2,45%, doanh thu vận tải hàng hóa tăng 2,86% và doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải giảm 3,01%.
Lũy kế 11 tháng năm 2022 doanh thu vận tải ước đạt 288,13 tỷ đồng, tăng 8,03% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách
Ước tính tháng 11 năm 2022 vận chuyển hành khách đạt 175,1 nghìn lượt hành khách, tăng 2,7% so với tháng trước, tăng 108,7% so với cùng kỳ năm trước; ước tính hành khách luân chuyển đạt 9.478,8 nghìn lượt HK.km so với tháng trước tăng 0,49%, tăng 140,84% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách 11 tháng năm 2022 ước tính đạt 1.669,6 nghìn hành khách và đạt 89.767,6 nghìn lượt HK.km, so với cùng kỳ năm trước số hành khách vận chuyển tăng 45,45% và số hành khách luân chuyển tăng 40,53%.
Vận tải hàng hoá
Dự ước vận chuyển hàng hóa tháng 11 năm 2022 đạt 114,7 nghìn tấn hàng hóa và luân chuyển hàng hóa đạt 3.650,4 nghìn tấn.km, so với tháng trước giảm 0,26% hàng hóa vận chuyển và tăng 0,93% hàng hóa luân chuyển.
Tính chung 11 tháng năm 2022, vận tải hàng hóa ước tính đạt 1.238,5 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 25,25%; hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 38.663,0 nghìn tấn.km, giảm 5,91% so với cùng kỳ năm trước.
V. TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
1. Thu chi ngân sách
Hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn tháng 11 năm 2022 duy trì tiến độ. Thu ngân sách tăng khá so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu (tăng đột biến nhập khẩu các mặt hàng: ô tô nguyên chiếc, vải các loại, máy móc thiết bị phụ tùng khác); chi ngân sách tập trung thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo hoạt động chuyên môn của các đơn vị sử dụng ngân sách.
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tính đến ngày 15/11/2022 đạt 3.534.195 triệu đồng, bằng 257% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu nội địa đạt 982.261 triệu đồng, bằng 85% so với cùng năm trước; thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu đạt 2.547.139 triệu đồng, bằng 1.167% so với cùng kỳ năm trước; thu các khoản huy động, đóng góp 4.795 triệu đồng.
Tổng chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn tính đến 15/11/2022 đạt 5.696.743 triệu đồng, bằng 92% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: chi thường xuyên và mục tiêu sự nghiệp đạt 4.504.125 triệu đồng, bằng 91%; chi đầu tư phát triển 1.189.196 triệu đồng, bằng 94%; chi trả nợ lãi 2.122 triệu đồng, bằng111%; chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính đạt 1.300 triệu đồng, đạt 100% so với cùng kỳ năm trước.
2. Hoạt động tín dụng, ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng trên địa bàn tỉnh duy trì ổn định, thông suốt, đáp ứng đầy đủ các dịch vụ ngân hàng và nhu cầu giao dịch thanh toán, chuyển tiền… cho các đối tượng khách hàng theo quy định. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị định 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Nguồn vốn huy động tại địa phương dồi dào, tăng trưởng tốt, cơ cấu vốn ổn định, tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng cao và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu vốn hợp pháp phục vụ sản xuất kinh doanh.
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay có xu hướng tăng, các ngân hàng trên địa bàn tỉnh áp dụng mức lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và diễn biến của thị trường. Lãi suất huy động tiền gửi biến động từ 0,1%-8%/năm, tăng từ 0,4 đến 2%/năm; một số ngân hàng có chương trình cạnh tranh, lãi suất cao hơn mức lãi suất bình quân; lãi suất tiền gửi online cao hơn mức lãi suất tại quầy giao dịch từ 0,1-0,4%/năm để khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, góp phần đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt. Lãi suất cho vay các chương trình ưu đãi riêng biến động từ 5,5-12%/năm; lãi suất cho vay kinh doanh thông thường phổ biến ở mức 7,3-13%/năm phụ thuộc vào kỳ hạn từng gói tín dụng.
Tổng vốn quản lý và huy động trên địa bàn ước tính đến 30/11/2022 đạt 25.800 tỷ đồng, tăng 2,7% hay tăng 682 tỷ đồng so với đầu năm, trong đó: nguồn vốn huy động tại địa phương ước đạt 22.000 tỷ đồng, chiếm 85,27% tổng nguồn vốn và tăng 0,4% hay tăng 93 tỷ đồng; nguồn vốn quản lý ước đạt 3.800 tỷ đồng, chiếm 14,73% tổng nguồn vốn, tăng 18,3% hay tăng 589 tỷ đồng so với đầu năm.
Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đến 30/11/2022 ước đạt 14.400 tỷ đồng, tăng 11,98% hay tăng 1.541 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2021, trong đó nợ xấu 130 tỷ đồng, chiếm 0,9% tổng dư nợ.
Hoạt động ngoại hối trên địa bàn số lượng giao dịch ít, không có biến động lớn, các ngân hàng điều chỉnh tỷ giá mua bán USD trên cơ sở tỷ giá trung tâm do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố hàng ngày và biến động thị trường. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ thông qua tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh vàng vẫn được duy trì ổn định, giá vàng được điều chỉnh phù hợp với biến động của giá vàng trong nước, các nhu cầu giao dịch vàng của người dân cơ bản được đáp ứng.
VI. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm
Ngành Y tế tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện công tác phòng, chống dịch bệnh, phòng chống dịch Covid-19, đẩy nhanh tiến độ tiêm vắc xin phòng Covid-19; chủ động kiểm soát nguy cơ dịch bệnh đảm bảo linh hoạt, hiệu quả; phát hiện, xử lý kịp thời các tình huống dịch bệnh xảy ra.
Luỹ tích đến 17h00 ngày 13/11/2022, tỉnh Cao Bằng xét nghiệm sàng lọc Covid-19 được 580.462 mẫu, trong đó có 98.164 mẫu dương tính, có 06 trường hợp bệnh đang được cách ly điều trị tại các cơ sở thu dung, điều trị của tỉnh, 40 trường hợp bệnh không có triệu chứng đang được cách ly, điều trị tại nhà, khỏi bệnh 98.047 người, chuyển tuyến trung ương 03 người và tử vong 62 người.
Tiếp tục tổ chức, triển khai thực hiện tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19. Lũy tích số mũi tiêm đã thực hiện từ ngày 16/4/2021 đến ngày 13/11/2022 là 1.290.765 mũi.
Đối với các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác: Trong tháng ghi nhận một số bệnh lưu hành như: Adeno 33 ca; Cúm thông thường 649 ca; Quai bị 02 ca; Thủy đậu 46 ca; Tiêu chảy 319 ca; 02 trường hợp Rubella; 01 trường hợp sởi lâm sàng; viêm gan vi rút khác 05 ca; 01 ca sốt xuất huyết dương tính (ca xâm nhập) tại huyện Hoà An.
Trong tháng phát hiện 03 trường hợp nhiễm HIV mới. Số trường hợp đang điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone tính đến tháng 10/2022 là 2.055 người.
Vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong tháng 11 trên địa bàn tỉnh không có vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra.
2. Tình hình trật tự, an toàn giao thông
Từ ngày 15/10/2022 đến ngày 14/11/2022 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 15 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 05 người chết, 16 người bị thương, thiệt hại tài sản ước tính 343,5 triệu đồng. So với tháng trước tai nạn giao thông tăng 10 vụ, giảm 02 người chết, tăng 10 người bị thương.
3. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Từ ngày 15/10/2022 đến ngày 14/11/2022 lực lượng chức năng phát hiện 14 vụ vi phạm môi trường, xử lý hành chính 06 vụ với số tiền xử phạt 21,5 triệu đồng. So với tháng trước, số vụ vi phạm môi trường đã phát hiện giảm 08 vụ và giảm 04 vụ vi phạm môi trường đã xử lý.
Về tình hình cháy, nổ: Trong tháng, xảy ra 01 vụ cháy nhà (giảm 01 vụ so với tháng trước). Hậu quả: không có thiệt hại về người, thiệt hại tài sản ước tính 300 triệu đồng.
Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng