Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 25/04/2022-10:24:00 AM
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 năm 2022

I. SẢN XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THUỶ SẢN

1. Nông nghiệp

Trồng trọt

Cây hàng năm

Trong tháng, thời tiết tương đối thuận lợi mưa, nắng xen kẽ tạo điều kiện cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Sản xuất nông nghiệp tập trung chủ yếu gieo cấy lúa đông xuân, làm cỏ, vun xới, bón phân cho các loại hoa màu khác như ngô, lạc, đậu tương... Đồng thời thu hoạch rau màu, thuốc lá và phòng chống sâu bệnh cho các loại cây trồng.

Tính đến ngày 15/4, tiến độ gieo trồng các loại cây hàng năm thực hiện được như sau: cây lúa trồng được 3.644 ha, tăng 3,29% hay tăng 116 ha so với cùng kỳ năm trước và tăng 0,33% so với chính thức vụ đông xuân năm 2021 do mưa nhiều, không thuận lợi khâu làm đất vì vậy một số diện tích ngô không gieo trồng được chuyển sang trồng lúa. Cây ngô trồng được 24.777 ha, giảm 2,49% hay giảm 632 ha so với cùng kỳ năm trước và bằng 95,8% diện tích chính thức vụ đông xuân năm 2021; cây thuốc lá trồng được 3.264 ha, tăng 6,88% hay tăng 210 ha so với cùng kỳ năm trước, hiện nay bà con nông dân đang tập trung thu hoạch, ước tính diện tích thu hoạch được 1.381 ha, sản lượng đạt 3.479 tấn; cây khoai lang trồng được 133 ha, giảm 3,62% hay giảm 5 ha; cây mía trồng được 2.299 ha, giảm 0,13% hay giảm 3 ha; cây đậu tương trồng được 606 ha, giảm 1,94% hay giảm 12 ha; cây lạc trồng được 265 ha, giảm 2,21% hay giảm 6 ha; rau các loại trồng được 1.501 ha, tăng 11,19% hay tăng 151 ha.

Nhìn chung, tiến độ gieo trồng các loại cây trồng chính ở hầu hết các địa phương giảm hơn so với cùng kỳ năm trước do đến thời vụ gặp thời tiết mưa nhiều kèm theo nhiều đợt rét đậm, rét hại kéo dài, khâu làm đất không thuận lợi ảnh hưởng đến tiến độ gieo trồng.

Cây lâu năm

Trong tháng, các hộ gia đình tiếp tục thu hoạch các loại cây ăn quả phục vụ gia đình và thị trường như chuối, mận, dứa, đu đủ… Đồng thời đầu tư cải tạo vườn, chăm sóc các loại cây vừa thu hoạch xong và trồng mới một số diện tích cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, nhu cầu của thị trường lớn như bưởi, mít, na, xoài…

Tình hình sâu bệnh hại cây trồng

Trong tháng, thời tiết mưa nắng xen kẽ, độ ẩm cao tạo điều kiện cho sâu, bệnh phát sinh và gây hại trên cây trồng xảy ra ở tất cả các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh: cây lúa bị ốc bươu vàng, rầy nâu gây hại; cây ngô bị sâu keo mùa thu, sâu gai gây hại. Trên cây ăn quả chủ yếu là bệnh rệp muội, sâu đục cành, … gây hại nhẹ. Các ngành chức năng theo dõi tình hình sâu bệnh gây hại trên cây trồng và kịp thời khuyến cáo người dân xử lý các ổ bệnh không để lây lan trên diện rộng.

Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi trong tháng phát triển bình thường, đàn gia súc, gia cầm được người dân thường xuyên quan tâm, chăm sóc; tháng 4 thời tiết ấm dần thuận lợi cho sự phát triển và tái đàn trở lại; dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm tương đối ổn định, chỉ xảy ra lác đác tại một số địa phương trên địa bàn tỉnh. Công tác thú y trên địa bàn tỉnh được các ngành chức năng quan tâm chỉ đạo, chủ động tiêm phòng gia súc, gia cầm và khử trùng tiêu độc chuồng trại. Việc kiểm soát giết mổ, kiểm dịch vận chuyển nội địa được quản lý chặt chẽ, thường xuyên nhằm khống chế các dịch bệnh lây lan.

Tổng đàn trâu ước tính 102.072 con, tăng 0,59% hay tăng 597 con so với cùng kỳ năm trước; tổng đàn bò ước tính 106.985 con, giảm 0,94% hay giảm 1.012 con so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng tháng 4 đạt 156 tấn, tăng 3,31% hay tăng 5 tấn so với cùng kỳ năm 2021, lũy kế từ đầu năm 698 tấn, tăng 4,02% hay tăng 27 tấn; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng tháng 4 đạt 181 tấn, giảm 1,63% hay giảm 3 tấn, lũy kế từ đầu năm đạt 755 tấn, tăng 0,1% hay tăng 1 tấn.

Tổng đàn lợn ước tính 304.960 con, tăng 6,2% hay tăng 17.813 con; sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 4 đạt 2.267 tấn, tăng 3,42% hay tăng 75 tấn, lũy kế từ đầu năm đạt 9.300 tấn, giảm 0,09% hay giảm 7 tấn so với cùng kỳ năm trước.

Tổng đàn gia cầm ước tính 2.956,7 nghìn con, tăng 2,67% hay tăng 77 nghìn con; sản lượng thịt hơi xuất chuồng tháng 4 đạt 670 tấn, giảm 1,18% hay giảm 8 tấn, lũy kế từ đầu năm đạt 2.488 tấn, giảm 2% hay giảm 51 tấn so với cùng kỳ năm trước; sản lượng trứng gia cầm các loại đạt 2.931 nghìn quả, tăng 0,1% hay tăng 3 nghìn quả, lũy kế từ đầu năm 10.261 nghìn quả, tăng 0,94% hay tăng 96 nghìn quả so cùng kỳ năm trước.

Tính từ ngày 15/3/2022 đến ngày 13/4/2022, dịch tả lợn Châu Phi làm mắc bệnh và buộc tiêu hủy 11 con tại huyện Bảo Lạc và huyện Trùng Khánh, lũy kế từ đầu năm 416 con được các ngành chức năng phối hợp với các ban, ngành địa phương tổ chức xử lý ổ dịch theo đúng kỹ thuật. Ngoài ra, các dịch bệnh thông thường vẫn xảy ra lác đác tại các địa phương: 12 con trâu, bò chết do bệnh tụ huyết trùng, phân trắng, tiêu chảy... lũy kế từ đầu năm là 32 con; 06 con lợn chết do tụ huyết trùng... lũy kế từ đầu năm là 75 con; 204 con gia cầm các loại chết do bệnh Niucatxơn, tụ huyết trùng... lũy kế từ đầu năm là 1.065 con.

2. Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung kiểm tra, chăm sóc, bảo vệ, khoanh nuôi diện tích rừng hiện có. Công tác quản lý, bảo vệ rừng được tăng cường và kiểm soát chặt chẽ các hành vi khai thác, vận chuyển lâm sản trái phép. Các phương án phòng chống cháy rừng được xây dựng, bổ sung và tuyên truyền rộng rãi đến từng xã, xóm và hộ gia đình. Tính từ ngày 15/3 đến ngày 14/4/2022 trên địa bàn tỉnh xảy ra 09 vụ chặt phá và khai thác rừng trái pháp luật với diện tích 1,47 ha tại các huyện: Hòa An, Thạch An, Bảo Lâm...; 03 vụ cháy rừng với diện tích bị cháy 0,6 ha tại huyện Bảo Lạc và huyện Thạch An.

Ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung trong tháng đạt 14,99 ha, giảm 46,6% hay giảm 13,08 ha so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm 91,81 ha, giảm 41,11% hay giảm 64,09 ha. Sản lượng gỗ khai thác đạt 1.127,38 m³, giảm 54,7% hay giảm 1.361,47 m³ so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm đạt 3.285,62 m³, giảm 62,77% hay giảm 5.538,78 m³. Sản lượng củi khai thác đạt 73.578,42 ste, giảm 0,03% hay giảm 23,89 ste so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm đạt 297.440,25 ste, tăng 0,38% hay tăng 1.123,34 ste. Số cây lâm nghiệp phân tán trồng được khoảng 41,1 nghìn cây, chủ yếu là keo, lát, sa mộc, thông, xoan... lũy kế từ đầu năm 188,15 nghìn cây.

3. Thuỷ sản

Trong tháng 4, nuôi trồng và khai thác thủy sản phát triển ổn định, các hộ nuôi trồng tập trung vào chăm sóc diện tích mới thả giống. Bên cạnh đó, tận thu những diện tích vẫn còn sản phẩm và khai thác tỉa những diện tích thả gối vụ năm trước. Khai thác thủy sản trên sông, suối vẫn được duy trì khá tốt. Tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 33,37 tấn, tăng 2,03% hay tăng 0,66 tấn so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm 182,94 tấn, tăng 3,39% hay tăng 6 tấn so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nuôi trồng ước tính đạt 24,06 tấn, tăng 2,75% hay tăng 0,64 tấn, lũy kế từ đầu năm 157,53 tấn, tăng 3,65% hay tăng 5,55 tấn; khai thác ước tính đạt 9,31 tấn, tăng 0,22% hay tăng 0,02 tấn, lũy kế từ đầu năm 25,41 tấn, tăng 11,09% hay tăng 0,45 tấn.

II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP

Tháng 4 năm 2022, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định. Mặc dù, gặp nhiều khó khăn do tác động dịch Covid-19, chi phí sản xuất kinh doanh tăng song các doanh nghiệp đã cố gắng tháo gỡ khó khăn, tập trung mọi nguồn lực để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 4 năm 2022 tăng 1,49% so với tháng trước và tăng 8,01% so cùng kỳ năm trước, số tăng chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện tăng 28,87% so với cùng kỳ năm trước. Ngành chế biến, chế tạo tăng 8%, chủ yếu ở ngành sản xuất kim loại do một số đơn vị sản xuất phôi thép dự kiến tăng số lượng sản phẩm sản xuất; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,56%; riêng ngành khai khoáng giảm 25,33%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng tăng 11,51% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành sản xuất và phân phối điện tăng 52,55%; ngành khai khoáng tăng 9,53%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,09%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,16%.

Trong tháng, các sản phẩm tăng so với cùng kỳ năm trước như: manggan và các sản phẩm của manggan tăng 88,16%; điện sản xuất tăng 60,47%; điện thương phẩm tăng 29,33%; nước tinh khiết tăng 27,64%; quặng manggan và tinh quặng manggan tăng 21,64%; đường tăng 8,78%; gạch xây tăng 3,56%... Các sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: chiếu trúc, chiếu tre giảm 76,54%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 73,8%; cát tự nhiên các loại giảm 32,81%; sắt thép không hợp kim (phôi thép) giảm 16,57%; đá xây dựng giảm 12,37%; nước uống được giảm 0,4%.

III. ĐẦU TƯ, XÂY DỰNG

Ước tính tháng 4 năm 2022 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý đạt 120,45 tỷ đồng, tăng 8,5% so với tháng trước. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước thực hiện được 109,85 tỷ đồng, tăng 8,36%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước thực hiện được 10,6 tỷ đồng, tăng 9,73% so với tháng trước.

Trong tháng 4 năm 2022 các chủ đầu tư tiếp tục hoàn thiện các công trình được phép kéo dài của năm 2021 và tiếp tục đôn đốc các nhà thầu, đơn vị thi công có công trình dự án được nhận thầu thực hiện lập hồ sơ và các thủ tục cần thiết để triển khai thi công theo kế hoạch.

Đến thời điểm hiện nay, dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã được kiểm soát hiệu quả, các hoạt động xây dựng được đẩy mạnh, triển khai ổn định hơn, vì vậy dự kiến khối lượng thực hiện vốn trong tháng 4 cao hơn tháng trước.

Các công trình chuyển tiếp hoàn thành trong tháng bao gồm: Đường vào từ danh lam thắng cảnh quốc gia Động Rơi Đồng Loan (Hạ Lang) đến Thác Bản Giốc (Trùng Khánh); Trụ sở làm việc của khối các cơ quan Đoàn thể tỉnh Cao Bằng (khối 3) và trụ sở làm việc các cơ quan Đảng tỉnh Cao Bằng hoàn thiện các hạng mục đầu tư; Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đường phía Nam khu đô thị mới, Thành phố Cao Bằng, lý trình Km0+00-Km5+896,52. Các công trình Kè bờ sông và đường quốc lộ tiếp tục được triển khai. Ngoài ra, trong tháng có các công trình đường cứu hộ, cứu nạn, khu tái định cư được khởi công mới.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, vốn đầu tư ước tính thực hiện được 447,89 tỷ đồng, bằng 13,43% kế hoạch năm 2022, giảm 0,76% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước thực hiện được 414,07 tỷ đồng, tăng 0,51%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước thực hiện được 33,82 tỷ đồng, giảm 14,02% so với cùng kỳ năm 2021.

IV. THƯƠNG MẠI, DỊCH VỤ

Sau thời gian dài căng thẳng bởi dịch Covid-19, nhịp sống bước đầu trở lại bình thường. Các ngành hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ, vận tải, du lịch trên địa bàn tỉnh đang dần hồi phục, doanh thu tăng so với tháng trước.

1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4 năm 2022 ước đạt 663,05 tỷ đồng, tăng 6,84% so với tháng trước và tăng 13,33% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo ngành hoạt động:

Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 548,09 tỷ đồng, tăng 6,29% so với tháng trước và tăng 12,63% so với cùng kỳ năm trước. Một số nhóm hàng doanh thu so với tháng trước tăng cao như: lương thực, thực phẩm tăng 7,91%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 6,45%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 8,92%; phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 6,59%; nhóm nhiên liệu khác (trừ xăng dầu); đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 6,90%; doanh thu dịch vụ sửa chữa xe máy và xe có động cơ khác tăng 12,41%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 80,88 tỷ đồng, tăng 10,48% so với tháng trước, tăng 32,29% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dịch vụ lưu trú ước tính đạt 7,05 tỷ đồng, tăng 24,5%; dịch vụ ăn uống ước tính đạt 73,83 tỷ đồng, tăng 9,3% so với tháng trước.

Doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt 0,14 tỷ đồng, tăng 25,5% so với tháng trước và giảm 70,4% so với cùng kỳ năm trước. Du lịch Cao Bằng sẵn sàng đón khách trong điều kiện bình thường mới từ ngày 15/3/2022, việc mở cửa lại du lịch không chỉ giúp thỏa mãn nhu cầu đi lại, vui chơi của du khách mà còn phát triển đời sống, khôi phục kinh tế - xã hội.

Doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác ước đạt 33,94 tỷ đồng, tăng 7,28% so với tháng trước và giảm 7,82% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 4 tháng năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 2.442,78 tỷ đồng, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 2.042,92 tỷ đồng, tăng 1,93%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 275,68 tỷ đồng, tăng 4,51%; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 0,61 tỷ đồng, giảm 64,17%; doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác ước đạt 123,57 tỷ đồng, giảm 18,29%.

2. Hoạt động xuất nhập khẩu

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn quản lý tháng 4 năm 2022 ước đạt 69,9 triệu USD, tăng 208% so với tháng trước. Trong đó kim ngạch xuất khẩu giảm 1,16 triệu USD (do doanh nghiệp hủy tờ khai), giảm 115%; kim ngạch nhập khẩu ước đạt 70,91 triệu USD, tăng 539%; kim ngạch hàng giám sát, tạm nhập tái xuất đạt 0,15 triệu USD, giảm 96% so với tháng trước. Lũy kế từ đầu năm tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 132,93 triệu USD, giảm 22% so với cùng kỳ năm 2021.

Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: Hàng rau quả giảm 145% so với tháng trước; gỗ đạt 2,6 triệu USD giảm 41% so với tháng trước; sản phẩm gỗ không phát sinh.

Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: Hàng rau quả đạt 0,282 triệu USD giảm 18% so với tháng trước; Than các loại giảm 110% so với tháng trước; Vải các loại đạt: 0,308 triệu USD giảm 83% so với tháng trước; Máy móc thiết bị phụ tùng khác đạt 0,551 triệu USD giảm 84% so với tháng trước; trong tháng phát sinh mặt hàng Ô tô nguyên chiếc (ô tô vận tải, ô tô tải tự đổ) có trị giá 66,8 triệu USD tăng 3.080% so với tháng trước.

3. Hoạt động vận tải

Doanh thu hoạt động vận tải tháng 4 năm 2022 ước đạt 23,71 tỷ đồng, tăng 6,89% so với tháng trước và giảm 10,26% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu hoạt động vận tải tháng 4 năm 2022 tăng so với tháng trước ở cả hoạt động vận tải hành khách, vận tải hàng hóa và dịch vụ hỗ trợ vận tải.

Vận tải hành khách

Ước tính tháng 4 năm 2022 vận chuyển hành khách đạt 100,1 nghìn lượt hành khách, tăng 7,87% so với tháng trước, giảm 33,44% so với cùng kỳ năm trước; ước tính hành khách luân chuyển đạt 5.352,6 nghìn lượt HK.km so với tháng trước tăng 12,16%, giảm 37,31% so với cùng kỳ năm trước.

Vận tải hành khách trong 4 tháng đầu năm 2022 ước tính đạt 384,5 nghìn hành khách và đạt 19.818,3 nghìn lượt HK.km, so với cùng kỳ năm trước số hành khách vận chuyển giảm 33,33% và số hành khách luân chuyển giảm 41,31%.

Vận tải hàng hoá

Dự ước vận chuyển hàng hóa tháng 4 năm 2022 đạt 90,3 nghìn tấn hàng hóa và luân chuyển hàng hóa đạt 2.826,9 nghìn tấn.km, so với tháng trước tăng 11,35% hàng hóa vận chuyển và tăng 17,49% hàng hóa luân chuyển.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, vận tải hàng hóa ước tính đạt 385,9 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 52,16%; hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 11.536,0 nghìn tấn.km, giảm 20,02% so với cùng kỳ năm trước.

V. TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

1. Thu chi ngân sách

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn duy trì tiến độ, chi ngân sách Nhà nước đáp ứng kịp thời, đầy đủ các yêu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tính đến thời điểm 15/4/2022 kết quả thu, chi ngân sách Nhà nước đạt được như sau:

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn đạt 772.371 triệu đồng, bằng 184% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu nội địa đạt 322.014 triệu đồng, bằng 87% so với cùng kỳ năm trước; thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu đạt 449.857 triệu đồng, bằng 900% so với cùng kỳ năm trước; thu các khoản huy động, đóng góp đạt 500 triệu đồng.

Tổng chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn đạt 1.399.416 triệu đồng, bằng bằng 91% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó: chi đầu tư phát triển 93.803 triệu đồng, bằng 55% so với cùng kỳ năm trước; chi thường xuyên và mục tiêu sự nghiệp 1.304.077 triệu đồng, bằng 95% so với cùng kỳ năm trước; chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 1.300 triệu đồng, bằng 100% so với cùng kỳ năm trước; chi trả nợ lãi 236 triệu đồng, bằng 115% so với cùng kỳ năm trước.

2. Hoạt động tín dụng, ngân hàng

Hoạt động tín dụng, ngân hàng trên địa bàn tỉnh chấp hành nghiêm các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và quy định của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Các tổ chức tín dụng duy trì thu hút, tăng trưởng nguồn vốn nhãn rỗi tại địa phương, sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu vay vốn hợp pháp; đẩy mạnh triển khai các chương trình cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn trong lĩnh vực vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng dịch Covid-19; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.

Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay được duy trì ổn định, các ngân hàng trên địa bàn tỉnh áp dụng mức lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và diễn biến của thị trường. Lãi suất huy động tiền gửi biến động từ 0,1%-5,65% trên 1 năm, lãi suất tiền gửi online cao hơn tại quầy giao dịch từ 0,2-0,4% trên năm; lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên biến động từ 4,5%-11,65%; lãi suất cho vay kinh doanh thông thường phổ biến ở mức 7,5%-13% trên 1 năm phụ thuộc vào kỳ hạn từng gói.

Tổng vốn huy động và quản lý trên địa bàn ước tính đến 30/4/2022 đạt 25.370 tỷ đồng, tăng 1% hay tăng 252 tỷ đồng so với đầu năm, trong đó: Nguồn vốn huy động tại địa phương ước đạt 22.140 tỷ đồng, tăng 1,07% hay tăng 234 tỷ đồng; nguồn vốn quản lý ước đạt 3.230 tỷ đồng, tăng 0,56% hay tăng 18 tỷ đồng so với đầu năm. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đến 30/4/2022 ước đạt 12.980 tỷ đồng, tăng 0,94% hay tăng 121 tỷ đồng so với đầu năm, trong đó nợ xấu 135 tỷ đồng, chiếm 1,04% tổng dư nợ.

Hoạt động ngoại hối trên địa bàn không có biến động lớn, các ngân hàng điều chỉnh tỷ giá USD trên cơ sở tỷ giá trung tâm Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày và biến động của thị trường; các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ thông qua các tổ chức tín dụng.

Hoạt động kinh doanh vàng vẫn được duy trì ổn định, giá vàng được điều chỉnh phù hợp với biến động giá vàng trong nước, các nhu cầu giao dịch vàng của người dân cơ bản được đáp ứng. Từ đầu năm đến nay, giá vàng có xu hướng tăng do ảnh hưởng của xung đột Nga - Ukraine và lệnh trừng phạt kinh tế của các nước đối với Nga. Tính đến ngày 12/4/2022 giá vàng trong nước với mức mua vào - bán ra lần lượt 68,8 - 69,5 triệu đồng/lượng; chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới vẫn ở mức cao.

VI. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm

Ngành Y tế tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện công tác phòng chống dịch Covid-19. Bảo đảm duy trì trực chống dịch; chuẩn bị sẵn sàng nhân lực, thuốc, vật tư trang thiết bị y tế, ứng phó và xử lý kịp thời các tình huống dịch bệnh. Tiếp tục phân bổ và điều chuyển vắc xin phòng Covid-19 cho các đơn vị thực hiện tiêm chủng phòng Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Tập trung cho hoạt động tổ chức, triển khai chiến dịch tiêm chủng mùa xuân vắc xin phòng Covid-19, triển khai thực hiện chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

Lũy tích từ ngày 04/2/2022 đến ngày 13/4/2022, tỉnh Cao Bằng xét nghiệm, sàng lọc Covid-19 được 542.753 mẫu, trong đó 91.107 mẫu dương tính. Hiện tại, có 363 trường hợp cách ly điều trị tại các cơ sở thu dung, điều trị của tỉnh, 7.224 trường hợp bệnh không có triệu chứng đang được cách ly, điều trị tại nhà, khỏi bệnh 83.460 người, chuyển tuyến trung ương 03 người và tử vong 57 người.

Về hoạt động tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19: Tổng số mũi tiêm đã thực hiện từ ngày 16/4/2021 đến ngày 13/4/2022 là 973.035 mũi.

Đối với các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác: Trong tháng ghi nhận một số bệnh lưu hành như: Adeno 55 ca; Cúm 1.210 ca; Lỵ trực trùng 03 ca; Quai bị 01 ca; Thủy đậu 05 ca; Tiêu chảy 416 ca; Viêm gan vi rút khác 02 ca. Tất cả các trường hợp mắc bệnh được phát hiện, điều trị và xử lý kịp thời, không có tử vong.

Trong tháng, phát hiện 04 trường hợp nhiễm HIV mới, không có trường hợp mới chuyển AIDS; số chết do AIDS: 01 người.

Trong tháng 4 năm 2022 trên địa bàn toàn tỉnh không có vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra.

2. Giáo dục

Thực hiện công văn số 1239/BGDĐT-GDTC ngày 04/4/2022 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tổ chức dạy học trực tiếp đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non, học sinh tại các cơ sở giáo dục; ngày 06/4/2022 Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã ban hành công văn số 510/SGD&ĐT-VP về việc tổ chức dạy học trực tiếp đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non, học sinh tại các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.

Từ ngày 13/4/2022, các cơ sở giáo dục tổ chức đón và dạy học trực tiếp tại trường cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học, THCS trên địa bàn tỉnh. Đối với giáo viên, học sinh hiện đang trong thời gian điều trị bệnh Covid-19 (F0) tại các trường học tiếp tục cách ly y tế theo quy định và sẽ đến trường giảng dạy, đi học trở lại sau khi hoàn thành thời gian cách ly, điều trị bệnh có kết quả âm tính, tiếp tục thực hiện các biện pháp “5K” khi đến trường.

3. Tình hình trật tự, an toàn giao thông

Từ ngày 15/3/2022 đến ngày 14/4/2022 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 08 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 05 người chết, 09 người bị thương, thiệt hại tài sản ước tính 105 triệu đồng. So với tháng trước tai nạn giao thông tăng 05 vụ, tăng 04 người chết và tăng 02 người bị thương.

4. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

Từ ngày 15/3/2022 đến ngày 14/4/2022 lực lượng chức năng phát hiện 12 vụ vi phạm môi trường, xử lý 03 vụ với số tiền xử phạt 33 triệu đồng. So với tháng trước, số vụ vi phạm môi trường đã phát hiện tăng 03 vụ, giảm 05 vụ vi phạm môi trường đã xử lý.

Về tình hình cháy, nổ: Trong tháng xảy ra 02 vụ cháy nhà tại huyện Bảo Lâm và Thành phố Cao Bằng, làm 01 người bị thương, gây thiệt hại về tài sản ước tính 181 triệu đồng. Sau khi nhận được tin báo, các lực lượng chức năng đã đến cùng nhân dân khắc phục thiệt hại.

5. Thiệt hại do thiên tai

Trong tháng 4 trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ lốc sét, mưa đá làm 07 ngôi nhà bị hư hại, 31,07 ha hoa màu bị thiệt hại, tổng giá trị thiệt hại ước tính 75 triệu đồng. So với tháng trước số vụ thiên tai giảm 02 vụ, so với cùng kỳ năm trước giảm 50% số vụ thiên tai xảy ra.


Website Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng

    Tổng số lượt xem: 353
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)