I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2010
Bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 trong bối cảnh kinh tế thế giới tuy chưa thực sự thoát ra khỏi khủng hoảng nhưng đã và đang dần ổn định; sản xuất kinh doanh trong nước tiếp tục phát triển theo hướng tích cực. Ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 14/QĐ-UBND ngày 29/01/2010 và tập trung tổ chức thực hiện các giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán thu, chi ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Ngãi năm 2010; trong đó tập trung thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm bình ổn kinh tế, không để lạm phát cao theo tinh thần Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/4/2010 của Chính phủ; phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm 34-35%. Kết quả cụ thể của các ngành, các lĩnh vực như sau:
1. Về lĩnh vực kinh tế: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) 6 tháng đầu năm ước đạt 4.028 tỷ đồng tăng 60,6% so với cùng kỳ năm 2009, bằng 46,33% kế hoạch năm; trong đó khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 2.258,6 tỷ đồng, tăng 159,2%; dịch vụ ước đạt 1.053,2 tỷ đồng, tăng 11,6%; khu vực nông lâm thủy sản ước đạt 716,2 tỷ đồng, tăng 3,3%.
a) Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm tiếp tục tăng trưởng cao. Giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng ước đạt 7.697 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994), tăng 352,8% so cùng kỳ năm 2009 và bằng 50,13% kế hoạch năm. Trong đó, khu vực kinh tế nhà nước đạt gần 6.147,5 tỷ đồng, gấp 21,78 lần 6 tháng đầu năm 2009 nhờ có sản phẩm lọc hóa dầu tăng cao so với cùng kỳ năm 2009; kinh tế ngoài nhà nước đạt gần 1.452,7 tỷ đồng, tăng 8%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 96,6 tỷ đồng, tăng 34,5%.
Sản lượng nhiều sản phẩm tăng khá so với cùng kỳ năm 2009. Những sản phẩm tăng mạnh như thủy sản chế biến tăng 22%; bia tăng 42,7%; nước khoáng và nước tinh khiết tăng 19,4%; sữa các loại tăng 75,6%; dăm gỗ nguyên liệu giấy tăng 226,4%; gạch xây các loại tăng 7%; đá khai thác tăng 10,1%; sản phẩm lọc hóa dầu đạt 2,36 triệu tấn, gấp 87,87 lần so cùng kỳ năm trước,... Tuy nhiên, có một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm 2009 như đường RS trên địa bàn tỉnh chỉ đạt 16,7 ngàn tấn, giảm 16,2%; tinh bột mỳ trên địa bàn tỉnh đạt 9,9 ngàn tấn, giảm 64,4%,…
b) Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và tài nguyên - môi trường
Sản xuất nông nghiệp vụ Đông Xuân 2010 tương đối thuận lợi so với các vụ Đông Xuân những năm gần đây nên hầu hết các loại cây trồng, nhất là lúa đều sinh trưởng, phát triển tốt. Một số đối tượng sâu, bệnh phát sinh gây hại cây trồng như bệnh đạo ôn lá, đạo ôn cổ bông, cổ bẹ lá, khô vằn, bệnh lùn sọc đen; chuột, sâu năn, rầy nâu-rầy lưng trắng,…nhưng mức độ gây hại không đáng kể. Tổng diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt đạt 41.399,7 ha, tăng 244,9 ha (0,6%) so với cùng vụ năm trước; sản lượng đạt 228.532 tấn, tăng 3,8% (8.381 tấn).
Lúa Đông Xuân toàn tỉnh gieo sạ đạt 36.973 ha, tăng 1,1% (385,4 ha) so với cùng vụ năm 2009. Trong vụ Đông Xuân này, việc chỉ đạo lịch thời vụ và cơ cấu giống đã được các địa phương chú trọng. Tuy nhiên, do những bất cập về lịch gieo sạ trong các vụ trước nên việc chấp hành lịch thời vụ chưa tốt, có 5.831 ha gieo sạ trước lịch (20/12/2009), chiếm 15,8% diện tích gieo sạ.
Bên cạnh việc tăng thâm canh, sử dụng giống mới nhiều, nhờ thời tiết thuận lợi (không có lũ lụt lớn; có 02 đợt gió mùa đông bắc vào giai đoạn lúa trổ nhưng diện tích bị ảnh hưởng không đáng kể), sâu bệnh ít nên năng suất và sản lượng lúa đạt khá và tăng so với vụ đông xuân 2009. Trong vụ Đông Xuân các loại rau, đậu thực phẩm vẫn duy trì được diện tích đã có. Giá rau đậu ổn định và đảm bảo mang lại thu nhập khá cho người trồng.
Tình hình thời tiết vụ Hè Thu năm 2010 diễn biến hết sức phức tạp, đã gây nhiều bất lợi cho sản xuất nông nghiệp ngay từ đầu vụ, nắng nóng gay gắt, nhiệt độ tăng cao, thiếu nước đổ ải, gieo sạ,... Với sự chỉ đạo kịp thời của UBND tỉnh và sự nỗ lực của toàn ngành nông nghiệp nên vụ Hè Thu năm 2010 đã gieo sạ đạt 31.000 ha, bằng 98% kế hoạch. Hiện nay thời tiết nắng nóng kéo dài, nguy cơ hạn hán rất cao, diện tích cây trồng có khả năng bị hạn là 15.461 ha (có trên 10.500 ha lúa), thiếu nước uống cho người và gia súc (20.600 người, 20.000 gia súc). Để khắc phục tình hình trên, các địa phương trong tỉnh đã và đang triển khai triệt để các biện pháp tiết kiệm nguồn nước tưới và các giải pháp phòng chống hạn khác.
Các loại dịch bệnh có tính chất nghiêm trọng như cúm gia cầm, lở mồm long móng gia súc,... xảy ra rải rác trên địa bàn tỉnh. Các ổ dịch đã được kịp thời bao vây, khống chế dập tắt, không để phát sinh lây lan. Các loại bệnh thông thường khác ở gia súc như tụ huyết trùng, dịch tả, phó thương hàn,… xuất hiện rải rác, gây thiệt hại không đáng kể. Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 1/4/2010, đàn lợn có 524.025 con, tăng 2,3% (11.818 con); đàn gà có 2.188.924 con, tăng 121.605 con (5,8 %) so với thời điểm 1/10/2009.
Sản lượng thuỷ sản đánh bắt 6 tháng ước đạt 49.502 tấn, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm 2009 và bằng 53,81% kế hoạch năm; trong đó khai thác trên biển đạt 49.285 tấn, khai thác thuỷ sản nước ngọt và nước lợ đạt 217 tấn
Diện tích nuôi trồng thuỷ sản 6 tháng đầu năm ước đạt 1.327 ha; trong đó diện tích nuôi tôm đạt 645 ha, giảm 13,4% so với cùng kỳ năm 2009. Tính từ đầu năm đến nay có 91,2 ha tôm nuôi bị dịch (7 ha tôm sú, 84,2 ha tôm thẻ chân trắng). Số lượng con giống bị thiệt hại khoảng 87 triệu post. Nguyên nhân tôm dịch là do cải tạo ao hồ không đúng kỹ thuật, giống đưa vào nuôi không qua kiểm dịch, nguồn nước đầu vào bị ô nhiễm. Sản lượng tôm nuôi thu hoạch 6 tháng ước đạt 2.304 tấn, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm 2009 (do dịch bệnh và giảm diện tích).
Công tác quản lý tàu cá được tăng cường, tính đến tháng 5/2010 đã thực hiện đăng kiểm và đăng ký cho 492 tàu cá, nâng tổng số tàu đăng ký trong toàn tỉnh lên 5.510/5.550 tàu với tổng công suất 497.494 CV, đạt tỷ lệ 99,3% tổng số tàu.
Công tác chăm sóc, bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng trong mùa khô được tăng cường, đã triển khai ký hợp đồng quản lý bảo vệ rừng năm 2010 đến từng tổ chức, cá nhân; tiến hành lập hồ sơ thiết kế trồng mới đối với các dự án rừng phòng hộ; triển khai chọn vùng thực hiện dự án năm 2010, thiết kế trồng và chăm sóc đối với các dự án trồng rừng sản xuất đồng thời chuẩn bị vật tư gieo ươm cây giống phục vụ trồng rừng năm 2010. Tổ chức 157 đợt kiểm tra, truy quét, phát hiện 32 vụ vi phạm, đã xử lý hành chính 23vụ; tịch thu 40,4 m3 gỗ các loại, thu nộp ngân sách hơn 162 triệu đồng.
Tài nguyên và môi trường: Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đăng ký đất đai được triển khai theo kế hoạch; triển khai thực hiện quy hoạch sử dụng đất tỉnh, huyện, xã đến năm 2020, các địa phương đang tiến hành lập Đề cương và Dự toán quy hoạch sử dụng đất trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; triển khai công tác kiểm kê đất đai năm 2010, đến nay 184 xã, phường, thị trấn đã hoàn thành công tác tổng hợp số liệu và báo cáo kết quả kiểm kê đất đai; thực hiện công tác thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất xây dựng công trình cho 82 tổ chức với tổng diện tích là 469,52 ha; thực hiện đo bản đồ địa chính tại 26 xã, thị trấn đạt 11.800 ha bằng 118% kế hoạch năm; tổ chức, khảo sát, thiết kế, lập dự toán đo đạc thành lập bản đồ địa chính, đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn với đất các huyện Nghĩa Hành, Ba Tơ, Trà Bồng thuộc dự án VLAP;...
Phối hợp với cơ quan chức năng và cảnh sát môi trường kiểm tra việc Công ty cổ phần Đường Quảng Ngãi xả nước thải gây ô nhiễm môi trường, làm cá chết hàng loạt trên sông Trà Khúc; hiện đã chuyển hồ sơ vụ việc cho Công an tỉnh tiếp tục điều tra, xác minh chứng cứ để xử lý theo qui định của pháp luật. Thực hiện công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, đề án bảo vệ môi trường, công tác thu thập thông tin về tình hình phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và khảo sát các điểm nóng ở các địa phương vùng ven biển và hải đảo của tỉnh; xây dựng danh mục các dự án biến đổi khí hậu vận động tài trợ và chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020,...
c) Thương mại, hoạt động vận tải
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 6 tháng ước đạt 8.718,7 tỷ đồng, tăng 30,2% so với cùng kỳ 2009 và bằng 51,9% kế hoạch năm; trong đó, kinh tế nhà nước đạt 694,1tỷ đồng, tăng 13,1 %; kinh tế tập thể đạt gần 6,7 tỷ đồng, tăng 46,3%; kinh tế cá thể đạt 6.085 tỷ đồng, tăng 25,4%; kinh tế tư nhân đạt 1.932,8 tỷ đồng, tăng 58,1%.
Công tác quản lý thị trường được duy trì thường xuyên, các Đội quản lý thị trường tập trung thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát, chống vận chuyển, buôn bán hàng lậu, hàng cấm, gian lận thương mại, đầu cơ nâng giá đối với một số mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân. Kết quả cho thấy tình hình thị trường đã có nhiều diễn biến tích cực, góp phần tích cực phát triển sản xuất và ổn định đời sống nhân dân.
Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt 179,8 triệu USD, tăng586,8% so với cùng kỳ 2009, bằng 78,2% kế hoạch năm. Xuất khẩu tăng mạnh là do có các sản phẩm mới của Nhà máy lọc dầu Dung Quất và Công ty TNHH công nghiệp nặng Doosan Việt Nam tham gia xuất khẩu như: propylen đạt 43,7 triệu USD, dầu KO đạt 32,7 triệu USD, Dầu FO đạt 28,9 triệu USD, máy móc thiết bị đạt 49,1 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu 6 tháng ước đạt 1.175,2 triệu USD, gấp 15,7 lần so với cùng kỳ 2009, bằng 36,72% kế hoạch năm. Kim ngạch nhập khẩu tăng cao so cùng kỳ năm trước là do Nhà máy lọc hóa dầu Dung Quất nhập khẩu nguyên liệu dầu thô cho sản xuất (1.123,4 triệu USD); hàng bao bì đạt gần 4,4 triệu USD, tăng 64,8% so cùng kỳ.
Hoạt động vận tải 6 tháng đầu năm tiếp tục ổn định và phát triển. Vận chuyển hành khách ước đạt 926 ngàn lượt người với mức luân chuyển gần 239.215,6 ngàn lượt người-km, tăng tương ứng 3,21% và 2,95% so với cùng kỳ 2009; khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 1.461,2 ngàn tấn với mức luân chuyển 266.410,1 ngàn tấn-km, tăng tương ứng 7,53% và 7,33% so với cùng kỳ 2009. Doanh thu vận tải và các hoạt động dịch vụ vận tải ước đạt 233,9 tỷ đồng, tăng 16,73% so với cùng kỳ 2009.
d) Tài chính, tiền tệ và giá cả thị trường
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 6 tháng đầu năm ước đạt 4.863,7 tỷ đồng, bằng 33,8% dự toán năm và tăng 630,7% so với cùng kỳ năm 2009; trong đó, thu nội địa ước đạt 2.063,7 tỷ đồng, bằng 22,7% dự toán năm và tăng 306,8% so với cùng kỳ năm 2009; thu hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 2.700 tỷ đồng, bằng 53,4% dự toán năm, gấp 30 lần so với cùng kỳ năm 2009.Hầu hết các nguồn thu truyền thống của địa phương đạt khá cao và đảm bảo tiến độ, đạt trên 50% dự toán năm và tăng so với cùng kỳ năm 2009, như thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thuế nhà đất, thuế thu nhập cá nhân, thu phí xăng dầu, thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước, thu từ doanh nghiệp địa phương, lệ phí trước bạ, tiền sử dụng đất,... Tuy nhiên, thu nội địa đạt thấp so dự toán được giao chủ yếu do thu từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất chỉ đạt 16% (Dự toán 2010 giao 7.800 tỷ đồng nhưng 6 tháng đầu năm thu ước đạt 1.245,4 tỷ đồng). Nguyên nhân là do Nhà máy lọc dầu Dung Quất mới được bàn giao vào ngày 30/5/2010, chưa đến kỳ kê khai và nộp ngân sách theo quy định tại Quyết định số 1942/QĐ-TTg ngày 25/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Mặt khác, theo Thông tư số 59/2010/TT-BTC ngày 19/4/2010 của Bộ Tài chính thì thuế suất thuế nhập khẩu xăng dầu giảm so với với thời điểm xây dựng dự toán.
Tổng chi ngân sách địa phương 6 tháng đầu năm ước đạt 2.151 tỷ đồng, bằng 52,4% dự toán năm, tăng 59,2% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, chi đầu tư phát triển ước đạt 502,1 tỷ đồng, bằng 38,8% dự toán năm, tăng 38,1%; chi thường xuyên ước đạt 958,1 tỷ đồng, bằng 51,7% dự toán năm và tăng 38,6%,... Hầu hết các khoản chi đều đạt tiến độ được giao, còn lại một số khoản chi đạt thấp so dự toán như chi trợ giá, trợ cước, chi sự nghiệp môi trường, chi sự nghiệp khoa học công nghệ.
Trong 6 tháng đầu năm 2009, ngân sách đảm bảo gần 400 tỷ đồng để chi thực hiện chính sách an sinh xã hội và một số nhiệm vụ khác như chi thực hiện chính sách bảo trợ xã hội theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP của Chính phủ (55 tỷ đồng); chi thực hiện chính sách bảo hiểm y tế cho người nghèo, cận nghèo và trẻ em dưới dưới 6 tuổi (68 tỷ đồng); chi thực hiện chính sách miễn thu thủy lợi phí theo Nghị định số 115/2008/NĐ-CP ngày 14/11/2008 của Chính phủ (14,4 tỷ đồng); chi thực hiện chính sách hỗ trợ xây dựng nhà ở cho 2.618 nhà theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (37,4 tỷ đồng); chi thực hiện Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/02/2008 của Chính phủ cho 6 huyện miền núi (120 tỷ đồng vốn XDCB và 42 tỷ đồng vốn sự nghiệp),...
Tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn 6 tháng đầu năm ước đạt 12.500 tỷ đồng, tăng 25,6% so với cuối năm 2009; tốc độ tăng nguồn vốn huy động khá cao là do trong 2 tháng gần đây lãi suất huy động của các ngân hàng tăng lên so với những tháng đầu năm nên thu hút được người gửi tiền; hiện nay các ngân hàng đang triển khai thực hiện Chỉ thị số 02 và Thông tư số 12 của Thống đốc ngân hàng nhà nước, trên cơ sở đó các ngân hàng sẽ có mức lãi suất huy động giảm dần và xoay quanh mức lãi suất 11,5%/năm. Tổng dư nợ tăng không đáng kể so với cuối năm 2009, ước đạt 12.300 tỷ đồng, tăng 6,88%; hiện nay để mở rộng cho vay, các tổ chức tín dụng đã sử dụng nhiều biện pháp tích cực như giảm lãi suất, thủ tục linh hoạt, trực tiếp gặp gỡ khách hàng để tư vấn, hướng dẫn và mời vay,...
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2010 tăng 0,31% so với tháng trước. So với tháng 12 năm trước, CPI tăng 3,41%, trong đó hầu hết các ngành hàng đều tăng, trừ nhóm bưu chính viễn thông giảm (-1,1%). Một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng cao trong 6 tháng như: Nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 8,65%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,58%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 4,96%.
đ) Đầu tư phát triển, đăng ký kinh doanh và tình hình thu hút đầu tư
Về đầu tư phát triển: UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo, đôn đốc và đẩy nhanh tiến độ thi công, giải ngân các nguồn vốn xây dựng tập trung; nhiều công trình đã đảm bảo tiến độ, nhất là các công trình thuộc chương trình kiên cố hóa trường lớp học, các công trình giao thông,... Tổng kế hoạch vốn ngân sách cân đối cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh năm 2010 là 2.441,83 tỷ đồng (trong đó có 885 tỷ đồng vốn hỗ trợ có mục tiêu từ nguồn thu Nhà máy lọc dầu Dung Quất).
Vốn ngân sách giải ngân đến 30/6 đạt 649,36/2.441,83 tỷ đồng, bằng 26,59% kế hoạch. Trong đó, vốn ngân sách trong cân đối giải ngân đạt 45,68%; vốn Chương trình mục tiêu Quốc gia giải ngân đạt 18%; vốn hỗ trợ có mục tiêu giải ngân đạt 33,81%; vốn hỗ trợ có mục tiêu từ nguồn thu NMLD giải ngân đạt 22,79% (chủ yếu là giải ngân trong 185 tỷ đồng đã được Chính phủ cho ứng trước và mượn nguồn ngân sách); vốn nước ngoài giải ngân đạt 27,2%; vốn Trái phiếu Chính phủ giải ngân đạt 24,8% kế hoạch. Riêng nguồn vốn ứng trước ngân sách năm 2010, 2011 đã ứng năm 2009 và được thanh toán đến 30/6/2010 giải ngân đạt 91,9% kế hoạch.
Công tác giải ngân kế hoạch vốn đạt thấp một phần là do việc giải ngân kế hoach vốn năm 2010 chỉ mới tập trung vào khoảng tháng 4 đến nay, các tháng đầu năm tập trung việc giao kế hoạch, giải quyết kế hoạch năm 2009 và hoàn chỉnh thủ tục đầu tư. Mặt khác, kế hoạch vốn giao từ nguồn thu nhà máy lọc dầu chưa được Trung ương thông báo nên thiếu nguồn thanh toán và do các chủ đầu tư vẫn còn chậm trong công tác nghiệm thu lên phiếu giá thanh toán; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng vẫn còn gặp nhiều khó khăn (từ cơ chế chung khi vận dụng vào từng dự án, từng điều kiện cụ thể thì luôn có trường hợp cá biệt, phải xử lý riêng),...
Về Đăng ký kinh doanh: Đã nhận và xử lý hồ sơ cho 620 doanh nghiệp đến bổ sung, thay đổi và đăng ký mới; trong đó cấp mới Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 327 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký 8.733 tỷ đồng; bao gồm 54 doanh nghiệp tư nhân, 99 công ty TNHH 2 thành viên trở lên, 131 công ty TNHH 1 thành viên và 43 công ty cổ phần. Đăng ký hoạt động cho 19 Chi nhánh và 7 Văn phòng đại diện; có 67 lượt doanh nghiệp đến đăng ký tăng vốn với số vốn tăng thêm trên 307 tỷ đồng. Triển khai tập huấn Nghị định số 43/2010/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp và Thông tư số 14/2010/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho Phòng Tài chính - Kế hoạch các huyện và đại diện các Hiệp, Hội doanh nghiệp của tỉnh; thực hiện việc nhập dữ liệu phần mềm đăng ký kinh doanh vào hệ thống đăng ký doanh nghiệp quốc gia, dự kiến đến tháng 7/2010 hoàn tất và thực hiện việc đăng ký kinh doanh theo phần mềm mới.
Tỉnh đã thực hiện công tác sắp xếp, đổi mới công ty nhà nước theo đúng kế hoạch được phê duyệt; hiện nay, đang xây dựng phương án chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên cho 3 nông lâm trường; thẩm tra giá trị doanh nghiệp của Công ty Dược – Vật tư Y tế để xây dựng phương án bán doanh nghiệp. Tổ chức gặp mặt doanh nghiệp 6 tháng đầu năm để tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp về vốn, về lao động,... Thành lập Hội doanh nghiệp tỉnh Quảng Ngãi.
Về tình hình thu hút đầu tư theo Luật đầu tư: Có 03 dự án có vốn FDI được cấp mới với vốn đầu tư đăng ký là 369 triệu USD (Dự án Bến xe khách Quảng Ngãi của Công ty TNHH Thiên Ân Holding, Dự án Chế biến hải sản xuất khẩu của Công ty TNHH Galliant Ocean, Dự án Kho ngầm xăng dầu của Công ty TNHH kho ngầm xăng dầu dầu khí Việt Nam). So với 6 tháng cùng kỳ năm 2009, số dự án FDI được cấp Giấy chứng nhận đầu tư tăng 50% với tổng vốn đăng ký gấp 12,9 lần. Tính đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh có 20 dự án có vốn FDI với tổng vốn đăng ký gần 3,793 tỉ USD; tuy nhiên, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và những vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng nên việc triển khai các dự án FDI khá chậm so với tiến độ đã đăng ký: Tổng vốn FDI thực hiện ước đạt 403,2 triệu USD, bằng 10,6% vốn đăng ký.
Trong 6 tháng đầu năm 2010, có 14 dự án đầu tư của các nhà đầu tư trong nước được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 3.295 tỉ đồng. Trong đó, Khu kinh tế Dung Quất có 04 dự án với vốn đăng ký 266 tỉ đồng; các Khu công nghiệp tỉnh có 01 dự án cấp mới và 01 dự án điều chỉnh với vốn đăng ký 92 tỉ đồng; khu vực còn lại của tỉnh có 9 dự án với vốn đăng ký trên 2.937 tỉ đồng. Trong các dự án được cấp mới, có một số dự án có qui mô vốn khá lớn như: Dự án thủy điện Sơn Trà 1 với vốn đăng ký là 1.483 tỷ đồng, dự án Bệnh viện đa khoa Quốc tế Quảng Ngãi với vốn đăng ký là 800 tỷ đồng, dự án thủy diện Sơn Trà 2 với vốn đăng ký là 397 tỷ đồng và dự án cấp nước của Vinaconex với vốn đăng ký trên 500 tỷ đồng. Như vậy, cho đến thời điểm này trên địa bàn tỉnh có 265 dự án đầu tư của các nhà đầu tư trong nước được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 190.946 tỷ đồng. Vốn thực hiện của các dự án đầu tư đạt 67.167 tỷ đồng, bằng 35% so với tổng vốn đăng ký; trong đó, các dự án tại KKT Dung Quất và các KCN của tỉnh được triển khai nhanh, có tỷ lệ vốn thực hiện/vốn đăng ký đạt 77%; riêng các dự án bên ngoài KKT, KCN triển khai chậm so với tiến độ đăng ký.
2. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội
a) Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ diễn ra sôi nổi, rộng khắp với nhiều hình thức phong phú và hấp dẫn. Tỉnh đã tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ tuyên truyền kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, mừng Xuân Canh Dần 2010; tổ chức lễ dâng hương nhân kỷ niệm 104 năm ngày sinh cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tưởng niệm 42 năm ngày xảy ra vụ thảm sát Sơn Mỹ; lễ kỷ niệm 65 năm ngày khởi nghĩa Ba Tơ, kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Ngãi; lễ khao lề thế lính Hoàng Sa và khánh thành Khu lưu niệm Đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa, kỷ niệm 45 năm ngày Chiến thắng Ba Gia, kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh,... vàtổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Phong trào thể dục thể thao ở các đơn vị, địa phương tiếp tục phát triển; hoạt động thể dục thể thao được tổ chức rộng khắp đến các xã, phường, thị trấn, vùng sâu, vùng xa trong tỉnh. Ngành thể dục thể thao đã tổ chức thành công các giải: Giải cờ tướng tỉnh Quảng Ngãi lần thứ 17; giải vô địch các câu lạc bộ boxing trẻ, thiếu niên nam, nữ tỉnh Quảng Ngãi; giải Cup các câu lạc bộ boxing nam, nữ toàn quốc với sự tham gia của 19 tỉnh, thành phố; giải bóng chuyền Nông dân truyền thống tranh cúp Bông lúa vàng tỉnh Quảng Ngãi lần thứ 17; giải bóng chuyền bãi biển tour 1 toàn quốc năm 2010;... Tham gia thi đấu các giải khu vực và toàn quốc: Giải vô địch Wushu toàn quốc năm 2010; giải cúp các câu lạc bộ Pencak Silat toàn quốc năm 2010; giải võ thuật cổ truyền toàn quốc năm 2010;... đạt 6 huy chương đồng. Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở các địa phương được tiếp tục duy trì, củng cố; ngành đang triển khai công tác chuẩn bị tổng kết 10 năm (2000-2010) phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa.
Về du lịch: Hoạt động du lịch có nhiều khởi sắc, tổng doanh thu du lịch 6 tháng đầu năm ước đạt 103 tỷ đồng, tăng 49% so với cùng kỳ năm 2009 và đạt 51% kế hoạch năm; trong đó thu bằng ngoại tệ ước đạt 704.000 USD, tăng 55% so với cùng kỳ năm 2009. Tổng lượt khách ước đạt 131.500 lượt người, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2009 và bằng 39% so với kế hoạch năm; trong đó khách quốc tế ước đạt 12.250 lượt, đạt 53% so với kế hoạch năm. Để triển khai các chương trình du lịch trong năm 2010, tỉnh đã phối hợp với các địa phương, các doanh nghiệp tổ chức các hoạt động du lịch chào mừng các ngày lễ lớn; các hoạt động quảng bá du lịch về đảo Lý Sơn và Quảng Ngãi trong dịp Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa và khánh thành Khu lưu niệm Đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa;...
b) Y tế:
Công tác phòng, chống dịch bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân tiếp tục được tăng cường; thường xuyên giám sát dịch tễ, phát hiện sớm những ca bệnh và ngăn chặn kịp thời không cho dịch lớn xảy ra. Tình hình dịch bệnh sốt xuất huyết trên địa bàn tỉnh đang có xu hướng gia tăng; tổng số ca mắc bệnh là 492 ca, tăng 3,64 lần so với cùng kỳ năm 2009. Các ngành chức năng đẩy mạnh công tác tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch trong nhân dân, huy động cộng đồng tham gia bảo vệ và nâng cao sức khỏe. Tổ chức lễ khởi công xây dựng Bệnh viện đa khoa Quốc tế Quảng Ngãi; thực hiện công tác điều động bác sĩ tăng cường về tuyến xã, đến nay đã có 182/184 xã có bác sĩ.
Đẩy mạnh các hoạt động phòng chống HIV/AIDS, hạn chế tốc độ lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng (xét nghiệm 6.030 ca, dương tính 16 ca; toàn tỉnh hiện có 550 ca nhiễm HIV/AIDS, đã chết 123); xây dựng kế hoạch, nội dung công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; thực hiện tốt công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; thực hiện công tác phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, phấn đấu giảm số trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cả năm còn 20%.
Công tác khám, chữa bệnh được quan tâm đúng mức, toàn ngành tiếp tục chấn chỉnh tinh thần, thái độ phục vụ, nâng cao y đức, cứu chữa kịp thời các trường hợp khẩn cấp và tổ chức khám, chữa bệnh lưu động phục vụcác xã khó khăn trong tỉnh; tổ chức kiểm tra vệ sinh, an toàn thực phẩm trên địa bàn toàn tỉnh; tổ chức tiêm chủng mở rộng cho các cháu trong độ tuổi và phụ nữ có thai. Hiện nay, công suất sử dụng giường bệnh bình quân chung các bệnh viện khá cao, riêng Bệnh viện Đa khoa tỉnh tiếp tục trong tình trạng quá tải (135,47%).
c) Giáo dục và Đào tạo
Ngành Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức vận động cán bộ, giáo viên, học sinh và những nguồn tài trợ khác giúp cho học sinh đủ ăn, đủ mặc, đủ sách vở để đến lớp với tổng số học sinh được giúp đỡ là 33.303 em, tổng số tiền là 10,837 tỷ đồng; các đơn vị giáo dục trong tỉnh cũng đã huy động 2,153 tỷ đồng để cấp học bổng, giúp đỡ học sinh có hoàn cản khó khăn được tiếp tục đến lớp; tổ chức các hội thi của ngành; tổ chức hội nghị đánh giá công tác tuyển sinh năm 2009, triển khai công tác tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp năm 2010,...
Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm học 2009 - 2010 toàn tỉnh có hơn 20.450 thí sinh tham gia thi tốt nghiệp THPT, trong đó hệ Giáo dục phổ thông có 18.282 thí sinh và đỗ tốt nghiệp 17.596 thí sinh, đạt tỷ lệ 96,24%, tăng hơn 22,9% so với năm trước. Hệ giáo dục thường xuyên có 2.174 thí sinh dự thi và đỗ tốt nghiệp 1.600 thí sinh, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp 73,59%. Toàn tỉnh có 5 trường đạt tỷ lệ 100% học sinh thi đỗ tốt nghiệp: Trường THPT chuyên Lê Khiết, THPT Trần Quốc Tuấn, THPT Bình Sơn, THPT Lý Sơn và THPT Trà Bồng.
Tiếp tục triển khai xây dựng, nghiệm thu và đưa vào sử dụng các công trình giáo dục từ các nguồn vốn ADB, chương trình mục tiêu quốc gia, nguồn vốn kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên; tổ chức kiểm tra, tổng hợp kết quả duy trì chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở và tổ chức hội nghị đánh giá kết quả, tiến độ, triển khai kế hoạch xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia đến cuối năm 2010.
Thực hiện Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2010, trong 2 năm 2008, 2009 toàn tỉnh đã thực hiện được 654/2.224 phòng học được duyệt, đạt tỷ lệ 29,4%; 132/537 phòng công vụ cho giáo viên được duyệt, đạt tỷ lệ 24,6%. Năm 2010, kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ là 37,641 tỷ đồng và vốn ngân sách tỉnh là 40 tỷ đồng, thực hiện 822 phòng học và 132 phòng công vụ giáo viên; hiện nay các địa phương đang khẩn trương hoàn tất các thủ tục đầu tư xây dựng, lựa chọn nhà thầu trình cấp thẩm quyền phê duyệt, sẽ khởi công vào tháng 7 và tháng 8 (đã giải ngân đạt 20% kế hoạch, chủ yếu là vốn trái phiếu Chính phủ).
d) Lao động - Thương binh và Xã hội
Công tác quản lý lao động - việc làm - tiền lương, quản lý đào tạo nghề,chính sách thương binh - liệt sĩ và người có công, bảo trợ xã hội - phòng chống tệ nạn xã hội và công tác trẻ em, hoạt động Quỹ bảo trợ trẻ em được triển khai theo kế hoạch. Đã giải quyết việc làm cho 16.900 lao động, trong đó tạo việc làm mới cho khoảng 8.100 lao động. Trung tâm giới thiệu việc làm tỉnh đã tổ chức 4 phiên giao dịch việc làm tại các huyện, thành phố và đã có hơn 2.300 lao động đến tư vấn và đăng ký học nghề, trong đó có 292 lao động đăng ký xuất khẩu lao động.
Thực hiện Đề án xuất khẩu lao động giai đoạn 2009-2011, 6 tháng đầu năm 2010 đã có 290 người đi xuất khẩu lao động (đạt 14,5% kế hoạch năm), 70 người đang học giáo dục định hướng và 164 người chờ xuất cảnh; trong đó, số lao động đi xuất khẩu lao động theo Quyết định 71/2009/QĐ-TTg là 266 người, số chờ xuất cảnh là 124 người. Mặc dù, được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh và UBND tỉnh, công tác xuất khẩu lao động của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, số lao động xuất khẩu đạt thấp so với kế hoạch được giao. Nguyên nhân chủ yếu là do người lao động còn tâm lý e ngại, sợ rủi ro khi tham gia đi làm việc ở nước ngoài; có ít doanh nghiệp xuất khẩu lao động đến tỉnh ta để tham gia tuyển chọn lao động; thị trường lao động chưa phong phú, không hấp dẫn người lao động, chủ yếu là các thị trường có thu nhập thấp như Malaysia, Trung Đông,... Tập trung chỉ đạo việc tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Năm 2010 tỉnh đã giao chỉ tiêu đào tạo trung cấp nghề cho 1.800 lao động; hiện nay đã đào tạo 200 chỉ tiêu và tổ chức tuyển sinh; đồng thời tổ chức đào tạo nghề ngắn hạn cho 750 lao động nông thôn và đào tạo nghề ngắn hạn cho 694 lao động là đối tượng hộ nghèo.
Tổ chức đi thăm, tặng quà cho các đối tượng chính sách tiêu biểu và viếng Nghĩa trang liệt sĩ nhân dịp Tết Canh Dần; trình Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho 48 mẹ; trình Bộ lao động – Thương binh và Xã hội xem xét, giải quyết 1.306 hồ sơ người có công còn tồn đọng theo kế hoạch 611; đã giải quyết 1.783 hồ sơ người có công với cách mạng được hưởng chính sách theo quy định tại Nghị định số 54/2006/NĐ-CP của Chính phủ và giải quyết 765 hồ sơ theo Quyết định 290/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện việc hỗ trợ cải thiện nhà ở cho đối tượng tiền khởi nghĩa theo Quyết định số 117/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; phân bổ chỉ tiêu điều dưỡng tập trung và tại gia đình cho 12.884 đối tượng (tập trung 2.200 đối tượng) với tổng kinh phí 9.679 triệu đồng và tổ chức đưa 200 đối tượng người có công với cách mạng đi điều dưỡng tập trung tại Quảng Nam.
Triển khai thực hiện tốt các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, chăm sóc trẻ em, thực hiện chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo năm 2010, chương trình hỗ trợ đối với người lao động mất việc làm và chương trình hỗ trợ giảm nghèo đối với các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2009/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ. Phối hợp với Cục dự trữ Quốc gia khu vực Nghĩa Bình tiến hành cấp 2.000 tấn gạo cứu tế đỏ lửa cho 14 huyện, thành phố trong tỉnh, bổ sung khắc phục hậu quả bão, lũ cho các địa phương cứu đói giáp hạt năm 2010. Phối hợp với Bảo hiểm Xã hội tỉnh hướng dẫn các địa phương chốt danh sách mua thẻ bảo hiểm y tế năm 2010 cho các đối tượng theo qui định; triển khai tháng hành động vì trẻ em năm 2010, hỗ trợ trên 1,5 tỷ đồng để thăm và tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, hỗ trợ kinh phí phẫu thuật cho trẻ em bị tim bẩm sinh, trẻ bị khuyết tật,...
Thực hiện chính sách hỗ trợ xây dựng nhà ở theo Quyết định số 167/2008/ QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh đã phân bổ kinh phí để xây dựng 10.106 nhà đối tượng nghèo, đến nay đã xây dựng xong, đưa vào sử dụng 8.394 nhà, đang xây dựng 1.407 nhà, đang tập kết vật tư chuẩn bị xây dựng 305 nhà. UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp phải tập trung hoàn thành dứt điểm trong tháng 7/2010.
đ) Công tác dân tộc và miền núi: Các chương trình dự án và chính sách đối với đồng bào dân tộc và miền núi được các ngành, địa phương chú trọng triển khai thực hiện như: Chương trình 135-II, Hợp phần nâng cao năng lực và học hỏi thuộc Chương trình Hỗ trợ thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II (ISP), Chính sách theo Quyết định số 1592/2009/QĐ-TTg, Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo vùng khó khăn theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg, Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg,... góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững.
Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách, chương trình, dự án còn chậm; đến nay hầu hết các công trình đầu tư hoặc các hoạt động thuộc các chính sách đều đang ở giai đoạn hoàn thiện thủ tục đầu tư và phê duyệt kế hoạch. Nguyên nhân là do việc phân khai kế hoạch vốn đầu tư cho UBND cấp xã và các đơn vị được giao làm chủ đầu tư các dự án của UBND huyện còn rất chậm; sự hỗ trợ của các đơn vị chức năng cấp huyện còn hình thức, chưa đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ của cấp xã để hoàn thành các thủ tục chuẩn bị đầu tư; một số xã được giao làm chủ đầu tư năng lực còn hạn chế, còn trông chờ và ỷ lại vào sự hỗ trợ của cấp trên,...
Riêng Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ đến nay đã giải ngân 46/120 tỷ đồng, bằng 38% kế hoạch; trong đó huyện Sơn Hà giải ngân 70,5% kế hoạch, đã hoàn thành 10 công trình, đến tháng 9/2010 sẽ hoàn thành 15 công trình còn lại; huyện Minh Long, giải ngân 51% kế hoạch, đã hoàn thành 7 công trình, đến tháng 9/2010 hoàn thành thêm 4 công trình; huyện Trà Bồng giải ngân 46,6%, đã hoàn thành 4 công trình. Các huyện còn lại tuy đã tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện, nhưng nhìn chung tiến độ vẫn còn chậm. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là vướng đền bù giải phóng mặt bằng, một số chủ đầu tư chưa thường xuyên đôn đốc các đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ xây dựng.
e) Khoa học và Công nghệ
Tiếp tục triển khai chương trình khoa học - công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp và 17 đề tài, dự án khoa học - công nghệ cấp tỉnh chuyển tiếp từ năm 2009 sang; tiếp tục thực hiện 2 dự án thuộc chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học – công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi. Triển khai thực hiện mới 3 dự án: Hỗ trợ tiếp nhận công nghệ khai thác hải sản bằng lồng bẫy cải tiến cho ngư dân tại KKT Dung Quất, Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây dựng vùng nguyên liệu mía trên đất gò đồi và Ứng dụng kỹ thuật trồng sắn xen canh, thâm canh và luân canh.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ được tăng cường đã góp phần nâng cao nhận thức chấp hành pháp luật của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, hạn chế những sai phạm trong các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, an toàn bức xạ,... Trong 6 tháng đầu năm đã thực hiện 5 cuộc thanh tra chuyên ngành tại 128 cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụtrên địa bàn tỉnh, xử phạt vi phạm hành chính 10 cơ sở với số tiền 40 triệu đồng.
f) Thông tin và Truyền thông, Phát thanh - Truyền hình: Tiếp tục triển khai có hiệu quả kế hoạch, chương trình làm việc năm 2010, gắn với việc ổn định tổ chức bộ máy và hoạt động của ngành, đồng thời tổ chức triển khai hoạt động của Trung tâm Công nghệ thông tin và truyền thông. Các nội dung, chương trình công tác nhằm đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin (CNTT), cũng như việc tăng cường quản lý nhà nước về CNTT đã được chủ động triển khai thực hiện nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tuy nhiên, kết quả chưa cao, vẫn còn một số hạn chế nhất định.
Công tác quản lý nhà nước về báo chí và hoạt động báo chí ở địa phương từng bước đi vào nề nếp, có nhiều tin, bài có chất lượng, thực hiện đúng pháp luật đảm bảo được nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền và định hướng được dư luận xã hội, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng,... Các điểm Bưu điện Văn hóa xã, các vùng miền còn gặp nhiều khó khăn đã được cung cấp báo in kịp thời giúp cho người đọc nắm bắt được đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngành Viễn thông tiếp tục phát triển khá và ổn định so với cùng kỳ năm 2009; tính đến nay, số lượng thuê bao điện thoại cố định đạt 197.057 thuê bao, số lượng thuê bao điện thoại di động đạt 992.200 thuê bao; số thuê bao ADSL, XDSL đạt 21.357 thuê bao.
Đài Phát thanh Truyền hình Quảng Ngãi đã nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền và phản ánh mọi mặt đời sống xã hội, phục vụ nhu cầu thông tin, giải trí, văn hóa tinh thần cho nhân dân trên địa bàn tỉnh. Bám sát nội dung chỉ đạo, định hướng của Ban tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh; Đài đã tập trung tuyên truyền, phản ánh kịp thời các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng của tỉnh: Về tình hình Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, công tác triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 trên địa bàn tỉnh, về hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt nam dùng hàng Việt Nam”, về các gương điển hình học tập và làm theo Bác trong học tập, lao động sản xuất, thi đua yêu nước,... Bên cạnh đó, Đài đã mở các đợt tuyên truyền các ngày Lễ, kỷ niệm, sự kiện lớn của đất nước và của tỉnh. Công tác phát thanh, truyền hình được tăng cường, đã mở một số chuyên mục, chuyên đề mới như: chuyên đề Đô thị, bản tin an toàn giao thông,... Tổ chức thành công 12 chương trình phát thanh, truyền hình trực tiếp các chương trình, sự kiện của tỉnh; ổn định thời lượng phát sóng phát thanh 12 giờ/ngày, truyền hình 19 giờ/ ngày.
3. Lĩnh vực nội chính và tổ chức Nhà nước
a) Công tác Tư pháp:
Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh năm 2010. Trên cơ sở Chương trình đã được phê duyệt; các Sở, ban ngànhđã chuyển đến Sở Tư pháp đã thẩm định tính pháp lý của 36 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của UBND tỉnh và tổ chức góp ý 13 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương đảm bảo chất lượng và thời gian. Tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định về Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2010 và tổ chức Hội nghị cấp tỉnh triển khai 4 văn bản luật với gần 200 đại biểu là cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và huyện, thành phố tham dự và triển khai nhiều hình thức sinh động và hiệc quả: phát hành 2 bản tin Tư pháp, phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh thực hiện phổ biến pháp luật trên chuyên mục “18 giờ 30”,...
Công tác quản lý, đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài được thực hiện nhanh chóng, đúng pháp luật. Hoạt động công chứng, chứng thực được thực hiện tương đối tốt; công tác chứng thực ở các huyện, thành phố nhìn chung đáp ứng yêu cầu của tổ chức và công dân. Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh đã thực hiện tư vấn pháp luật cho 140 vu việc các loại, cử luật sư là cộng tác viên thực hiện đại diện, bào chữa trước tòa án 53 vụ việc; hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động được tiến hành tại 5 huyện (Trà Bồng, Tây Trà, Ba Tơ, Mộ Đức và Lý Sơn); bên cạnh việc tư vấn pháp luật Trung tâm đã tuyên truyền, phổ biến một số văn bản pháp luật,... để các đối tượng có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu kỹ hơn về các lĩnh vực pháp luật.
b) Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác thanh tra:
Các cơ quan hành chính trong tỉnh đã tiếp 2.116 lượt người khiếu nại, tố cáo, giảm 29,11% so với cùng kỳ năm 2009; tiếp nhận 2.471 đơn của 2.376 vụ khiếu nại, tố cáo, giảm 0,36% số đơn so với cùng kỳ năm 2009; có 14 vụ khiếu nại đông người (giảm 10 vụ so với cùng kỳ năm 2009), nổi lên là các vụ khiếu nại của các hộ dân ở các xã Bình Trị, Bình Thanh Tây, Bình Đông, Bình Thuận khiếu nại, yêu cầu, kiến nghị bồi thường về các nội dung: tranh chấp quyền sử dụng đất bị thu hồi để được bồi thường, khiếu nại việc áp giá đất không đúng,... UBND tỉnh đã thành lập Tổ công tác để nghiên cứu tham mưu, đề xuất cho UBND các cấp giải quyết theo thẩm quyền.
Trong 6 tháng đầu năm, tổng số vụ việc thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND tỉnh là 90 vụ khiếu nại (có 41 vụ năm 2009 chuyển sang); đã ban hành quyết định giải quyết và văn bản xử lý 39 vụ việc (có 23 vụ năm 2009 chuyển sang), đạt tỷ lệ 43,3%. Số vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của các Sở, ngành là 24 vụ; đã giải quyết được 14 vụ, đạt tỷ lệ 58,33%. Số vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của các huyện, thành phố là 83 vụ; đã giải quyết được 26 vụ, đạt tỷ lệ 31,33%.
Ngành thanh tra đã triển khai 69 cuộc thanh tra, kiểm tra kinh tế - xã hội (47 cuộc theo kế hoạch, 22 cuộc đột xuất) và đã kết thúc 44 cuộc thanh tra hành chính tại 165 đơn vị. Qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện tổng giá trị sai phạm 7,966 tỷ đồng; đã kiến nghị thu hồi vào ngân sách Nhà nước 3,532 tỷ đồng, 95,727 ha đất; kiến nghị xử lý khác 4,434 tỷ đồng; xử phạt vi phạm hành chính 6 trường hợp với tổng số tiền 19 triệu đồng; xử lý hành chính 2 tập thể, 40 cá nhân và đề xuất nhiều kiến nghị chấn chỉnh việc chấp hành chính sách, pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội.
c) Công tác phòng, chống tham nhũng:
UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương hoàn thành việc kê khai tài sản, thu nhập lần đầu và kê khai bổ sung theo qui định của Chính phủ, đến nay có 100% cán bộ, công chức, viên chức thuộc diện kê khai tài sản, thu nhập theo qui định đã hoàn thành việc kê khai theo mẫu qui định. Các cơ quan hành chính nhà nước trong tỉnh tiếp tục thực hiện Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy chính quyền địa phương ban hành kèm theo Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ và Quy chế văn hóa công sởtại các cơ quan hành chính nhà nước ban hành tại Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; đến nay hầu hết các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh thực hiện tốt quy tắc này, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ được nâng lên và chưa có vụ việc vi phạm nổi cộm để các cơ quan chức năng phải xử lý theo qui định.
Các ngành, các cấp tiếp tục thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến để nâng cao nhận thức pháp luật về phòng, chống tham nhũng đến toàn thể cán bộ, công chức trong tỉnh. Trong 6 tháng đầu năm, Thanh tra tỉnh đã thực hiện 5 cuộc thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng tại 10 đơn vị; qua thanh tra đã phát huy những nhân tố tích cực và chấn chỉnh những yếu kém trong việc triển khai công tác phòng, chống tham nhũng ở các cơ quan, đơn vị và người đứng đầu.
d) Về An ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội:
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác tuyển quân đảm bảo các bước từ vận động, tuyên truyền đến việc giao nhận quân, đạt 100% kế hoạch đề ra. Công tác bảo vệ an ninh vùng biển được tăng cường, các lực lượng vũ trang đã chủ động năm chắc diễn biến tình hình, xử lý kịp thời và có hiệu quả các vụ việc xảy ra, đấu tranh phòng chống tội phạm đạt kết quả tốt, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới biển của tỉnh.
Tình hình tai nạn giao thông vẫn tiếp tục gia tăng. Trong 5 tháng đầu năm 2010, toàn tỉnh xảy ra 100/92 vụ tai nạn giao thông, làm chết 95/84 người, bị thương 47/66 người. So với cùng kỳ năm 2009, tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 100/88 vụ (tăng 12 vụ), làm chết 95/80 người (tăng 15 người), bị thương 47/66 người (giảm 19 người); tai nạn giao thông đường sắt không xảy ra (giảm 04 vụ và 04 người chết); tai nạn giao thông đường thuỷ không xảy ra (không tăng, không giảm).
đ) Về công tác ngoại vụ:
Công tác xúc tiến, vận động viện trợ phi chính phủ trong 06 tháng đầu năm tiếp tục được duy trì và mở rộng, tổng giá trị viện trợ phi chính phủ nước ngoài đạt trên 45 tỷ đồng với 34 chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục - đào tạo, y tế cộng đồng, nước sạch và vệ sinh môi trường, hỗ trợ trẻ em nghèo, người khuyết tật. Công tác Lễ tân - Lãnh sự - Báo chí được thực hiện nhanh, gọn, đảm bảo tính trọng thị, chu đáo; đã hướng dẫn và quản lý hoạt động của 81 đoàn vào với 207 lượt khách quốc tế đến thăm, làm việc, hoạt động nhân đạo, từ thiện, tìm hiểu cơ hội đầu tư và phối hợp hướng dẫn, quản lý 3 đoàn gồm 8 phóng viên đến tác nghiệp báo chí; cử 34 đoàn với 60 lượt cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh đi nước ngoài tham dự hội nghị, hội thảo, tham quan, trao đổi kinh nghiệm và học tập.
Công tác bảo hộ ngư dân và tàu thuyền của tỉnh bị nước ngoài bắt giữ tiếp tục được duy trì thường xuyên. Trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh có 1 tàu của ngư dân huyện Lý Sơn bị tàu lạ đâm chìm khi đang hành nghề khai thác trong vùng biển quần đảo Hoàng Sa và 9 tàu gồm 122 ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ, trong đó có 4 tàu cùng 58 ngư dân bị tịch thu tài sản và được thả về ngay sau đó. Tính đến nay, toàn tỉnh vẫn còn 22 tàu và 95 ngư dân đang bị các nước bắt giữ. Hiện Sở Ngoại vụ đang tích cực phối hợp với các cơ quan hữu quan liên quan sớm đưa số ngư dân trên về nước, ổn định cuộc sống và đoàn tụ gia đình.
e) Về công tác tổ chức nhà nước:
UBND tỉnh tập trung chỉ đạo các Sở, ban ngành trong tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, thực hiện đúng nhiệm vụ phân cấp quản lý cán bộ, công chức, viên chức; áp dụng cơ chế một cửa, một cửa liên thông, một cửa hiện đại trên các lĩnh vực theo qui định của Chính phủ, đặc biệt là triển khai mô hình áp dụng một cửa liên thông hiện đại tại UBND thành phố Quảng Ngãi. Nhờ đó đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các tổ chức, công dân đến quan hệ công tác; đảm bảo trật tự kỷ luật, kỷ cương hành chính trong bộ máy quản lý nhà nước.
Tiếp tục thực hiện Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, nhiều đơn vị có kết quả rà soát, đơn giản hóa TTHC đạt tỷ lệ cao (trên 60%), nhiều đơn vị mạnh dạn kiến nghị loại bỏ các TTHC không cần thiết hoặc các yêu cầu, điều kiện còn phiền hà, gây khó khăn cho tổ chức, công dân trong quá trình tổ chức thực hiện; một số ý kiến đề xuất có hướng thông thoáng hơn cho người dân, doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư, đăng ký kinh doanh,...
Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành và chỉ đạo các ngành, địa phương tiếp tục rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của một số Sở, ban ngành cho phù hợp; tiếp tục thực hiện xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao; từng bước hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp trên địa bàn tỉnh nhằm đảm bảo cho các đơn vị hoạt động có hiệu quả.
Công tác cán bộ từ khâu quy hoạch, tuyển chọn, đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ ngày càng đi vào nề nếp, đảm bảo đúng qui trình của Đảng và Nhà nước. Tiếp tục thực hiện tốt và đồng bộ 5 cơ chế chính sách của tỉnh, phối hợp với Trường Đại học Công nghiệp cơ sở tại Miền Trung tổ chức khai giảng lớp Đại học cử tuyển ngành quản trị kinh doanh cho 60 học sinh các huyện miền núi; tuyển dụng mới 121 bác sĩ cho các xã, phường, thị trấn... Các ngành, các cấp đã thường xuyên chú ý công tác xây dựng và rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ đảm bảo đạt tiêu chuẩn chức danh theo quy định; việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được chú trọng, đẩy mạnh nhất là đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ xã, phường, thị trấn và đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức.
Công tác quản lý địa giới hành chính không có xảy ra tranh chấp, tuân thủ theo đúng qui định của Nhà nước; công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, thi đua khen thưởng và văn thư lưu trữ thực hiện theo đúng qui định pháp luật và đã giúp các cấp, các ngành uốn nắn kịp thời các sai sót và phát huy mặt tích cực.
Nhìn chung, 6 tháng đầu năm 2010 kinh tế của tỉnh vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ năm 2009 trên hầu hết các ngành, lĩnh vực: Tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP) tăng 60,6%, Giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng tăng 217,3%, giá trị sản xuất nông – lâm - ngư nghiệp tăng 3,3%, giá trị sản xuất dịch vụ tăng 12,2%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 30,2%; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 586,8%, nhiều sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp tăng cao,.... Mặt khác, nhiều dự án đầu tư bước đầu phát huy hiệu quả thiết thực, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, kỷ niệm các ngày lễ lớn của tỉnh diễn ra sôi nổi; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững,... đã góp phần làm cho tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh 6 tháng đầu năm ổn định và có chiều hướng phát triển tốt.
Tuy nhiên, tình hình nắng nóng gay gắt kéo dài hiện nay dẫn đến tình trạng thiếu điện, thiếu nước sinh hoạt và sản xuất, ảnh hướng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của người dân, nhất là nguy cơ thiếu nước trong vụ Hè Thu; tiến độ thi công và giải ngân các công trình, dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước còn chậm; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn nhiều ách tắc; tình hình tàu thuyền của ngư dân ta đi đánh bắt xa bờ bị nước ngoài bắt giữ ngày càng nhiều,... là những khó khăn không nhỏ trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng cuối năm.
II. ƯỚC THỰC HIỆN MỘT SỐ CHỈ TIÊU NGHỊ QUYẾT SỐ 17/NQ-HĐND VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2010 VÀ NHIỆM VỤ 6 THÁNG CUỐI NĂM 2010
1. Ước thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu năm 2010
Sau 6 tháng triển khai thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-HĐND ngày 10/12/2009 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa X, kỳ họp thứ 22 về kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội năm 2010; cùng với một số kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn còn những tồn tại và khó khăn rất lớn. Tuy nhiên, năm 2010 là năm cuối của Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006- 2010, việc thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 2010 có ý nghĩa rất quan trọng, đồng thời cũng tạo tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội trong giai đoạn tiếp theo; vì vậy UBND tỉnh sẽ chỉ đạo và cùng các ngành, các cấp, các địa phương phấn đấu hoàn thành kế hoạch được giao (Phụ lục 1).
Trong đó, đặc biệt chú trọng các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Một số chỉ tiêu KT-XH chủ yếu
|
Kế hoạch
năm 2010
|
ƯTH 6 tháng 2010
|
% TH so với KH 2010
|
(1) Tổng sản phẩm trên địa bàn (Tỷ đồng)
|
8.695
|
4.028
|
46,33
|
Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
|
34-35
|
60,6
(so với
cùng kỳ năm 2009)
|
|
(2) Tổng giá trị sản xuất tăng (%)
|
|
|
|
- GTSX ngành Nông- Lâm- Thủy sản
tăng (%)
|
4-4,5
|
3,3
(nt)
|
|
- GTSX ngành C.Nghiệp- X.Dựng tăng (%)
|
89-90
|
217,3
(nt)
|
|
- GTSX ngành dịch vụ tăng (%)
|
14 - 15
|
12,2
(nt)
|
|
(3) Sản lượng lương thực có hạt (Tấn)
|
448.821
|
228.532
|
50,92
|
(4) Sản lượng thủy sản khai thác và nuôi
trồng (Tấn)
|
99.700
|
52.157
|
52,31
|
(5) Kim ngạch Xuất khẩu (Triệu USD)
|
230
|
180
|
78,17
|
(6) Tổng thu NSNN trên địa bàn (Tỷ đồng)
|
14.370
|
4.863,7
|
33,8
|
(7) Tạo việc làm mới & tăng thêm
việc làm (L.động)
|
35.000
|
16.900
|
48,3
|
(8) Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ(%)
|
100
|
98,9
|
|
2. Một số nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2010
Cùng với việc triển khai thực hiện Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày 29/01/2010 của UBND tỉnh ban hành một số giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán thu, chi ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Ngãi năm 2010 và thực hiện các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, không để xảy ra lạm phát cao của Chính phủ tại Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/04/2010; UBND tỉnh giao nhiệm vụ cho các sở, ban ngành tỉnh và huyện, thành phố trong tỉnh theo lĩnh vực được phân công tập trung triển khai thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
a) Tiếp tục chỉ đạo các Sở, Ban, ngành và UBND các huyện, thành phố chuẩn bị tốt các nội dung phục vụ Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ 18 (nhiệm kỳ 2010-2015).
Sau khi có Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 18, nhiệm kỳ 2010-2015, tập trung xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương 5 năm 2011 -2015, trình HĐND thông qua, làm cơ sở để triển khai thực hiện.
b) Tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo, điều hành của Chỉnh phủ, Thủ tướng Chính phủ và UBND tỉnh về tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm về việc tuân thủ các quy định hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn, không để xảy ra tăng đột biến về giá, khan hiếm hàng hóa thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống; đảm bảo an sinh xã hội. Tích cực hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp về thủ tục hành chính, nguồn nhân lực, vay vốn... tạo điều kiện thuận lợi nhất để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
c) Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán thu, chi ngân sách năm 2011; tổ chức kiểm điểm sự chỉ đạo điều hành, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội năm 2010, bàn giải pháp thực hiện kế hoạch năm 2011; ban hành các quyết định: Giao chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách Nhà nước năm 2011; một số giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2011.
d) Tập trung chỉ đạo, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, các công trình lớn, trọng điểm của tỉnh và giải ngân vốn đầu tư, vốn Trái phiếu Chính phủ thuộc kế hoạch năm 2010. Tiến hành rà soát để thực hiện cắt giảm, điều chuyển nguồn vốn của các công trình, dự án đến tháng 6 chưa giao dịch với Kho bạc Nhà nước, chưa hoàn chỉnh thủ tục để khởi công nhằm bổ sung vốn cho những dự án quan trọng, đủ điều kiện thực hiện nhưng còn khó khăn về nguồn vốn và những dự án có khả năng hoàn thành trong năm 2010. Đồng thời, thực hiện rà soát và tổng hợp nhu cầu ứng vốn năm 2011 của các dự án, công trình quan trọng, cấp bách cần đẩy nhanh tiến độ để đưa vào sử dụng trong năm 2010 mà ngân sách năm 2011 nhất thiết phải bố trí vốn để thực hiện.
đ) Thực hiện việc điều hành ngân sách Nhà nước theo đúng quy định của Chính phủ và Nghị quyết HĐND tỉnh, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi; hạn chế tối đa việc bổ sung ngoài dự toán. Ưu tiên nguồn lực để thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm và các chính sách an sinh xã hội. Thường xuyên kiểm tra các Sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố nghiêm túc thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí hành chính; triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng kinh phí chi hành chính, trước hết là đối với mua sắm phương tiện, tiếp khách, lễ hội và các khoản chi thường xuyên khác,...
e) Chỉ đạo sản xuất nông nghiệp vụ Hè Thu năm 2010 đảm bảo đúng lịch thời vụ và cơ cấu giống; cung ứng đủ và kịp thời giống lúa, hoa màu cho nông dân; tổ chức thực hiện các biện pháp chống hạn, đảm bảo nguồn nước sinh hoạt và phục vụ sản xuất nông nghiệp vụ Hè Thu; phòng cháy, chữa cháy rừng trong mùa khô; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn tình trạng chặt phá, khai thác, đốt rừng, mua bán, vận chuyển gỗ và lâm sản trái phép; đề cao cảnh giác và chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm; kiểm soát tình hình dịch bệnh nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là dịch bệnh tôm.
f) Đẩy nhanh tiến độ đo đạc thành lập bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại 26 xã, thị trấn thuộc các huyện: Tư Nghĩa, Minh Long, Lý Sơn (thuộc Dự án VLAP); đến cuối năm 2010 hoàn thành đo đạc và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 5 xã huyện Minh Long và 3 xã huyện Lý Sơn. Tiến hành điều tra, khảo sát, xây dựng bảng giá các loại đất năm 2011 của các huyện, thành phố trình UBND tỉnh, thông qua HĐND tỉnh và công bố có hiệu lực thực hiện tại thời điểm ngày 01/01/2011. Tăng cường sự phối hợp với Cảnh sát môi trường trong quá trình kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật về môi trường, đồng thời kiên quyết xử lý đối với các đơn vị, tổ chức vi phạm phát luật về bảo vệ môi trường.
g) Nâng cao năng lực nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất và đời sống. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với học sinh, sinh viên. Chú trọng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đẩy mạnh xã hội hóa để huy động tốt hơn các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao.
h) Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, đặc biệt là công tác xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm. Triển khai thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo tại 6 huyện miền núi của tỉnh theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu Quốc gia; các chương trình, dự án và các giải pháp, chính sách an sinh xã hội đã ban hành để hỗ trợ sản xuất, ổn định đời sống đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn Quốc gia còn dưới 15% trên tổng số hộ dân cư.
i) Tiếp tục thực hiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Ngãi theo Nghị quyết 06/NQ-TU của Tỉnh ủy, chuẩn hóa tiêu chuẩn trình độ cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu công việc ngày càng cao, nhất là việc triển khai Đề án tăng cường nhân lực cho UBND các xã thuộc 06 huyện miền núi để thực hiện tốt Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng gọn nhẹ, công khai, minh bạch, rút ngắn thời gian cho tổ chức và công dân. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ về đơn giản hoá thủ tục hành chính.
k) Tập trung chỉ đạo giải quyết có kết quả khiếu nại, tố cáo của công dân; có giải pháp hợp lý và hiệu quả nhằm giải quyết tốt các vụ việc khiếu nại tồn đọng, phức tạp, kéo dài; kịp thời giải quyết các vụ việc khiếu nại mới phát sinh. Tập trung thanh tra chuyên đề diện rộng về việc chấp hành chính sách, pháp luật Bảo hiểm Xã hội, Bảo hiểm Y tế. Thanh tra, kiểm tra các công trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản; việc quy hoạch sử dụng đất; việc triển khai thực hiện các dự án cụm công nghiệp, làng nghề; việc thực hiện công tác đền bù ở một số dự án; việc quản lý thu, chi ngân sách, quản lý tài sản công,... gắn với việc thanh tra chức trách công vụ của cán bộ, công chức khi thực hiện các nhiệm vụ nói trên. Thực hiện tốt chương trình hành động của UBND tỉnh về phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
l) Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; tiếp tục triển khai các biện pháp trấn áp tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội; kiềm chế tai nạn giao thông. Triển khai công tác gọi công dân nhập ngũ đợt II năm 2010, đảm bảo hoàn thành 100% chỉ tiêu được giao. Tiếp tục chỉ đạo các Sở, Ban, ngành và UBND các huyện, thành phố chuẩn bị các nội dung phục vụ Đại hội Đảng bộ các cấp.
m) Thực hiện tốt công tác bảo vệ chủ quyền vùng biển; tập trung lực lượng, phương tiện đấu tranh phòng, chống tàu thuyền nước ngoài xâm phạm lãnh hải trái phép và sử dụng vật liệu nổ đánh bắt hải sản; tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát ngư dân và tàu thuyền khai thác thủy sản trên biển, xử lý kiên quyết đối với các phương tiện không đăng ký, đăng kiểm, không có biển số nhằm hạn chế rủi ro về tính mạng và tài sản của ngư dân; chú trọng công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển; phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân khu 5 khảo sát, xây dựng khu kinh tế - quốc phòng huyện Lý Sơn./.
III. MỘT SỐ NÉT CHỦ YẾU VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 7/2010
1. Lĩnh vực kinh tế:
a) Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp trong tháng 7/2010 đạt 1.902,7 tỷ đồng (theo giá CĐ 1994), tăng 149,9% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,4% so tháng 6. Tính chung 7 tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp đạt gần 10.655,3tỷ đồng (theo giá CĐ 1994), tăng 297,3% so với cùng kỳ năm 2009 và bằng 61,8% kế hoạch năm (theo giá so sánh năm 1994); trong đó, khu vực kinh tế nhà nước đạt 8.618,1 tỷ đồng, gấp 10,53 lần cùng kỳ năm trước (do sản lượng sản phẩm của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất tăng cao); kinh tế ngoài nhà nước đạt gần 1.904,2 tỷ đồng, tăng 7,7%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 133,1 tỷ đồng, tăng 40,4%.
Nhiều sản phẩm tăng khá so cùng kỳ như: Thủy sản chế biến tăng 14,4%; bia tăng 40,8%; nước khoáng và nước tinh khiết tăng 27,9%; đá khai thác các loại tăng 6,0%; sữa các loại tăng 67,9%; dăm gỗ nguyên liệu giấy tăng 206,2%; sản phẩm lọc hóa dầu đạt gần 2,96 triệu tấn, gấp 14,24 lần cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, bên cạnh đó có một số sản phẩm do thiếu nguồn nguyên liệu và khó khăn trong tiêu thụ nên đạt thấp so cùng kỳ như: Đường RS giảm 9,4%; quần áo may sẵn giảm 20,9%; tinh bột mỳ giảm 39,9%,...
b) Sản xuất nông - lâm - thuỷ sản và tài nguyên môi trường
Sản xuất nông nghiệp: Nhiệm vụ trọng tâm trong tháng là chăm sóc lúa Hè Thu và trồng, chăm sóc các loại cây rau đậu. Trong tháng 7, tuy ảnh hưởng cơn bão số 1 và cơn bão số 2, trên địa bàn tỉnh có mưa nhưng lượng mưa không đáng kể; thời tiết tiếp tục nắng nóng nên làm hàng ngàn ha lúa và cây hoa màu thiếu nước trầm trọng.
Diện tích lúa vụ Hè Thu gieo sạ khoảng 32.256 ha, tăng 1,7% so với kế hoạch; trong đó, diện tích gieo sạ trước lịch thời vụ (20/5/2010) là 4.040 ha; diện tích gieo sạ đúng lịch thời vụ là 28.216 ha, đạt 88,9% kế hoạch. Cơ cấu giống chủ yếu là các giống ngắn ngày nên hiện nay trà lúa gieo sạ trước ngày 20/5/2010 đang ở giai đoạn trổ - chín, trà chính vụ đang đẻ nhánh rộ, phát triển tốt.
Hiện nay, trên ruộng lúa xuất hiện các đối tượng gây hại như chuột, sâu keo, bọ trĩ, rầy nâu – rầy lưng trắng, sâu cuốn lá nhỏ. Riêng chuột, bọ trĩ có chiều hướng tăng với tổng diện tích gây hại 130 ha.
Tính đến giữa tháng 7, các loại dịch bệnh như cúm gia cầm, lở mồm long móng gia súc, không xuất hiện ổ dịch mới; bệnh tai xanh ở lợn không phát sinh. Các loại bệnh thông thường như tụ huyết trùng, dịch tả, phó thương hàn,…có phát sinh rải rác nhưng mức độ không đáng kể và giảm so với tháng trước. Trong tháng đã triển khai tiêm phòng cúm gia cầm đợt 1/2010 trên địa bàn 7 huyện, thành phố; tiêm phònglở mồm long móng đợt 1/2010 trên địa bàn 13 huyện. Nhìn chung tình hình chăn nuôi khá ổn định, các đàn gia súc, gia cầm đang có chiều hướng gia tăng. Giá các loại thịt hơi biến động không lớn và đảm bảo có lãi cho người chăn nuôi, tạo động lực để mở rộng phát triển đàn gia súc, gia cầm.
Lâm nghiệp: Công tác chăm sóc, quản lý và bảo vệ rừng được tiếp tục thực hiện trên diện rộng. Trong tháng, việc khai thác gỗ và các sản phẩm dưới tán rừng hạn chế; đến nay việc phúc tra, nghiệm thu các hạng mục lâm sinh của các Ban quản lý rừng phòng hộ, BQL Dự án 661 cơ sở đã hoàn thành. Các Ban quản lý trồng rừng triển khai thực hiện các công việc: ký hợp đồng bảo vệ rừng; chăm sóc rừng trồng lần I; khảo sát chọn vùng trồng rừng, thiết kế trình phê duyệt; chuẩn bị vườn ươm. Đã gieo tạo 2,5 triệu cây giống phục vụ công tác trồng rừng năm 2010; triển khai các biện pháp phòng cháy chữa cháy rừng trong mùa khô.
Các cơ quan chức năng đã tổ chức 230 đợt kiểm tra, truy quét, phát hiện 38 vụ vi phạm, đã xử lý 13 vụ; tịch thu 40,7 m3 gỗ các loại, 1.355 kg than, thu nộp ngân sách 180 triệu đồng.
Thủy sản: Ảnh hưởng của cơn bão số 1 (Conson) đã gây thiệt hại lớn về người và tài sản của ngư dân 02 huyện Bình Sơn, Lý Sơn; theo số liệu tổng hợp tính đến ngày 23/7/2010, có 13 ngư dân mất tích, 14 ngư dân bị thương, 07 tàu cá bị chìm, hư hỏng, thiệt hại ước tình khoảng 10 tỷ đồng. Mặc dù bị ảnh hưởng của cơn bão số 1 và việc Trung Quốc bắt giữ tàu cá cũng như việc tàu lạ đâm chìm tàu của ngư dân trong tỉnh nhưng hiện đang trong mùa cao điểm đánh bắt nên sản lượng khai thác trong tháng tăng khá, đạt 13.994 tấn, tăng 2,9% so với tháng trước; trong đó khai thác trên biển đạt 13.955 tấn; khai thác thuỷ sản nước ngọt và nước lợ đạt 39 tấn.
Tính chung 7 tháng đầu năm, sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 63.496 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước và bằng 63,7% kế hoạch năm; trong đó khai thác trên biển ước đạt63.240 tấn, khai thác nước ngọt và nước lợ 256 tấn.
Đến đầu tháng 7, toàn tỉnh thả nuôi 630 ha tôm, chủ yếu là nuôi tôm chân trắng; Sản lượng tôm thu hoạch trong tháng ước đạt 200 tấn. Lũy kế 7 tháng, sản lượng tôm thu hoạch đạt 2.504 tấn. Trong tháng có 13,7 ha diện tích nuôi tôm bị bệnh; nguyên nhân dịch bệnh tôm xảy ra là do các hộ thả nuôi con giống không đảm bảo chất lượng, giống chưa qua kiểm dịch, ao nuôi, vùng nuôi bị ô nhiễm, kết hợp với điều kiện thời tiết nắng nóng kéo dài... làm cho tôm phát bệnh chết và lây lan. Hiện nay tình hình dịch bệnh tôm vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại.
Tài nguyên môi trường: Tiếp tục điều tra, thu thập thông tin, tài liệu, số liệu, bản đồ và đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tác động đến sử dụng đất trên địa bàn tỉnh, phục vụ cho việc quy hoạch sử dụng đất tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2020.
Tiếp nhận 59 hồ sơ yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của tổ chức; đã thẩm tra 47 hồ sơ của 35 tổ chức và đã cấp 23 giấy chứng nhận cho 14 tổ chức, với tổng diện tích là 10,8 ha.
c) Thương mại và dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trong tháng ước đạt 1.421,36 tỷ đồng, giảm 4,27% so với tháng trước. Ước 7 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đạt 10.140 tỷ đồng, tăng 30,1% so với cùng kỳ năm 2009 và bằng 60,4% kế hoạch năm.
Tình hình lưu thông hàng hoá trên thị trường ổn định, giá tiêu dùng trong tháng có xu hướng chững lại; chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 tăng 0,1% so với tháng trước, tăng 3,51% so với tháng 12/2009 và tăng 6,77% so với tháng cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá một số nhóm hàng tăng cao hơn so với mức tăng chung như: thực phẩm tăng 0,48%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,52%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,32%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,40%
Kim ngạch xuất khẩu trong tháng ước đạt 19,566 triệu USD, giảm 24,3% so với tháng trước. Tính chung 7 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 204,322 triệu USD, gấp 6,4 lần so với cùng kỳ năm trước và bằng 88,8% kế hoạch năm. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong 7 tháng đầu năm là: tinh bột mỳ đạt 7,498 triệu USD; sản phẩm bằng gỗ đạt 5,542 triệu USD; thực phẩm chế biến khác đạt 1,995 triệu USD; hàng dệt may đạt 1,272 ngàn USD; hàng hoá khác đạt 187,428 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu trong tháng ước đạt 200,663 triệu USD, giảm 21% so với tháng trước. Ước 7 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu đạt 1.497 triệu USD, gấp 7,13 lần so với cùng kỳ năm 2009 và bằng 46,8% kế hoạch năm. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong 7 tháng đầu năm là dầu thô, máy móc thiết bị phụ tùng, sắt thép…
Vận tải (Không kể vận tải đường sắt): Doanh thu vận tải và các hoạt động dịch vụ vận tải trong 7 tháng đạt 274,9 tỷ đồng, tăng 16,51% so với cùng kỳ năm 2009. Trong tháng 7, ước vận chuyển được 161,75 ngàn lượt khách, tăng 1,31%; với mức luân chuyển 41,87 triệu lượt khách-km, tăng 1,34% so với tháng trước. Vận tải hàng hóa ước đạt 246,94 ngàn tấn với mức luân chuyển 45,028 triệu tấn-km, tăng 0,89% so với tháng trước.
Ước 7 tháng đầu năm, vận chuyển được 1,086 triệu lượt khách, tăng 3,48%; với mức luân chuyển 281,097 triệu lượt khách-km, tăng 3,12% so với cùng kỳ năm 2009. Vận tải hàng hóa đạt 1,708 triệu tấn, tăng 6,6%; với mức luân chuyển 311,408 triệu tấn-km, tăng 6,42% so với cùng kỳ năm 2009.
d) Thu, chi ngân sách
Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn trong tháng 7/2010 ướt đạt 988 tỷ đồng, trong đó: Thu cân đối ngân sách Nhà nước trên địa bàn là 972 tỷ đồng (thu nội địa 522 tỷ đồng, thu hoạt động xuất nhập khẩu 450 tỷ đồng); thu để lại quản lý qua ngân sách nhà nước là 16 tỷ đồng. Luỹ kế 7 tháng ước đạt 5.851,7 tỷ đồng (thu nội địa là 2.585,7 tỷ đồng, thu hoạt động xuất nhập khẩu là 3.150 tỷ đồng); thu để lại quản lý qua ngân sách nhà nước ước đạt 116 tỷ đồng, bằng 58% dự toán năm.
Chi ngân sách địa phương tháng 7/2010ước đạt 357,4 tỷ đồng; trong đó, chi đầu tư phát triển là 132 tỷ đồng, chi thường xuyên là 150 tỷ đồng, chi dự phòng ngân sách 5,4 tỷ đồng, chi thực hiện cải cách tiền lương là 14 tỷ đồng, chi chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình khác là 40 tỷ đồng, chi từ nguồn thu để lại là 16 tỷ đồng. Luỹ kế 7 tháng ước chi 2.229,4 tỷ đồng, bằng 54,3% dự toán năm, trong đó: chi đầu tư phát triển là 634,1 tỷ đồng, chi thường xuyên 1.108,1 tỷ đồng, chi thực hiện cải cách tiền lương là 96 tỷ đồng,..
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn Nhà nước do địa phương quản lý trong tháng ước đạt 330,78 tỷ đồng, tăng 6,8% so với tháng trước. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 327,24 tỷ đồng, vốn vay đạt gần 2,67 tỷ đồng.
Tính chung 7 tháng đầu năm, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn Nhà nước do địa phương quản lý đạt 1.650,85 tỷ đồng, tăng 74,2% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước đạt 1.608.07 tỷ đồng, tăng 86,0%; vốn vay ước đạt 37,56 tỷ đồng; vốn tự có của doanh nghiệp Nhà nước đạt 5,21 tỷ đồng.
Tổng kế hoạch vốn năm 2010 giao cho các dự án là 2.441,83 tỷ đồng(trong đó có 885 tỷ đồng vốn hỗ trợ có mục tiêu từ nguồn thu Nhà máy lọc dầu Dung Quất và 200 tỷ đồng tạm ứng KBNN, chưa tính kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ), ước giải ngân 7 tháng đạt khoảng 34,36 %, trong đó vốn ngân sách trong cân đối đạt 63,57%, vốn Chương trình mục tiêu đạt 30,79%, vốn hỗ trợ có mục tiêu đạt 43,1%, vốn hỗ trợ có mục tiêu từ nguồn thu NMLD đạt 27,2% , vốn nước ngoài đạt 35,37% so với kế hoạch. Vốn trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2010 là 694,441 tỷ đồng, kế hoạch năm 2009 được tiếp tục thanh toán là 233 tỷ đồng, ước 7 tháng giải ngân đạt 282 tỷ đồng, bằng 30,43%.
Để đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành chức năng liên quan tiến hành rà soát, trình UBND tỉnh điều chỉnh toàn bộ kế hoạch vốn trong đó cắt giảm kế hoạch vốn những dự án giải ngân thấp so với kế hoạch để bổ sung cho những dự án có khối lượng thực hiện lớn và những dự án hoàn thành trong năm 2010.
Trong tháng đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 46 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký là 104,64 tỷ đồng. Từ đầu năm đến nay, đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 368 doanh nghiệp (55 doanh nghiệp tư nhân, 108 Công ty TNHH 2 thành viên trở lên, 155 Công ty TNHH 1 thành viên, 50 Công ty cổ phần) với tổng vốn đăng ký là 8.941,836 tỷ đồng.
Công tác xúc tiến đầu tư được tập trung đẩy mạnh, tiếp tục công tác quảng bá, tuyên truyền và xúc tiến đầu tư vào tỉnh, hỗ trợ thúc đẩy tiến độ đầu tư các dự án được cấp phép đầu tư trên địa bàn tỉnh; tổ chức thành công chuyến xúc tiến đầu tư tại Hàn Quốc và Hội An.
2. Lĩnh vực Văn hóa - xã hội
a) Văn hoá, Phát thanh truyền hình, thông tin và truyền thông
Các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể thao, phát thanh truyền hình, thông tin, truyền thông diễn ra sôi nổi, rộng khắp trong toàn tỉnh; các phương tiện thông tin đại chúng như Đài Phát thanh và truyền hình, Báo Quảng Ngãi,...đã tập trung tuyên truyền Đại hộiĐảng bộ các huyện tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVIII; tuyên truyền Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” – chuyên đề Xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “ Là đạo đức, là văn minh” và các nội dung, chương trình hướng tới kỷ niệm 63 năm ngày Thương binh liệt sĩ, kỷ niệm 81 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam, ngày dân số thế giới (11/7), ngày truyền thống thanh niên xung phong (15/7) và các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Bước vào mùa du lịch và các ngày Lễ lớn được tổ chức trong tháng, đặc biệt diễn ra Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập ngành Du lịch Việt Nam và Giải Boxing vô địch Thiếu niên – Trẻ nam, nữ toàn quốc năm 2010 nên số lượng khách đến tham quan, du lịch tăng mạnh. Doanh thu du lịch ướt đạt 19,994 tỷ đồng, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Tổng lượt khách trong tháng ước đạt 36.200 lượt người, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách quốc tế đạt 3240 lượt, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước.
b) Giáo dục và Đào tạo
Đã chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt kỳ thi tuyển sinh hệ Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp năm 2010 trên địa bàn tỉnh và thi tuyển vào lớp 10 năm học 2010-2011. Hiện ngành đang tiếp tục chỉ đạo triển khai nhiệm vụ năm học 2010-2011; kiểm tra việc mua sắm, cung ứng và sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học, sách giáo khoa phục vụ công tác giảng dạy và học tập cho năm học mới.
c) Y tế
Trong tháng 7/2010, tình hình dịch bệnh sốt xuất huyết đang gia tăng, tính đến 10/7/2010, trong toàn tỉnh có 185 ca mắc SXH (tăng 64 ca so với tháng trước) trong đó huyện Sơn Tịnh có số người bị mắc SXH cao nhất toàn tỉnh 95 ca (chiếm 51,4% tổng số ca), không có tử vong.
Tổ chức kiểm tra 987 cơ sở sản xuất, chế biến kinh doanh thực phẩm và các cơ sở dịch vụ ăn uống, có 732 cơ sở đạt tiêu chuẩn (tỷ lệ 74,2%) và 255 cơ sở vi phạm, trong đó xử lý nhắc nhở: 255 cơ sở. Kịp thời chỉ đạo tăng cường công tác bảo đảm vệ sinh thực phẩm; chưa có trường hợp ngộ độc thực phẩm xảy ra trên địa bàn tỉnh.
d) Lao động - Thương binh và Xã hội
Rà soát, điều chỉnh phân vùng địa bàn áp dụng tiền lương tối thiểu trong các loại hình doanh nghiệp địa bàn tỉnh. Tổ chức điều tra thực trạng sử dụng và nhu cầu lao động năm 2010 tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tính đến tháng 7/2010 toàn tỉnh đã có 311 người đi xuất khẩu lao động và 160 người đang hoàn thành thủ tục.
Giải quyết 541 hồ sơ người có công với cách mạng được hưởng chính sách theo quy định tại Nghị định số 54/2006/NĐ-CP của Chính phủ; xem xét và quyết định trợ cấp một lần cho 605 trường hợp theo Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg và Quyết định 188/2007/QĐ-TTg ngày 06/12/2007của Thủ tướng Chính phủ.
Hướng dẫn, triển khai cấp phát 2.929 tấn gạo cho các địa phương cứu đói giáp hạt năm 2010. Phối hợp với Hội Bảo trợ nạn nhân nghèo thành phố Hồ Chí Minh, Quỹ Tài trợ Vinacapital và Tổ chức Trả lại tuổi thơ Đà Nẵng hỗ trợ cho 40 em bị tim bẩm sinh đi phẫu thuật tại bệnh viện Trung ương Huế, bệnh viện Đà Nẵng và bệnh viện tim thành phố Hồ Chí Minh, với tổng kinh phí 1,3 tỷ đồng. Phối hợp với Bệnh viện Mắt Đà Nẵng, Bệnh viện chỉnh hình và phục hồi chức năng Đà Nẵng, Bệnh viện Đà Nẵng tổ chức khám cho 547 trẻ em khuyết tật tại 06 huyện miền núi.
đ) Khoa học - Công nghệ
Kiểm tra tình hình tổ chức thực hiện các dự án khoa học và công nghệ triển khai trên địa bàn huyện Ba Tơ trong năm 2010, các đề tài, dự án Khoa học và công nghệ tại Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật Nông lâm nghiệp Dung Quất. Thực hiện thử nghiệm 30 mẫu các loại. Kiểm định 1.981 phương tiện đo các loại; kết quả, đạt yêu cầu 1.880 phương tiện đo (chiếm tỷ lệ 94,9%).
Thẩm tra dây chuyền công nghệ dự án Hệ thống thông tin và giám sát vị trí tàu cá trên biển; hướng dẫn cho 02 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất xác lập và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp; tiếp tục triển khai các nội dung của Dự án Quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể Lý Sơn cho sản phẩm Tỏi của huyện đảo; kết hợp với Cục Sở hữu trí tuệ tổ chức tập huấn về sở hữu công nghiệp cho các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
3. Lĩnh vực nội chính và tổ chức Nhà nước
Công tác nội vụ và cải cách hành chính: Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính và phát triển nguồn nhân lực tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh.
Trong tháng, UBND tỉnh đã quyết định thành lập Trung tâm y tế quân - dân - y kết hợp huyện Lý Sơn; thành lập Trung tâm Phát triển quỹ đất các huyện Sơn Tịnh, Sơn Hà, Ba Tơ, Đức Phổ; Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm kỹ thuật quan trắc môi trường Dung Quất, Bệnh viện Dung Quất.
Thực hiện tuyển mới 08 công chức, viên chức; thuyên chuyển nội bộ 06 công chức, viên chức, thuyên chuyển ra ngoài 01 công chức.
Phối hợp với Học viện Hành chính quốc gia và trường Đại học Phạm Văn Đồng tổ chức khai giảng lớp Tiền công vụ năm 2010 cho 120 công chức dự bị. Phối hợp với Trường Chính trị tỉnh khai giảng lớp Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước Chương trình chuyên viên năm 2010 cho 110 học viên.
Về công tác ngoại vụ: Tích cực kêu gọi các chương trình, dự án viện trợ Phi chính phủ nước ngoài. Tính chung 7 tháng đầu năm 2010, tổng giá trị cam kết viện trợ Phi chính phủ nước ngoài đạt 45,6 tỷ đồng với 35 chương trình, dự án thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong tháng, đã tổ chức hướng dẫn và quản lý hoạt động 11 đoàn với 17 lượt khách quốc tế đến thăm, làm việc tìm hiểu cơ hội đầu tư tại tỉnh. Tiếp tục duy trì công tác bảo hộ ngư dân và tàu thuyền thường xuyên.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Các lực lượng công an, quân sự thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh, chính trị trên địa bàn tỉnh, an toàn khu vực biên giới biển và các nhiệm vụ chính trị khác theo chỉ đạo của cấp trên.
Tình hình trật tự an toàn giao thông còn diễn biến phức tạp. Trong tháng toàn tỉnh đã xảy ra 13 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 15 người, bị thương 9 người; thiệt hại khoảng 420 triệu đồng.
Tóm lại: Tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2010, kinh tế tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá trên hầu hết các ngành, lĩnh vực; giá trị sản xuất công nghiệp 7 tháng đầu năm ước đạt 10.655,3tỷ đồng, tăng 297,3% so với cùng kỳ năm 2009 và bằng 61,8% kế hoạch năm; tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đạt 10.140 tỷ đồng, tăng 30,1% so với cùng kỳ năm 2009 và bằng 60,4% kế hoạch; hoạt động du lịch khởi sắc. Các hoạt động văn hóa - xã hội diễn ra sôi nổi nhằm chào mừng các ngày Lễ lớn trong tháng; cải cách hành chính được đẩy mạnh theo hướng công khai, minh bạch và đơn giản hoá thủ tục. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân vẫn gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng chung của nền kinh tế thế giới. Tiến độ thực hiện đầu tư các công trình, dự án vẫn còn chậm; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn nhiều ách tắc; công tác quản lý đô thị còn nhiều bất cập; tình hình an ninh biển đông và tình hình mưa bão diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động đánh bắt thủy sản của ngư dân và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
IV. TRỌNG TÂM CÔNG TÁC THÁNG 8 NĂM 2010
1. Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/4/2010 của Chính phủ về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010.
2. Chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận số 71-KL/TW ngày 04/5/2010 của Bộ Chính trị về kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
3. Tiếp tục chỉ đạo các Sở, Ban ngành và UBND các huyện, thành phố chuẩn bị các nội dung phục vụ Đại hội Đảng bộ các cấp. Chuẩn bị tốt các nội dung làm việc với Thủ tướng Chính phủ theo chỉ đạo của UBND. Tổ chức triển khai thực hiện các Nghị quyết HĐND tỉnh và tập trung giải quyết các nội dung chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh, kiến nghị của cử tri tại kỳ họp thứ 24 - HĐND tỉnh khóa X.
4. Bảo vệ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán thu, chi ngân sách nhà nước năm 2011 với các Bộ ngành Trung ương. Hoàn thành việc phê duyệt các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các huyện, thành phố của tỉnh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2025.
5. Chỉ đạo kiểm tra, đẩy nhanh tiến độ thi công và giải ngân các công trình, dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA và các nguồn vốn khác. Tiếp tục tập trung giải quyết tốt công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư; đặc biệt là giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai tại Khu kinh tế Dung Quất để thi công các công trình, dự án đúng tiến độ. Tổ chức thực hiện kịp thời ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh tại Công văn số 2203/UBND-CNXD, ngày 26/7/2010 về một số nội dung liên quan đến Khu kinh tế Dung Quất.
6. Đẩy mạnh công tác thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, nhất là thu các khoản nợ đọng thuế, nguồn thu từ khai thác và xuất khẩu cát nhiễm mặn và nguồn thu từ khai thác quỹ đất trên địa bàn tỉnh.
7. Tập trung chỉ đạo chăm sóc lúa vụ Hè Thu; tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống hạn, đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp,... đề cao cảnh giác và tích cực chỉ đạo công tác phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm.
8. Tăng cường công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng; chỉ đạo và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện công tác an toàn phòng cháy, chữa cháy rừng. Triển khai công tác phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn; tập trung kiểm tra và thực hiện các biện pháp phòng, chống lũ quét, sạt lở núi, sạt lở bờ sông, bờ biển trước mùa mưa, bão năm 2010. Tăng cường công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài.
9. Chỉ đạo công tác tuyên truyền, phát thanh truyền hình và tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao chào mừng kỷ niệm 65 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9; tổ chức Lễ kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống Công an nhân dân Việt Nam (19/8/1945-19/8/2010) và 5 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (19/8/2005-19/8/2010); kỷ niệm 51 năm ngày Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (28/8/1959-28/8/2010); kỷ niệm 45 năm ngày Chiến thắng Vạn Tường (18/8/1965-18/8/2010).
10. Chỉ đạo kiểm tra hệ thống trường lớp và các phương tiện phục vụ công tác dạy và học ở các trường trên địa bàn tỉnh để chuẩn bị khai giảng năm học mới 2010-2011.
11. Tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả Đề án giảm nghèo nhanh và bền vững tại 6 huyện miền núi theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ, Đề án hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chính sách hỗ trợ cải thiện nhà ở theo Quyết định 117/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và đầu tư cơ sở hạ tầng các xã bãi ngang ven biển và hải đảo năm 2010.
12. Đẩy mạnh công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm; phòng chống dịch bệnh trong mùa hè nhất là bệnh sốt xuất huyết đang có diễn biến phức tạp.
13. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng chống tham nhũng; kịp thời chấn chỉnh, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm.
14. Duy trì nghiêm các chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, đấu tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội có hiệu quả, trọng tâm là các điểm thi công công trình và các dự án lớn đang hoạt động tại Khu Kinh tế Dung Quất. Tổ chức Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 09 về phòng, chống tội phạm.
15. Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc một số giải pháp kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đồng bộ các giải pháp tuyên truyền, giáo dục, tuần tra, kiểm soát, giải toả hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt và xử lý một cách quyết liệt nhằm bảo đảm trật tự an toàn giao thông, giảm thiểu đến mức thấp nhất các vụ tai nạn./.