Báo cáo số 108/BC-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2011
Bước vào năm 2011, khó khăn và thách thức đều lớn hơn so với dự báo. Giá dầu mỏ, giá vàng, lương thực thực phẩm và một số loại nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế tăng cao; thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh; khủng hoảng nợ công ở nhiều nước; tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại; lạm phát cao tại hầu hết các quốc gia...đã tác động tiêu cực vào nền kinh tế nước ta. Ở trong nước, lạm phát và mặt bằng lãi suất tăng cao; nhập siêu lớn, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, dự trữ ngoại hối giảm mạnh; giá vàng trên thị trường biến động bất thường; sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại. Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô trở thành thách thức lớn. Trước tình hình đó, ngày 24/02/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Bộ Chính trị đã có kết luận số 02-KL/TW ngày 16/3/2011 tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 và nhất quán tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt với mục tiêu hàng đầu là kiềm chế lạm phát.
UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo, điều hành quyết liệt và thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết, chỉ đạo của Trung ương về phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. Cùng với sự cố gắng, nỗ lực của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và nhân dân, năm 2011, Tỉnh đã được kết quả quan trọng, toàn diện trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội:
I. KẾT QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI CHỦ YẾU NĂM 2011:
1. Về phát triển kinh tế và các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ:
(1) Kinh tế duy trì mức tăng trưởng phù hợp với xu thế phát triển chung của cả nước; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP, giá so sánh 1994) ước đạt 14.920 tỷ đồng[1], tăng 12,1% so với cùng kỳ (năm 2010 tăng 12,3%). Tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy chưa đạt kế hoạch đề ra (KH tăng 13%), song đây cũng là mức tăng cao so với nhiều tỉnh, thành phố khác[2]. Cơ cấu kinh tế[3] tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng ngành nông lâm thủy sản, tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.
(2) Sản xuất công nghiệp duy trì nhịp độ tăng trưởng đều, nhưng chưa đạt mức tăng theo kế hoạch đề ra, hoạt động xây dựng tiếp tục phát triển:
Do những yếu tố tác động khách quan của nền kinh tế, ngành công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, lãi suất ngân hàng, giá cả các yếu tố đầu vào tăng cao, sức mua của nền kinh tế thấp, một số mặt hàng sản xuất ra tiêu thụ chậm. Trước tình hình đó, Tỉnh đã có nhiều biện pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp như: Tạo điều kiện hỗ trợ đẩy nhanh tiến độ một số dự án phục vụ phát triển của ngành than, khuyến khích tiêu dùng sản phẩm xi măng và các mặt hàng khác, hỗ trợ và tạo điều kiện về vốn vay phục vụ sản xuất các mặt hàng thiết yếu...
Kết quả: giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định 1994) cả năm ước đạt 30.087 tỷ đồng, bằng 94,4% KH và tăng 10,2% so với cùng kỳ. Trong đó: công nghiệp Trung ương ước đạt 19.511 tỷ đồng (chiếm 64,8% giá trị toàn ngành), tăng 10,7% (năm trước tăng 3,7%); công nghiệp địa phương 5.965 tỷ đồng (chiếm 19,8%), tăng 8%; công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 4.609,9 tỷ đồng (chiếm 15,3%), tăng 7,1%.
Một số sản phẩm chủ lực đều tăng so với cùng kỳ, có sản phẩm tăng cao và vượt kế hoạch như: Điện sản xuất ước vượt 3,22 tỷ kwh, tăng 59,1% CK; sản xuất than tuy có nhiều khó khăn, nhưng phát triển ổn định, sản lượng sản xuất năm 2011 tăng nhẹ so với cùng kỳ. Sản lượng than sạch ước đạt 44 triệu tấn, tăng 4,1%; than tiêu thụ ước đạt 44,4 triệu tấn, tăng 3,28% (trong đó xuất khẩu 16,5 triệu tấn, bằng 88,52% cùng kỳ); xi măng ước đạt 3,2 triệu tấn, bằng 95,7%; Bia các loại ước đạt 29,7 triệu lít, tăng 4,5% cùng kỳ; Gạch nung ước đạt 884 triệu viên, tăng 4,3% cùng kỳ; Dầu thực vật ước đạt 288.124 tấn, đạt 96% KH và tăng 8,9% so với cùng kỳ…
Công tác đầu tư xây dựng cơ bản tiếp tục được quan tâm tập trung chỉ đạo: Tỉnh quán triệt và kiên quyết dừng, hoãn, giãn tiến độ đối với các dự án, công trình chưa thực sự cấp bách, hoặc không có khả năng hoàn thành trong năm kế hoạch để tập trung ưu tiên bố trí cho các dự án, công trình có khả năng hoàn thành sớm, các công trình cấp bách, quan trọng theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011. Do vậy, nguồn vốn đầu tư năm nay được bố trí tập trung và hiệu quả, nhất là đối với các công trình đảm bảo an sinh xã hội như: hệ thống kênh mương, hồ đập, điện, nước, trường học, trạm y tế…
Tập trung nguồn tăng thu (trên 3.000 tỷ đồng) bổ sung vốn đầu tư phát triển, nâng tổng số vốn đầu tư phát triển năm 2011 lên 6.336 tỷ đồng, tăng gấp 2,66 lần so với kế hoạch giao đầu năm (KH đầu năm 2.381 tỷ đồng); ước giải ngân đạt 100% kế hoạch vốn. Nguồn vốn tăng thu đã được tập trung ưu tiên bố trí cho các công trình, dự án quan trọng để đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng để phát huy hiệu quả sau đầu tư[4]. Đồng thời, tập trung nguồn lực (1.507 tỷ đồng) triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới. Đã ứng vốn 464 tỷ đồng ngân sách tỉnh để triển khai một số công trình thuộc nguồn vốn Trung ương để sớm hoàn thành các công trình quan trọng[5].
(3) Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản vượt qua được khó khăn và đạt mức tăng trưởng khá:.
- Trồng trọt: Diện tích gieo trồng đạt 98,6% so cùng kỳ, nhưng sản lượng lương thực cây có hạt cả năm ước đạt 237.521 tấn, tăng 2% (ước tăng 4.731 tấn) so cùng kỳ; năng suất lúa, ngô bình quân cả năm đều tăng hơn cùng kỳ[6].
- Chăn nuôi: Do ảnh hưởng của đợt rét đậm, rét hại kéo dài ngay từ đầu năm, nên số lượng đàn gia súc, gia cầm tăng chậm[7]. Hiện trên địa bàn có 155 trang trại chăn nuôi quy mô vừa và nhỏ, trong đó có: 111 trang trại lợn ; 36 trang trại gia cầm; 8 trang trại trâu bò. Toàn tỉnh có 3 cơ sở giết mổ, chế biến gia súc gia cầm đang hoạt động.
- Lâm nghiệp: Công tác trồng mới rừng tập trung năm 2011 đạt 11.121ha tăng 3% so với kế hoạch; công tác chăm sóc, khoanh nuôi và bảo vệ rừng hiện có đạt 100% kế hoạch giao. Độ che phủ của rừng ước đạt 51%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết HĐND tỉnh đề ra. Công tác phòng, chống cháy rừng được các cấp, các ngành và các địa phương đặc biệt quan tâm, trong năm đã xảy ra 01 vụ, làm thiệt hại 3 ha rừng (giảm 1 vụ so với 2010 và giảm 27 vụ so với năm 2009).
- Thủy sản:Do giá cả các yếu tố đầu vào tăng mạnh như điện, xăng dầu, thức ăn nuôi thủy sản, nên tổng sản lượng thủy sản ước thực hiện cả năm giảm hơn so với cùng kỳ, ước đạt 83.011 tấn, bằng 99,8% CK. Giá trị thuỷ sản xuất khẩu ước đạt 24,8 triệu USD, tăng 10,8% so cùng kỳ.
(4) Các ngành dịch vụ: Do chịu ảnh hưởng từ những khó khăn chung của nền kinh tế; sản lượng của các ngành sản xuất chính sụt giảm, kéo theo sự tác động ảnh hưởng có tính chất lan truyền từ thu nhập đến tiêu dùng và kích cầu sản xuất các mặt hàng tiêu dùng, thêm vào đó là lạm phát, giá cả tăng cao[8], các hoạt động kinh tế cửa khẩu không ổn định do chính sách biên mậu của nước bạn luôn thay đổi. Kết quả cụ thể như sau:
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ước đạt 31.632 tỷ đồng, bằng 95,3% kế hoạch và tăng 26,6% so với cùng kỳ. Chỉ số giá tiêu dùng CPI năm 2011 ước tăng khoảng trên 15% so với cùng kỳ.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trên địa bàn ước đạt 2.433 triệu USD, bằng 100% KH và tăng 10,1% so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu ước đạt 1.883 triệu USD, tăng 12,1% cùng kỳ. Tổng giá trị hàng hoá kinh doanh theo loại hình tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu, kho ngoại quan qua các cửa khẩu biên giới trên biển và đất liền của tỉnh đạt 4.200 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ (hàng xuất khẩu chủ yếu là than, cao su, Ferro Wolfram, quặng Apatit, gỗ và sản phẩm gỗ, hàng nông sản, hải sản và thực phẩm. Hàng nhập khẩu chủ yếu là xăng dầu, máy móc, thiết bị vật tư công trình, dự án...).
- Hoạt động du lịch đảm bảo duy trì mức tăng trưởng. Tổng lượng khách du lịch đến Quảng Ninh ước đạt trên 6 triệu lượt khách, bằng 111,1% kế hoạch, tăng 10,8% so cùng kỳ, trong đó khách quốc tế 2,3 triệu lượt. Tổng doanh thu từ du lịch ước đạt 3.400 tỷ đồng, tăng 6,25% so với cùng kỳ.
- Hoạt động ngân hàng tăng trưởng ổn định, chất lượng tín dụng tốt. Tổng nguồn vốn hoạt động của các ngân hàng dự kiến năm 2011 đạt 56.000 tỷ, tăng 16,3% so với 31/12/2010, trong đó: vốn huy động tại địa phương ước đạt 40.000 tỷ đồng, tăng 17,7% cùng kỳ. Cơ cấu vốn huy động có sự chuyển dịch tích cực, nhất là việc huy động vốn dân cư đạt 29.500 tỷ, tăng 30% CK và chiếm tỷ trọng 73,8% nguồn vốn huy động. Cơ cấu vốn vay thay đổi tích cực, tổng doanh số cho vay ước đạt 80.800 tỷ đồng, tăng 29,5%. Trong đó, cho vay ngắn hạn 65.500 tỷ đồng, tăng 42,8% cùng kỳ; cho vay trung và dài hạn giảm 7,6%. Thực hiện tốt chính sách cho vay hỗ trợ phát triển sản xuất theo quy định của Chính phủ nhằm giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội như: cho vay ưu đãi hộ nghèo sản xuất, giải quyết việc làm, học sinh sinh viên, cho vay hỗ trợ đồng bào khó khăn; cho vay tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Dự kiến đến 31/12, tổng dư nợ cho vay tại các ngân hàng đạt 7.081 tỷ đồng, chiếm 16,8% tổng dư nợ; dự kiến tổng số nợ xấu là 1.267 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,15% tổng dư nợ.
- Dịch vụ bưu chính, chuyển phát hoạt động ổn định; hàng hoá, bưu phẩm, bưu kiện, vật phẩm được chuyển, phát phục vụ nhanh chóng, kịp thời đáp ứng yêu cầu. Dịch vụ vận tải tiếp tục phát triển mạnh nhờ việc hoàn thành nâng cấp tuyến đường huyết mạch đoạn Mông Dương - Móng Cái và nâng cấp một số bến cảng thủy nội địa (vận chuyển hành khách ước đạt: 32,923 triệu lượt người, tăng 22,5% so cùng kỳ; vận chuyển hàng hóa: 24,567 triệu tấn, bằng 13,9% so cùng kỳ). Tổng doanh thu vận tải ước đạt 5.066 tỷ đồng, tăng 24,3% so với cùng kỳ năm 2010.
(5) Đầu tư phát triển: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011 ước thực hiện đạt 41.195 tỷ đồng, tăng 10% so cùng kỳ, đạt kế hoạch đề ra; trong bối cảnh lạm phát cao, đây là mức tăng khá của Tỉnh[9], cụ thể: vốn ngân sách tập trung 6.336 tỷ đồng, chiếm 15,4%; vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 288 tỷ chiếm 0,7%; vốn các doanh nghiệp nhà nước (bao gồm vốn tự có và vốn vay, vốn huy động) 21.841 tỷ, chiếm 53,3%; vốn dân cư và doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 8,1%.
Dự kiến đến hết năm 2011, cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 3 dự án, nâng tổng số dự án FDI trên địa bàn tỉnh lên 89 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 3,729 tỷ USD.
Số doanh nghiệp thành lập mới năm 2011 khoảng 1.154 doanh nghiệp, bằng 85,48% so với năm 2010, tổng vốn đăng ký kinh doanh ước đạt 9.380 tỷ đồng, giảm 15,9% so với cùng kỳ. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 7.698 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, tổng số vốn đăng ký 84.366 tỷ đồng[10].
(6) Thu chi ngân sách nhà nước có nhiều cố gắng và đạt kết quả cao:
Trước những khó khăn trong năm 2011, để thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đề ra, Tỉnh đã tập trung bám sát các chỉ đạo của Trung ương và thực hiện quyết liệt các biện pháp quản lý, điều hành ngân sách, khuyến khích tạo nguồn thu, kiểm soát chặt chẽ nhiệm vụ chi…Kết quả: Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 26.344 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa (phần cân đối ngân sách) ước đạt 13.150 tỷ đồng, tăng 35% CK, tăng 32% dự toán (vượt thu trên 3.000 tỷ dành cho thực hiện các nhiệm vụ chi phát triển); thu xuất nhập khẩu ước đạt 13.000 tỷ đồng, tăng 2,4% dự toán, các khoản thu được để lại quản lý qua ngân sách Nhà nước 194,5 tỷ đồng, tăng 35% dự toán.
Tổng chi ngân sách địa phương dự kiến đạt 12.579,4 tỷ đồng, bằng 146% dự toán. Trong đó chi đầu tư phát triển ước đạt 6.336 tỷ đồng, chi thường xuyên 6.412,9 tỷ đồng, đạt 119% dự toán. Về cơ bản, nhiệm vụ chi đã đáp ứng được các nhiệm vụ HĐND tỉnh giao đầu năm và các nhiệm vụ đột xuất phát sinh.
(7) Chương trình xây dựng nông thôn mới:
Đã hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy từ cấp tỉnh đến cấp xã, công tác tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới đã bước đầu tạo nhận thức và sự đồng thuận trong nhân dân. Đến nay, có 107/125 xã đã thông qua phương án quy hoạch và 27/107 xã đã được phê duyệt quy hoạch. Tỉnh đã hỗ trợ 1.507 tỷ đồng vốn ngân sách tập trung đầu tư các công trình thuộc lĩnh vực giao thông, thủy lợi, trường học, nhà văn hóa thôn, nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn[11]... Triển khai thực hiện trên 60 mô hình giảm nghèo, 13 dự án áp dụng cây, con, giống mới và các mô hình nuôi lợn rừng sinh sản, nuôi cá rô đồng, trồng cây sa mộc, cây ba kích ở Ba Chẽ...góp phần nâng cao thu nhập và đời sống bà con vùng nông thôn.
Tuy đã đạt được kết quả bước đầu, nhưng nhìn chung, việc triển khai thực hiện ở cấp xã còn lúng túng; việc hướng dẫn, kiểm tra, đôc đốc của một số ngành chức năng của Tỉnh chưa kịp thời; công tác tuyên truyền còn hạn chế, chưa thu hút được sự tham gia tích cực của người dân trong tổ chức thực hiện.
2. Tập trung chăm lo bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, góp phần thiết thực vào ổn định và cải thiện đời sống nhân dân:
Mặc dù tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn, bất lợi, song với sự chủ động vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nên các hoạt động văn hóa - xã hội tiếp tục được đẩy mạnh và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, nhất là vấn đề đảm bảo an sinh xã hội.
Tỉnh đã tập trung thực hiện các chính sách hỗ trợ đầy đủ, kịp thời cho đồng bào dân tộc thiểu số, người dân vùng miền núi, biên giới, hải đảo và vùng sâu vùng xa, các đối tượng chính sách xã hội, người có công đảm bảo theo các quy định của Nhà nước và của Tỉnh. Tổng số tiền chi cho an sinh xã hội từ ngân sách năm 2011 ước chi 765 tỷ đồng[12], tăng 47,39% so với năm 2010 (năm 2010 là 519 tỷ đồng, trong đó ngân sách địa phương 454 tỷ đồng, ngân sách Trung ương 64,376 tỷ đồng).
Kết quả giảm nghèo và giải quyết việc làm: Dự kiến năm 2011 có 4.502 hộ thoát nghèo, đạt kế hoạch đề ra (Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 7,68% năm 2010 xuống còn 6,18% cuối năm 2011), số hộ cận nghèo cũng giảm 200 hộ (giảm từ 11.200 xuống còn 11.000 hộ). Giải quyết việc làm mới cho 2,65 vạn lao động, đạt 102% kế hoạch đề ra. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 51%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề ước đạt 40,5%, đã dạy nghề cho 3.542 lao động nông thôn, đào tạo sơ cấp và dạy nghề thường xuyên cho 20.572 người.
Giáo dục và đào tạo có bước phát triển, chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn tiếp tục được giữ vững. Số học sinh cao đẳng, đại học tăng 2,7% so với 2010, tỷ lệ huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi đạt 99,6%. Chất lượng giáo dục đào tạo ở các cấp học ngày càng được nâng cao; cơ sở vật chất kỹ thuật được đảm bảo, tỷ lệ phòng học được kiên cố hóa tăng 8%, có 50% số trường được công nhận là trường chuẩn quốc gia.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, kế hoạch hóa gia đình; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng chống dịch bệnh được quan tâm chỉ đạo. tình hình dịch bệnh được kiểm soát chặt chẽ không phát sinh mới, công tác kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm được triển khai có hiệu quả. Các bệnh viện tiếp tục được quan tâm đầu tư, tỷ lệ 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế và 100% số trạm y tế có bác sỹ tiếp tục được duy trì; số giường bệnh trên 1 vạn dân đạt 41,5 giường, đạt kế hoạch năm đề ra.
Các hoạt động văn hoá, tuyên truyền các sự kiện chính trị, xã hội được quan tâm tổ chức trên phạm vi toàn tỉnh; tiếp tục triển khai nhiều hoạt động văn hóa, tăng cường quản lý các lễ hội và tiếp tục thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Quan tâm phát triển văn học nghệ thuật, bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa, văn hóa các dân tộc. Tổ chức thành công Lễ hội Du lịch Hạ Long 2011 với Lễ hội Carnaval ấn tượng và các hoạt động văn hóa nghệ thuật, liên hoan ẩm thực, hội chợ thương mại du lịch quốc tế Quảng Ninh. Tham gia diễn đàn du lịch khu vực Đông Á (EATOP) tại Philipin. Tổ chức tuyên truyền, vận động bầu chọn cho vịnh Hạ Long và đã đạt được kết quả (Theo kết quả thông báo tạm thời của tổ chức New Open World, Vịnh Hạ Long đã lọt vào danh sách 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới mới).
Hoạt động thể thao tiếp tục được quan tâm nâng cao chất lượng, các hoạt động thể dục thể thao quần chúng được các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong tỉnh thường xuyên tổ chức. Năm 2011, đã tổ chức 20 giải cấp tỉnh với trên 1000 VĐV, tham gia 8 giải thể thao phong trào toàn quốc đạt 32 huy chương vàng, 10 bạc và 13 huy chương đồng.
3. Khoa học công nghệ, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đạt được những kết quả tích cực:
Các hoạt động khoa học công nghệ tiếp tục được triển khai toàn diện và đạt được một số kết quả nổi bật. Đã triển khai 01 nhiệm vụ cấp nhà nước, 33 nhiệm vụ cấp tỉnh và 6 nhiệm vụ cấp cơ sở[13]. Hầu hết vác nhiệm vụ đều tập trung vào nghiên cứu ứng dụng và gắn với nhu cầu thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển[14]. Năm 2011, Tỉnh đã đăng ký với Bộ Khoa học và Công nghệ 03 dự án thuộc chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2012-2013, cụ thể: Nhãn hiệu Chè của (Hải Hà); Sá sùng (Vân Đồn); Nhãn hiệu "Phương Nam" cho sản phẩm Vải (thành phố Uông Bí). Công tác quản lý nhà nước về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, công nghệ, an toàn bức xạ hạt nhân tiếp tục được quan tâm đẩy mạnh. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin tiếp tục được tăng cường và triển khai trên diện rộng, nhất là trong hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
Công tác tài nguyên và môi trường tiếp tục được quan tâm thực hiện: năm 2011, Tỉnh đã tiếp nhận và xử lý 54 hồ sơ xin giao đất với tổng diện tích 2.332 ha, gia hạn cho 8 dự án thực hiện chậm và thu hồi đất 25 dự án với tổng diện tích 87,08 ha; cấp 248 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, 33 giấy phép hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản, 69 giấy phép hoạt động lĩnh vực tài nguyên nước; cấp 56 báo cáo đánh giá tác động môi trường; 40 dự án cải tạo phục hồi môi trường; 139 sổ đăng ký chủ nguồn chất thải nguy hại.... Công tác kiểm tra quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được duy trì thường xuyên, đã thực hiện tổng rà soát các dự án có sử dụng đất, các dự án, nhà máy, xí nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Kiên quyết xử lý những đơn vị vi phạm, xử lý, giải quyết dứt điểm đối với những cơ sở gây ô nhiễm...Trong năm, đã xử lý vi phạm đối với 43 đơn vị với số kinh phí 1.078 triệu đồng; giải quyết kịp thời, thỏa đáng đối với 49 vụ khiếu nại của công dân về lĩnh vực đất đai và tài nguyên.
4. Công tác xây dựng chính quyền; cải cách hành chính; phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được quan tâm chỉ đạo và đạt những kết quả thiết thực:
Đã chỉ đạo tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 thành công tốt đẹp; đảm bảo an ninh, trật tự an toàn trước và trong thời gian diễn ra bầu cử; đã có 841.937 cử tri đi bầu cử, đạt 99,67%, được Trung ương đánh giá nằm trong nhóm 20 tỉnh, thành phố của cả nước có tỷ lệ cử tri đi bầu cử đạt cao nhất. Công tác bầu cử đảm bảo đúng Luật định, kết quả bầu cử đảm bảo về số lượng, cơ cấu và thành phần theo quy định[15]. Sau bầu cử, đã kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp.
Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, tập trung chủ yếu vào các nội dung như kiện toàn tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách thủ tục hành chính. Đến nay, bộ thủ tục hành chính chuẩn đã được công khai tới các tổ chức, doanh nghiệp và người dân nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý tốt hơn và tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong liên hệ và giải quyết công việc; đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, duy trì có hiệu quả việc tổ chức các cuộc họp trực tuyến, quan tâm nâng cao chất lượng hoạt động của Cổng thông tin điện tử tỉnh. Hiện nay đang nghiên cứu hình thành cơ quan xúc tiến và hỗ trợ đầu tư, trong đó có nhiệm vụ là cơ quan đầu mối giải quyết các thủ tục đầu tư cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân, đặc biệt là đổi mới và nâng cao chất lượng thực sự trong việc thực hiện cơ chế "Một cửa".
Công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được thực hiện nghiêm túc, chỉ đạo tập trung vào các lĩnh vực như chi ngân sách, đầu tư xây dựng, quản lý tài sản công, đất đai, tài nguyên. Năm 2011, đã thực hiện 329 cuộc thanh, kiểm tra, trong đó có 51 cuộc thanh tra kinh tế - xã hội và 278 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Phát hiện sai phạm với tổng số tiền 55 tỷ đồng, thu hồi về ngân sách Nhà nước 29,2 tỷ đồng, giảm trừ quyết toán 16,1 tỷ đồng; xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 9,6 tỷ đồng; xử lý hình sự 04 trường hợp; thu hồi 9,59 ha đất rừng, tước 1.184 giấy phép lái xe, 03 bằng thuyền trưởng; tịch thu 237,74 m3 gỗ, 5.042 kg động vật rừng các loại...Các hình thức xử phạt đã góp phần chấn chỉnh kỷ cương và răn đe, phòng ngừa tham nhũng. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh kết hợp với việc tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và thực hiện các cuộc đối thoại cũng đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về hoạt động phòng, chống tham nhũng.
Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo tiếp tục có đổi mới trong nhận thức, chỉ đạo điều hành; cơ bản các vụ việc được giải quyết kịp thời ngay từ cấp cơ sở, không để phát sinh "điểm nóng" gây mất an ninh trật tự, nhất là công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo phục vụ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp.
5. An ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững; quan hệ đối ngoại được tăng cường:
Tình hình an ninh trận tự trên địa bàn tỉnh và tuyến biên giới, biển đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và tình hình nội bộ nhân dân cơ bản ổn định. Các lực lượng vũ trang duy trì nghiêm chế độ thường trực và phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, địa phương tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Các loại tội phạm về trật tự an toàn xã hội có xu hướng tăng cao hơn so với cùng kỳ, nhất là tội phạm về ma túy, với nhiều phương thức và thủ đoạn che dấu, đối phó tinh vi hơn[16]. Song số vụ trọng án nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng giảm nhiều so với cùng kỳ; công tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm có chuyển biến tích cực, không có băng nhóm tội phạm hoạt động công khai, nguy hiểm, không để hình thành các tụ điểm phức tạp về hình sự và tệ nạn xã hội; chất lượng hoạt động điều tra, bắt giữ, truy tố, xét xử và thi hành án được đảm bảo đúng thời hạn và quy định của pháp luật.
Công tác đảm bảo an toàn giao thông được duy trì thường xuyên, số trường hợp vi phạm trong năm là 172.424 trường hợp, tăng 2,8% so với năm 2010, phạt tiền 63,5 tỷ đồng, tăng 17,9%; tạm giữ và tước giấy phép lái xe của 3.221 phương tiện và lái xe... Số vụ tai nạn giao thông xảy ra 196 vụ, giảm 25,2% so với năm 2010, số người tử vong giảm 10,5%; người bị thương giảm 25,6%. Riêng tan nại giao thông đường thủy nội địa xảy ra 02 vụ bằng cùng kỳ, làm chết 14 người, tăng 9 người so với cùng kỳ.
Công tác quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, pháo, đèn trời được tăng cường; công tác phòng, chống cháy nổ được tập trung kiểm tra, xử lý phòng ngừa tại các khu vực trọng điểm, khu vực đông người và luôn duy trì chế độ trực sẵn sàng thực thi nhiệm vụ. Ban chỉ đạo 127 tiếp tục tăng cường chỉ đạo các ngành, địa phương triển khai tích cực các hoạt động phòng chống buôn lậu, nhất là tại các khu vực trọng điểm như tuyến biên giới, tuyến đường bộ, đường biển, do đó tình hình buôn lậu và gian lận thương mại có giảm so với năm trước nhưng vẫn còn diễn biến phức tạp. Tiếp tục chỉ đạo quyết liệt việc chấn chỉnh các hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ than trái phép trên địa bàn, xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm theo quy định của pháp luật.
Quan hệ đối ngoại: thực hiện tăng cường quan hệ đối ngoại theo chiều sâu đối với các đối tác truyền thống như với một số tỉnh, thành phố của Trung Quốc (Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam, Quảng Đông, Trùng Khánh), Gang won - Hàn Quốc và các nước Trung Đông... Nhìn chung, các hoạt động được triển khai tích cực, chủ động và đạt được những kết quả thiết thực.
ĐÁNH GIÁ CHUNG:
Năm 2011, khó khăn và thách thức đều lớn hơn so với dự báo, song với sự nỗ lực, sáng tạo và quyết tâm của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, cộng đồng các doanh nghiệp và nhân dân, cùng với những định hướng đúng, những ưu tiên trong chính sách, sự chỉ đạo điều hành quyết liệt trên cơ sở thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ, đặc biệt là thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 “Về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội”, nhiều khó khăn đã từng bước được khắc phục, ứng phó có kết quả với diễn biến phức tạp của tình hình, đạt được những kết quả quan trọng. Kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục có chuyển biến tích cực: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của tỉnh tuy chưa đạt kế hoạch đề ra, song vẫn duy trì ở mức cao so với bình quân chung cả nước và thuộc nhóm các Tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong toàn quốc; nông nghiệp phát triển khá; các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn định; thu ngân sách nhà nước cao nhất từ trước đến nay, ước đạt 26.344 tỷ đồng, tăng 16% so với dự toán, trong đó thu nội địa (phần cân đối ngân sách) ước đạt 13.150 tỷ đồng, tăng 35% so với cùng kỳ và 32% so với dự toán (tăng thu trên 3.000 tỷ đồng); đã đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ lớn theo các chủ trương, Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh như: phát triển hạ tầng giao thông, chỉnh trang phát triển các đô thị, triển khai xây dựng nông thôn mới, thực hiện các mục tiêu về văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục... An sinh xã hội được đặc biệt quan tâm, đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh; các lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng được tăng cường, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác cải cách hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng tiếp tục được chú trọng và có sự tiến bộ; công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt được những kết quả tích cực.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn nhiều khó khăn, hạn chế: Kinh tế phát triển nhưng chưa vững chắc; chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh còn thấp; một số chỉ tiêu kinh tế chưa hoàn thành; lạm phát còn cao; sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn; phát triển hạ tầng giao thông, thu hút vốn đầu tư chưa đạt hiệu quả như mong muốn; dịch vụ du lịch phát triển chưa tương xứng với lợi thế của tỉnh, các sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, kém hấp dẫn; công tác quản lý, thực hiện quy hoạch, quản lý tài nguyên và môi trường còn nhiều bất cập, tình trạng khai thác than trái phép còn diễn ra ở một số địa phương; đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội, người lao động có thu nhập thấp và đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tình hình tội phạm, buôn lậu, gian lận thương mại vẫn diễn biến phức tạp,...Việc khắc phục những tồn tại, yếu kém, nâng cao chất lượng tăng trưởng và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững vẫn là những thách thức lớn, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc và quyết tâm cao của toàn tỉnh, của cả hệ thống chính trị trong năm 2012 và những năm tiếp theo.
II. KIỂM ĐIỂM SỰ CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA UBND TỈNH NĂM 2011:
Năm 2011, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã tập trung chỉ đạo, điều hành với tinh thần chủ động, linh hoạt, quyết liệt toàn diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, nhiệm vụ công tác, nổi bật trên một số nội dung chủ yếu sau:
1. Chủ động xây dựng và chỉ đạo triển khai sớm kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2011 ngay từ những ngày đầu năm:
UBND tỉnh đã sớm ban hành Quyết định số 3869/QĐ-UBND ngày 17/12/2010 giao kế hoạch năm 2011 cho các ngành, địa phương, đồng thời tổ chức Hội nghị toàn tỉnh triển khai nhiệm vụ kế hoạch năm 2011. Trên cơ sở bám sát sự chỉ đạo của Trung ương và tình hình thực tế của tỉnh, đã sớm ban hành Chương trình công tác năm 2011, trong đó đề ra 8 nhóm giải pháp chính để chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2011. Đồng thời, để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, UBND tỉnh cũng đã chủ động xây dựng Chương trình hành động để triển khai thực hiện, đã trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết về một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015.
Với việc sớm xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015, kế hoạch chương trình công tác năm 2011 đã góp phần giúp các ngành, các cấp trong tỉnh chủ động trong triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 2011 và giúp UBND tỉnh chủ động trong công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội ngay trong những tháng đầu năm 2011.
2. Tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ:
Ngay sau khi Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ được ban hành, UBND tỉnh đã sớm xây dựng và triển khai Chương trình hành động để tổ chức thực hiện, với các giải pháp tích cực, sát với tình hình thực tế của địa phương. UBND tỉnh đã chủ động chỉ đạo, điều hành linh hoạt các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, không thực hiện điều chỉnh mục tiêu kế hoạch mà phấn đấu đạt được mức cao nhất có thể. Kết quả, Tỉnh đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu kế hoạch năm 2011, với mức tăng trưởng kinh tế đạt 12,1% (tuy chưa đạt kế hoạch 13%, nhưng đây cũng là sự cố gắng trong công tác chỉ đạo điều hành trong tình hình kinh tế có khó khăn).
Các giải pháp thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP được UBND tỉnh chỉ đạo chủ động, linh hoạt bám sát theo chỉ đạo của Chính phủ và phù hợp với tình hình của Tỉnh như: (1) Thực hiện chỉ tiêu tiết kiệm 10% chi thường xuyên ngân sách, dừng mua sắm ô tô công, thiết bị văn phòng và các khoản chi chưa cần thiết; (2) Chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước quản lý chặt chẽ ngoại hối và kinh doanh vàng trên địa bàn; tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy định về tiền tệ, tín dụng, kiểm soát nợ xấu, đảm bảo chất lượng tín dụng đối với các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh; (3) Chỉ đạo rà soát để đình hoãn, giãn tiến độ, cắt giảm, điều chuyển vốn đối với các dự án, công trình chưa thực sự cấp bách và không có khả năng hoàn thành trong năm 2011 sang các dự án, công trình có khả năng hoàn thành sớm, công trình cấp bách, quan trọng. Đối với một số công trình đã khởi công, không thể dừng triển khai thì bố trí nguồn tạm ứng để đầu tư, với công trình không thuộc diện đình hoãn, cắt giảm, điều chuyển thì đẩy nhanh tiến độ thực hiện sớm hoàn thành để phát huy hiệu quả sau đầu tư; (4) Chỉ đạo thường xuyên theo dõi diễn biến của thị trường, tăng cường kiểm soát giá cả, thị trường bảo đảm cân đối cung cầu hàng hoá và kịp thời có biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu.
Đồng thời tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp để tăng thu ngân sách nhà nước ở mức cao nhất trong điều kiện kinh tế khó khăn, nhất là thu nội địa (đã tăng thu trên 3.000 tỷ đồng) để đáp ứng kịp thời cho chi đầu tư phát triển và đảm bảo an sinh xã hội, nhất là bố trí nguồn vốn cho thực hiện các dự án, công trình quan trọng của tỉnh và thực hiện xây dựng nông thôn mới trong khi chưa có sự hỗ trợ của Trung ương và việc huy động nguồn lực từ xã hội có khó khăn.
3. Tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; khai thác, huy động mọi nguồn lực tập trung đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi, chỉnh trang đô thị, các chương trình đầu tư thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội, chương trình xây dựng nông thôn mới:
Tiếp tục chỉ đạo quyết liệt đối với công tác giải phóng mặt bằng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp triển khai sớm các dự án đầu tư và tạo quỹ đất thu hút các nhà đầu tư có năng lực. Đồng thời tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhất là các doanh nghiệp chủ lực của tỉnh như: các doanh nghiệp ngành Than (đã làm việc với Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam thống nhất việc Tập đoàn điều chỉnh tăng 0,5 triệu tấn than tiêu thụ so với kế hoạch 2011), các nhà máy xi măng, nhiệt điện, sản xuất vật liệu xây dựng…để góp phần thu nộp ngân sách cao, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế ở mức cao nhất (12,1%).
Trong điều kiện khó khăn về nguồn lực đầu tư, ngoài ngân sách địa phương, UBND tỉnh đã tranh thủ tối đa các nguồn lực đầu tư, hỗ trợ của Trung ương, đồng thời đẩy mạnh huy động các nguồn lực từ xã hội, các đơn vị doanh nghiệp và nhân dân để có nguồn lực đầu tư phát triển các khu Kinh tế, hạ tầng giao thông, thủy lợi, triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới, chỉnh trang đô thị ở các địa phương theo lộ trình và triển khai các chương trình thuộc lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
4. Tập trung chỉ đạo tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai, tài nguyên, khoáng sản và đô thị gắn với bảo vệ môi trường, công tác quản lý hoạt động tàu du lịch tham quan trên Vịnh Hạ Long:
UBND tỉnh đã chỉ đạo rà soát, kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án có sử dụng đất trên địa bàn tỉnh về quy hoạch chi tiết xây dựng, tiến độ thực hiện dự án; kiên quyết thu hồi, xử lý các vi phạm theo quy định. Đối với công tác quy hoạch, chỉ đạo hạn chế tối đa việc điều chỉnh Quy hoạch đã được phê duyệt, điều chỉnh Quy hoạch do mục tiêu kinh doanh đất, chỉ xem xét điều chỉnh Quy hoạch trên cơ sở các lý do liên quan đến thực hiện Quy hoạch mới, Nhà đầu tư mới có Quy hoạch tốt hơn Quy hoạch cũ, do không giải phóng được mặt bằng, do triển khai các công trình, dự án liền kề có ảnh hưởng lớn đến Quy hoạch hiện tại.
Tiếp tục chỉ đạo, chấn chỉnh tình trạng khai thác, vận chuyển, chế biến, tiêu thụ than trái phép, xử lý than tồn trên các bến bãi trên địa bàn, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục; đồng thời quan tâm làm tốt công tác quản lý các loại tài nguyên, khoáng sản khác. Chỉ đạo tăng cường kiểm tra, xử lý ô nhiễm môi trường, thoát nước, chỉnh trang đô thị, cải thiện môi trường ở các địa bàn trọng điểm; tập trung chỉ đạo xử lý, giải quyết dứt điểm đối với các nhà máy, xí nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng dẫn đến gây bức xúc cho người dân như ở Uông Bí, Hoành Bồ và các khu vực đô thị khác...
Trong lĩnh vực du lịch, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt và ban hành Quy định về quản lý hoạt động tàu vận chuyển khách tham quan du lịch và tàu lưu trú khách du lịch trên Vịnh Hạ Long (ban hành kèm theo Quyết định số 716/2011/QĐ-UBND ngày 15/3/2011 và Quyết định số 3018/2011/QĐ-UBND ngày 23/9/2011) nhằm quản lý chặt chẽ các hoạt động của tàu du lịch, nâng cao chất lượng tàu để đảm bảo an toàn cho du khách khi tham quan Vịnh Hạ Long, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.
5. Tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới theo hướng không lựa chọn xã, huyện làm điểm mà triển khai đồng loạt ở tất cả các xã (125/125 xã), trên cả 19 chỉ tiêu; chỉ đạo các địa phương, mỗi địa phương lựa chọn một xã làm mẫu, trên cơ sở đó, các xã còn lại học tập, rút kinh nghiệm để chỉ đạo triển khai thực hiện. Đồng thời, rút kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo điều hành, đã chỉ đạo triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới phải theo nguyên tắc chính quyền cơ sở và nhân dân thực hiện là chính, nhất là trong việc xây dựng các mô hình kinh tế, mô hình phát triển sản xuất, Nhà nước chỉ hỗ trợ.
6. Quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hoá-xã hội, bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong điều kiện kinh tế khó khăn:
Mặc dù tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn, bất lợi, song các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, thông tin, phòng chống tệ nạn xã hội tiếp tục được UBND tỉnh chú trọng chỉ đạo. Cơ bản các mục tiêu, chỉ tiêu về văn hoá xã hội đều đạt kế hoạch đề ra; các hoạt động thuộc các lĩnh vực tiếp tục được duy trì phát triển đồng bộ, toàn diện và có sự phát triển tiến bộ, trong quá trình thực hiện đã thu hút được sự tham gia tích cực của cộng đồng xã hội và nhân dân, góp phần tăng cường thực hiện xã hội hoá trong các lĩnh vực văn hoá - xã hội.
Cùng với việc quan tâm chỉ đạo phát triển kinh tế, Tỉnh cũng đặc biệt quan tâm đến công tác đảm bảo an sinh xã hội: Đã tập trung chỉ đạo triển khai dạy nghề cho lao động nông thôn; chú trọng giải quyết việc làm; chủ động triển khai chính sách trợ cấp của Trung ương, của Tỉnh đối với người có công với cách mạng, đối tượng chính sách xã hội đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng, trong đó có triển khai một số chính sách mới như hỗ trợ giá điện cho người nghèo, trợ cấp hàng tháng cho những người có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm công tác thực tế đã hết thời gian hưởng trợ cấp mất sức lao động, hỗ trợ người lao động từ Libya trở về nước, trợ cấp khó khăn đối với CBCCVC, lực lượng vũ trang, người hưởng lương hưu có mức lương thấp, hộ nghèo....
7. Đảm bảo quốc phòng, an ninh trật tự và an toàn xã hội; phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; triển khai tốt hoạt động đối ngoại:
Tập trung chỉ đạo công tác đảm bảo quốc phòng - an ninh trong tình hình mới, giữ vững độc lập chủ quyền tuyến biên giới. Chỉ đạo kiên quyết đấu tranh, trấn áp các hoạt động tội phạm; phòng ngừa và giảm thiểu các tệ nạn xã hội; tập trung chỉ đạo quyết liệt, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông, tai nạn lao động. Việc giải quyết khiếu kiện của nhân dân, giải quyết những vụ việc bức xúc liên quan đến sản xuất và đời sống nhân dân được đặc biệt chú trọng, nhiều vụ việc phức tạp tiếp tục được UBND tỉnh tập trung đối thoại, giải quyết dứt điểm.
Công tác phòng chống tham nhũng cũng được tập trung chỉ đạo, chú trọng thực hiện các biện pháp phòng ngừa, tập trung công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, nhất là trong lĩnh vực đất đai, khoáng sản, đầu tư công. Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được quan tâm chỉ đạo ngay từ trong việc quản lý và sử dụng ngân sách.
Chỉ đạo chủ động triển khai các hoạt động đối ngoại, tổ chức thực hiện tốt các chương trình hợp tác hai hành lang một vành đai kinh tế, hợp tác du lịch với các thành phố khu vực Đông Á, xúc tiến các hoạt động hợp tác phát triển kinh tế phù hợp với tiềm năng, lợi thế của Tỉnh.
8. Tích cực đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành; quan tâm cải tiến lề lối làm việc tạo chuyển biến trong cải cách hành chính:
Công tác chỉ đạo, điều hành năm 2011 tiếp tục có sự đổi mới theo hướng linh hoạt, sát thực tế và có trọng tâm, trọng điểm; vừa tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, vừa quan tâm giải quyết vấn đề chiến lược, lâu dài trên các ngành, các lĩnh vực. UBND tỉnh đã dành nhiều thời gian chỉ đạo địa phương, sâu sát cơ sở để nắm tình hình, kịp thời chỉ đạo, giải quyết nhiều vấn đề quan trọng; đồng thời thường xuyên chấn chỉnh các ngành, địa phương trong việc thực hiện quy chế làm việc theo hướng cải tiến lề lối làm việc, giảm bớt thủ tục hành chính và phát huy vai trò, trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn trong tham mưu, đề xuất.
Việc tổ chức các cuộc họp của UBND tỉnh tiếp tục áp dụng thường xuyên hình thức hội nghị trực tuyến, góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí. UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động của Cổng thông tin điện tử tỉnh, chỉ đạo tổ chức họp báo với các cơ quan thông tấn, báo chí trên địa bàn tỉnh ngay sau phiên họp thường kỳ UBND tỉnh hàng tháng nhằm cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin về tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các chủ trương, chính sách, các chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh để định hướng dư luận xã hội, tạo sự đồng thuận cao trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Thường xuyên chủ động làm việc với Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, xin ý kiến lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của các đồng chí lãnh đạo cấp trên để tranh thủ sự hỗ trợ, tạo điều kiện của Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng địa phương, nhất là sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách, nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ mang tính quan trọng, cấp bách của Tỉnh; đồng thời quan tâm duy trì tốt mối quan hệ chặt chẽ với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tỉnh thông qua việc xây dựng và triển khai Chương trình phối hợp hoạt động ngay từ đầu năm.
* Bên cạnh những ưu điểm, tiến bộ nêu trên, cũng còn một số tồn tại:
(1) Việc chấp hành Quy chế làm việc của UBND tỉnh mặc dù được thường xuyên chấn chỉnh, nhưng có lúc, có nơi thực hiện chưa tốt, chưa làm hết trách nhiệm, thẩm quyền, còn dồn trách nhiệm cho cấp trên.
(2) Việc chuẩn bị các nội dung, đề án theo Chương trình công tác của UBND tỉnh đã được hầu hết các ngành tích cực chuẩn bị. Tuy nhiên, chất lượng một số nội dung chưa đạt yêu cầu, có những nội dung đã đăng ký chương trình công tác năm nhưng lại báo cáo xin hoãn do chưa chuẩn bị kịp.
(3) Công tác phối hợp giải quyết công việc của một số Sở, ngành, địa phương chưa tốt, trách nhiệm chưa cao; việc đề xuất, tham mưu công việc còn hạn chế, chưa chủ động, vẫn còn hiện tượng chờ chỉ đạo của UBND tỉnh.
(4) Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế như: quản lý đất đai, tài nguyên-môi trường; quản lý đô thị; quản lý xây dựng theo quy hoạch; quản lý du lịch; tình trạng khai thác, vận chuyển, chế biến, tiêu thụ than trái phép vẫn xảy ra ở một số nơi; tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp...
Phần thứ hai
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2012
Năm 2012 là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 với mục tiêu đã được xác định: "...Xây dựng Quảng Ninh đến năm 2015 cơ bản trở thành Tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại". Thực hiện kế hoạch năm 2012 trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố đe doạ sự ổn định và tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Tình hình này sẽ tác động tiêu cực vào nền kinh tế nước ta. Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu còn nhiều tồn tại, yếu kém chưa thể khắc phục ngay trong thời gian ngắn. Đây là những khó khăn, thách thức rất lớn đối với Tỉnh. Tuy nhiên, những kết quả quan trọng, toàn diện của năm 2011 và những năm qua, cùng những tiềm năng, lợi thế và sự đồng thuận của toàn dân...là những thuận lợi cơ bản trong thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2012. Theo đó năm 2012, toàn tỉnh cần thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu dưới đây:
I. MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH NĂM 2012:
1. Mục tiêu tổng quát:
Mục tiêu chủ yếu của năm 2012 là tiếp tục tập trung kiềm chế lạm phát; huy động tốt các nguồn lực nhằm khắc phục những khó khăn để duy trì phát triển ổn định và thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; tập trung xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển, hỗ trợ sản xuất kinh doanh; đảm bảo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
2. Các chỉ tiêu chủ yếu năm 2012:
2.1. Các chỉ tiêu về kinh tế:
- Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP, giá so sánh 1994) tăng từ 12%-13% so với năm 2011 để chủ động điều hành linh hoạt, ứng phó với diễn biến tình hình, tập trung cho nhiệm vụ kiềm chế lạm phát và đảm bảo an sinh xã hội. Quy mô GDP theo giá hiện hành dự kiến khoảng 54.434 - 56.089 tỷ đồng, tương đương 2.640 triệu USD, GDP bình quân theo đầu người khoảng 2.215 USD[17].
- Giá trị tăng thêm (GTTT) ngành nông, lâm và thuỷ sản (giá so sánh) tăng 3,4-3,7%.
- GTTT ngành công nghiệp và xây dựng tăng 12,2% - 13%.
- GTTT ngành dịch vụ tăng 12,8-14,2% theo giá so sánh[18].
- Chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 10%[19].
- Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trên địa bàn tăng 10%.
- Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tăng 10%.
- Tổng thu ngân sách trên địa bàn (dự kiến): 28.833,8 tỷ đồng, trong đó thu nội địa (phần cân đối ngân sách) 15.551 tỷ đồng, tăng khoảng 18,3% so với đánh giá ước thực hiện năm 2011; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 13.050 tỷ đồng; các khoản thu được để lại chi quản lý qua ngân sách 232 tỷ đồng, tăng 19,6% so với ước đánh giá năm 2011; phấn đấu vượt thu 10% so với Nghị quyết HĐND giao.
- Tổng chi ngân sách địa phương 13.266 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển 3.925 tỷ đồng, chi thường xuyên 8.119,2 tỷ đồng; các khoản chi được để lại quản lý qua ngân sách 232 tỷ đồng.
2.2. Các chỉ tiêu xã hội:
- Tuyển mới cao đẳng nghề tăng 11% và trung cấp nghề tăng 18%.
- Mức giảm tỷ lệ sinh là 0,02%.
- Tạo việc làm cho trên 2,65 vạn lao động.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 53,5%.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo 1,2% (theo chuẩn nghèo mới).
- Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống dưới 17%.
- Số giường bệnh trên 1 vạn dân: 42 giường.
- Diện tích nhà ở đô thị bình quân đầu người: 21,5 m2
2.3. Các chỉ tiêu về môi trường:
- Tỷ lệ che phủ rừng: 51,5%.
- Tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh: 90%.
- Tỷ lệ dân số đô thị được cấp nước sạch: 92,5%
- Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý: 100%
- Tỷ lệ chất thải rắn đô thị được thu gom: 91%.
- Tỷ lệ chất thải rắn y tế được xử lý: 100%.
- Tỷ lệ khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường: 100%.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NĂM 2012:
Năm 2012 tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp chính sách đã phát huy tác dụng trong năm 2011 và trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII về mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015; Nghị quyết số 20/2011/NQ-HĐND ngày 18/10/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2011 - 2015; đồng thời tập trung cụ thể hóa, tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
1. Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh; tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, duy trì tốc độ tăng trưởng và đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát:
Thực hiện nhất quán chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ dựa chủ yếu vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và lao động sang dựa vào hiệu quả, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa cơ bản và lâu dài.
- Về công nghiệp[20]: Tiếp tục tập trung hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp chủ lực của tỉnh như: các doanh nghiệp ngành Than, các nhà máy xi măng, nhiệt điện, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng…đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, tạo ra sản phẩm, góp phần vào kết quả tăng trưởng kinh tế - xã hội của tỉnh. Đồng thời đẩy mạnh thu hút đầu tư, ưu tiên triển khai các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao và có giá trị xuất khẩu lớn trên địa bàn tỉnh.
Tạo điều kiện thuận lợi để các dự án trọng điểm công nghiệp sản xuất trong năm 2012 đạt công suất tối đa[21] nhằm tăng thêm năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Ưu tiên đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến để cung cấp đầu vào cho các cơ sở sản xuất công nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, góp phần giải quyết việc làm, giảm sự lệ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu.
- Đối với công tác đầu tư xây dựng cơ bản: Đổi mới tư duy về đầu tư, từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư công theo hướng giảm dần tỷ trọng và nâng cao hiệu quả; kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và tăng cường huy động các nguồn vốn khác cho phát triển. Đặc biệt quan tâm công tác giải phóng mặt bằng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp triển khai sớm các dự án, đồng thời tạo quỹ đất thu hút các nhà đầu tư có năng lực đầu tư sản xuất kinh doanh. Kiên quyết giãn, điều chỉnh, hoặc chưa bố trí vốn cho các công trình chưa thực sự cấp thiết, ưu tiên bố trí vốn cho thực hiện xây dựng nông thôn mới, các công trình, dự án có tác động lan toả cao, các công trình cấp bách, quan trọng, sắp hoàn thành để phát huy hiệu quả ngay sau đầu tư; hạn chế tối đa việc bố trí vốn để triển khai thực hiện các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách (trừ các công trình quan trọng) nhằm đảm bảo cân bằng, cân đối giữa nguồn lực hiện có và nhu cầu đầu tư.
- Về dịch vụ[22]: Tập trung phát triển các ngành dịch vụ có thế mạnh, lợi thế của Tỉnh, đặc biệt quan tâm phát triển dịch vụ, du lịch. Xây dựng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm du lịch, dịch vụ đặc trưng như: du lịch sinh thái - biển - đảo chất lượng cao, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa tâm linh, du lịch biên giới kết hợp với mua sắm, du lịch văn hóa kết hợp thể thao biển; tổ chức các sự kiện văn hóa - du lịch nhằm thu hút và kéo dài ngày lưu trú của khách tại tỉnh. Tạo sự đột phá trong phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả hoạt động du lịch để ngành dịch vụ, du lịch đóng góp xứng đáng vào nguồn thu ngân sách. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực dịch vụ du lịch đảm bảo tính chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển. Đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao, nhất là các dịch vụ thông tin truyền thông, giáo dục đào tạo, logistic, tài chính và hỗ trợ doanh nghiệp...
Xây dựng quy hoạch, thu hút các nguồn lực đầu tư xây dựng một số trung tâm dịch vụ trong một số lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực như: Trung tâm triển lãm hội chợ thương mại, trung tâm tài chính, ngân hàng... Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư dịch vụ, thương mại, du lịch; tổ chức tốt hội nghị xúc tiến đầu tư Quảng Ninh năm 2012.
- Về nông, lâm, ngư nghiệp[23]: Trong năm 2012, tập trung hoàn thiện xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn; xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, các mô hình sản xuất lâm nghiệp, nuôi trồng, chế biến thủy hải sản mang tính tập trung, có quy mô lớn. Tập trung tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với phát triển công nghiệp chế biến; gắn kết chặt chẽ giữa các khâu sản xuất, chế biến, phân phối, hình thành chuỗi giá trị.
Tiếp tục rà soát, xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, hệ thống kênh mương, hồ, đập nhằm phục vụ tốt cho sản xuất và sinh hoạt của bà con nông dân. Chủ động các biện pháp phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiệt hại cho sản xuất và đời sống nhân dân. Tạo mọi điều kiện hỗ trợ về quy hoạch, giống mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào các lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Phát triển rau, hoa và cây ăn quả đang có lợi thế, phát triển chăn nuôi theo hướng hình thành các vùng chăn nuôi tập trung, gắn với chế biến sản phẩm và xử lý chất thải; bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng kinh tế gắn với chế biến lâm sản.
2. Ưu tiên triển khai xây dựng một số Quy hoạch chiến lược, tạo bước đổi mới căn bản trong công tác quy hoạch; tập trung xây dựng cơ chế huy động các nguồn lực đầu tư phát triển:
Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, lập mới các Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, Quy hoạch ngành, lĩnh vực và sản phẩm chủ yếu. Ưu tiên nguồn lực triển khai các Quy hoạch chiến lược như: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch xây dựng đô thị và hạ tầng kỹ thuật; Quy hoạch sử dụng đất đai và tài nguyên; Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực theo hướng có sự tham gia của tư vấn nước ngoài nhằm nâng cao chất lượng và đảm bảo tính bền vững, khả thi trên cơ sở khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của địa phương, phù hợp xu thế hội nhập quốc tế. Cụ thể hoá các Quy hoạch bằng các chương trình, dự án và kế hoạch đầu tư.
Tập trung xây dựng, đề xuất cơ chế, chính sách để huy động các nguồn lực đầu tư thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời đa dạng các hình thức đầu tư theo các cơ chế đầu tư hiện hành của Nhà nước để đảm bảo có nguồn lực khả thi phát triển các khu Kinh tế, khu công nghiệp, điện, nước ra các xã đảo, hạ tầng giao thông, cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá…Khai thác có hiệu quả nguồn lực từ quỹ đất, tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ của Trung ương. Thành lập cơ quan xúc tiến và hỗ trợ đầu tư đủ năng lực và quyền hạn để triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ cải thiện môi trường đầu tư, thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
3. Chủ động quản lý, điều hành thu, chi ngân sách, đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; tăng cường quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, quản lý hiệu quả giá cả thị trường:
- Về thu ngân sách: Tập trung nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp nhằm nuôi dưỡng nguồn thu và kích thích phát triển đảm bảo tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Phấn đấu số thu ngân sách năm 2012 đạt và vượt dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao cao nhất có thể. Tổ chức thu ngân sách đúng, đủ, kịp thời mọi nguồn thu, thu hồi các khoản nợ đọng, hạn chế các khoản nợ đọng thuế mới; khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ đầu tư và xã hội hóa.
Tiến hành điều chỉnh đơn giá thuê đất theo quy định tại Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước để tăng thu ngân sách nhà nước.
- Về chi: Thực hiện tốt các biện pháp để đảm bảo sử dụng ngân sách tiết kiệm, kiểm soát chặt chẽ nhiệm vụ chi và nâng cao hiệu quả chi tiêu công theo tinh thần của Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ; ưu tiên chi đầu tư phát triển, chi cho thực hiện các chủ trương, Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh như về quy hoạch, khoa học công nghệ; đồng thời tiết kiệm chi thường xuyên, hạn chế đến mức tối đa chi cho các nhiệm vụ phát sinh. Bố trí đủ dự phòng ngân sách để chủ động đối phó với thiên tai, dịch bệnh và những phát sinh trong điều hành thực hiện nhiệm vụ năm 2012.
- Đổi mới cơ chế phân bổ vốn đầu tư, kiên quyết tập trung vốn cho các công trình, dự án cấp thiết, sớm hoàn thành, nhanh đưa vào sử dụng để phát huy hiệu quả. Khẩn trương sửa đổi quy chế phân cấp quản lý đầu tư, trước hết là đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm quản lý thống nhất về mục tiêu và danh mục các chương trình, dự án theo quy hoạch, đồng thời phát huy sự năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương.
- Kiểm soát chặt chẽ giá cả hàng hóa, dịch vụ trên thị trường đặc biệt giá cả các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu. Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về giá, gian lận thương mại, đầu cơ, buôn lậu nhằm đảm bảo thực hiện bình ổn giá đối với các mặt hàng thiết yếu.
4. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới:
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 01-NQ/TU ngày 27/10/2010 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về việc xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020. Trên cơ sở rút kinh nghiệm công tác chỉ đạo điều hành trong năm 2011, tập trung chỉ đạo theo hướng phân định rõ trách nhiệm trong triển khai thực hiện, huy động mọi nguồn lực, phát huy nội lực của cộng đồng dân cư. Chỉ đạo thực hiện trên quan điểm Nhà nước hỗ trợ đầu tư, chính quyền địa phương và nhân dân phải vào cuộc. Tỉnh sẽ phân cấp nguồn kinh phí cho các địa phương chủ động trong triển khai thực hiện dưới sự quản lý, kiểm tra giám sát của Tỉnh, Tỉnh chỉ quản lý mục tiêu, giao nhiệm vụ cho các địa phương thực hiện.Năm 2012, tập trung hoàn thiện công tác Quy hoạch nông thôn và từng bước triển khai thực hiện theo Quy hoạch, đặc biệt quan tâm xây dựng và triển khai các mô hình phát triển kinh tế, mô hình sản xuất phù hợp với mỗi vùng, mỗi địa bàn.
5. Phát triển khoa học công nghệ, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường:
Tập trung xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển khoa học công nghệ, ưu tiên nguồn lực cho phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ trong các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo môi trường.
Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên đất, tài nguyên nước và khoáng sản; chủ động chỉ đạo xây dựng các biện pháp ứng phó với thiên tai bão lũ và biến đổi khí hậu và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Tập trung giải quyết các vấn đề về môi trường ở các khu công nghiệp, khu đô thị và khu vực các nhà máy, các khu công nghiệp, các khu đông dân cư. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, ứng dụng khoa học, công nghệ vào cải thiện môi trường, thu gom, xử lý, tái chế chất thải.
Đẩy nhanh tiến độ di chuyển nhà sàng tuyển than Nam Cầu Trắng; lắp đặt hệ thống giám sát môi trường tự động tại các nhà máy nhiệt điện, xi măng; xây dựng hệ thống mạng điểm quan trắc môi trường của tỉnh.
6. Phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội gắn với bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội
- Lĩnh vực giáo dục: Quan tâm đặc biệt đến công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực; phát triển quy mô trường lớp gắn với nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, xây dựng xã hội học tập, đi đôi với nâng cao chất lượng dạy nghề và phát triển các hình thức dạy nghề cho lao động nông thôn.
Đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa". Tăng cường đầu tư, hỗ trợ các vùng dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Tăng cường đầu tư của Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá việc huy động các nguồn lực cho phát triển giáo dục, đào tạo. Chăm lo và đầu tư cho phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; triển khai Đề án phát triển nguồn nhân lực ngành giáo dục đáp ứng yêu cầu mới, chuẩn hóa trong đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn và sử dụng cán bộ quản lý giáo dục.
- Lĩnh vực dân số, y tế:
Phấn đấu duy trì mức giảm sinh 0,02%, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,1%, quy mô dân số đạt 1,192 triệu người vào cuối năm 2012. Nâng cao chất lượng dân số cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần. Cơ cấu lại dân số và phân bổ dân cư phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội.
Nâng cao nhận thức vị trí, vai trò và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 17%. Đảm bảo duy trì trên 95% trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin.
Thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực y tế theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân và tổ chức tham gia các hoạt động y tế; tiếp tục đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất cho ngành y tế, tăng số giường bệnh, đồng thời tăng cường các dịch vụ y tế chất lượng cao; tăng cường công tác tuyên truyền thông, giáo dục trong lĩnh vực phòng và chữa các bệnh thông thường, ưu tiên cho các vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
- Văn hóa, thông tin, thể dục thể thao: Tiếp tục thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tăng mức hưởng thụ văn hóa thông tin cho đồng bào các dân tộc ít người; thực hiện phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa-sức khỏe". Bảo tồn, phát triển nghệ thuật truyền thống và các giá trị văn hoá, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của các vùng miền trong tỉnh.
Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thông tin báo, đài của tỉnh nhằm thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, là công cụ hữu hiệu trong công tác chỉ đạo, điều hành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm, giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội:
Tăng cường các biện pháp giải quyết việc làm, phấn đấu tạo nhiều việc làm mới và đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 4,24% (giảm 0,11%), đưa thời gian lao động ở nông thôn lên 86% (tăng 1%). Chuyển dịch cơ cấu lao động đến cuối năm 2012 như sau: Lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp xuống còn 33% (giảm 1%); lao động công nghiệp - xây dựng 32% (tăng 1%) và duy trì lao động ngành dịch vụ ở mức 35% (bằng với năm 2011).
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội của Nhà nước, của tỉnh đã ban hành đối với các đối tượng chính sách người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, bảo đảm kịp thời, đúng đối tượng hỗ trợ, góp phần giảm bớt khó khăn về đời sống cho nhân dân và hỗ trợ thúc đẩy sản xuất phát triển, nhất là các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc.
Xây dựng các giải pháp, chính sách để hỗ trợ người dân phát triển sản xuất để thoát nghèo. Hạn chế tối đa tái nghèo, phấn đấu giảm 1,2% tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) để đến cuối năm 2012 tỷ lệ hộ nghèo còn 4,98% [24].
Tiếp tục triển khai các biện pháp khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp để đầu tư xây dựng nhà ở cho học sinh, sinh viên và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị theo Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 24/4/2009 của Chính phủ.
7. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đẩy mạnh cải cách hành chính và thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí:
Đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp; tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm người đứng đầu; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước; xây dựng cơ chế đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ chuyên môn; chế độ đãi ngộ, thu hút nhân tài bổ sung vào đội ngũ cán bộ công chức, đặc biệt ở cấp chính quyền cơ sở (phường, xã, thị trấn). Tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính; thanh tra công vụ.
Tiếp tục cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm tính công khai, minh bạch. Thực hiện tốt cơ chế “Một cửa” thông qua hoạt động của cơ quan xúc tiến và hỗ trợ đầu tư tỉnh. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông cần thiết để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng; thực hiện nghiêm các quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Chú trọng thực hiện các biện pháp phòng ngừa; phát hiện, điều tra, kết luận và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra nhất là trong các lĩnh vực đất đai, khoáng sản, đầu tư công, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
8. Bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại:
Tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, tập trung xây dựng mô hình phát triển kinh tế xã hội bền vững gắn với bảo vệ vững chắc an ninh quốc phòng khu vực biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc của tỉnh; giữ vững chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị, thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh khu vực biên giới. Tập trung xây dựng các hạ tầng kỹ thuật khu vực biên giới. Thực hiện tốt việc di dân ra biên giới. Quản lý tốt đường biên, mốc giới.
Tập trung thực hiện các giải pháp nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông, tai nạn lao động. Kiềm chế và ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm về tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, HIV/AIDS, buôn bán phụ nữ và trẻ em, không để hình thành các điểm nóng về tệ nạn xã hội, các băng nhóm tội phạm hoạt động công khai; phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các hoạt động buôn bán, tàng trữ trái phép vũ khí, vật liệu nổ, pháo, gian lận thương mại...Tiếp tục chấn chỉnh hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ than trái phép trên địa bàn; tập trung xử lý, giải quyết dứt điểm các vụ khiếu kiện, những vụ việc gây bức xúc trong nhân dân nhằm đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Đảm bảo tuyệt đối an toàn cho khách du lịch khi đến với Quảng Ninh.
Đẩy mạnh triển khai ngoại giao toàn diện trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân với một số địa phương của nước bạn thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, hoạt động thương mại giữa hai bên. Tổ chức thực hiện tốt các chương trình hợp tác hai hành lang một vành đai kinh tế, hợp tác du lịch của các thành phố khu vực Đông Á, khu hợp tác kinh tế khu vực biên giới./.
Phụ biểu
Kết quả một số các chỉ tiêu kinh tế - xã hội ước năm 2011
và dự kiến kế hoạch 2012
TT
|
Chỉ tiêu
|
Đơn vị tính
|
Chỉ tiêu HĐND tỉnh năm 2011
|
Ước TH năm 2011
|
KH 2012
|
1
|
Tăng trưởng kinh tế GDP (giá so sánh)
|
%
|
≥13
|
12,1
|
12-13
|
2
|
Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp và xây dựng (giá so sánh)
|
%
|
13,5
|
12,9
|
12,2-13
|
3
|
Giá trị tăng thêm ngành nông, lâm, thủy sản (giá so sánh)
|
%
|
3,4
|
4,1
|
3,4-3,7
|
4
|
Giá trị tăng thêm ngành dịch vụ:
- Theo giá so sánh
- Theo giá hiện hành
|
%
%
|
14,4
18
|
12,1
|
12,8-14,2
|
5
|
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trên địa bàn
|
%
|
10
|
10,1
|
>10
|
6
|
Tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn
|
%
|
10
|
10
|
10
|
7
|
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn. Trong đó:
- Thu thế xuất nhập khẩu:
- Thu nội địa (cân đối NS)
- Các khoản thu để lại qua NS
|
Tỷ.đ
“
"
|
22.789
12.700
9.945
144
|
26.344
13.000
13.150
194,5
|
28.883
13.050
15.551
232
|
8
|
Tổng chi ngân sách địa phương Trong đó:
- Chi đầu tư phát triển
- Chi thường xuyên
|
Tỷ.đ
“
"
|
8.608
2.542,7
5.379,7
|
12.579
6.336
6.412
|
13.226
3.925
8.119
|
9
|
Chỉ số tăng giá tiêu dùng
|
%
|
10
|
15
|
<10
|
10
|
Tuyển mới đào tạo nghề cao đẳng và Trung cấp nghề tăng
|
%
|
16,1
|
16,1
|
16,5
|
11
|
Mức giảm tỷ lệ sinh
|
%
|
0,02
|
0,02
|
0,02
|
12
|
Tạo việc làm mới
|
Người
|
26.000
|
26.500
|
26.500
|
13
|
Tỷ lệ lao động qua đào tạo
|
%
|
51
|
51
|
53,5
|
14
|
Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống
|
%
|
1,5
|
1,5
|
1,2
|
15
|
Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống dưới
|
%
|
17,3
|
17,3
|
<17
|
16
|
Số giường bệnh trên 1 vạn dân
|
Giường
|
41,5
|
41,5
|
42
|
17
|
Diện tích nhà ở đô thị bình quân dầu người
|
M2
|
21
|
21,22
|
21,5
|
18
|
Nâng tỷ lệ che phủ của rừng đến cuối năm 2011
|
%
|
51
|
51
|
51,5
|
19
|
Tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sạch
|
%
|
92
|
92
|
92,5
|
20
|
Tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh
|
%
|
86
|
86
|
90
|
21
|
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý
|
%
|
100
|
100
|
100
|
22
|
Tỷ lệ chất thải rắn đô thị được thu gom
|
%
|
90
|
90
|
91
|
23
|
Tỷ lệ chất thải rắn y tế được xử lý
|
%
|
100
|
100
|
100
|
24
|
Tỷ lệ khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường
|
%
|
100
|
100
|
100
|
[1] Tập đoàn Than khoáng sản VN thực hiện hoàn thành kế hoạch (tăng 0,5 triệu tấn than tiêu thụ và tăng sản lượng than tồn kho, đồng thời tiết giảm tối đa các yếu tố chi phí nhằm nâng cao hiệu quả). Trong điều kiện Tập đoàn không hoàn thành kế hoạch đã thống nhất với tỉnh, GDP của tỉnh sẽ giảm hơn so với ước tại thời điểm này.
[2] Tốc độ tăng trưởng của cả nước năm 2011 ước tăng 6% (Kế hoạch tăng 7% - 7,5%), giảm trên 1%.Hà Nội ước tăng 10,13% (KH>12%); Hải Phòng ước 10,5%, (Kế hoạch 12%); Hải Dương ước 10%, giảm 1%; Vĩnh Phúc ước 14,65%, vượt 0,15% kế hoạch; Bắc Ninh 16,24% vượt 0,74% kế hoạch. (Hai Tỉnh ước vượt kế hoạch là do Nhật Bản phục hồi nhanh sau thảm họa; các sản phẩm, thiết bị được cung cấp kịp thời cho các nhà máy công nghiệp lớn có giá trị gia tăng cao tại hai Tỉnh Bắc Ninh và Vĩnh Phúc).
[3] Được tính theo giá cố định 94. Khu vực nông nghiệp 5,11%; công nghiệp và xây dựng 53,83%; dịch vụ 41,06% (năm 2010: nông nghiệp 5,5%; công nghiệp và xây dựng 53,44%; dịch vụ 41,06%).
[4]Bệnh viện Sản Nhi (TMĐT 135 tỷ đồng); Đầu tư xây dựng và lắp đặt hệ thống xử lý nước thải y tế cho các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh (TMĐT 159 tỷ); Đường bao biển núi Bài Thơ (339 tỷ); Đường vành đai phía Bắc thành phố Hạ Long (497 tỷ); Hệ thống điện chiếu sáng một số vị trí ven bờ Vịnh Hạ Long (138 tỷ) phục vụ Lễ hội du lịch Hạ Long 2011; San nền khu thể thao cột 3 (345 tỷ). Các công trình đẩy nhanh tiến độ thực hiện như: Kè chống sói lở hạ lưu sông Chanh (43 tỷ), các tuyến đê ngăn mặn thôn 4 xã Đồng Rui, Tiên Yên (62 tỷ), Đường 334 (86 tỷ), sửa chữa đê biển xã Hải Xuân - Móng Cái (111 tỷ)…
[5] Hệ thống kè biên giới (115 tỷ); nâng cấp cải tạo đường 340 Hải Hà (100 tỷ); cải tạo nâng cấp Quốc lộ 18C đoạn Tiên Yên - Hoành Mô (110 tỷ); Cụm thông tin cổ động Sa Vĩ (20 tỷ) và Đê biển xã Quảng Minh (20 tỷ đồng).
[6] Năng suất lúa ước đạt 48,6 tạ/ha, tăng 4%so với cùng kỳ; năng suất ngô đạt 37,8 tạ/ha, tăng 3,2% so cùng kỳ.
[7] Ước năm 2011: Đàn trâu có 63.880 con, tăng 0,3%; đàn bò 25.211 con, tăng 1,2%; đàn lợn (không kể lợn sữa) 386.210 con, tăng 9%; đàn gia cầm 2,465 triệu con, tăng 7,2% cùng kỳ.
[8] Dự kiến chỉ số giá tiêu dùng năm 2011 được đảm bảo ở mức 15%, thấp hơn so với cả nước khoảng trên 3% (Theo báo cáo Quốc hội kỳ họp thứ 2, dự báo CPI năm 2011 ước tăng khoảng 18%; Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo mức lạm phát của Việt Nam năm 2011 sẽtăng khoảng 19%).
[9] Tập đoàn Than đầu tư xây dựng một số hầm lò mới và nhiệt điện…(Tổng mức đầu tư 17.401 tỷ đồng). Khởi công nhà máy điện Mông Dương 1, đầu tư xây dựng Siêu thị Metro của Công ty TNHH Metro Cash & Carry Việt Nam (gần 400 tỷ đồng).
[10] Trong đó: Công ty cổ phần 2.545 tỷ (vốn 49.444 tỷ); Công ty TNHH 2 thành viên 2.770 tỷ (vốn 12.317 tỷ); Công ty TNHH 1 thành viên 1.392 tỷ (vốn 20.845 tỷ); DNTN 991 tỷ (vốn 1.757 tỷ đồng).
[11] 53 trường học các loại (trong đó 25 trường mầm non, mẫu giáo), trả nợ chương trình kiên cố hóa lớp học (120 tỷ đồng), 322 nhà văn hóa thôn (làng, bản), 19 công trình cấp nước tập trung và hàng trăm công trình nhỏ lẻ về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, 39 công trình thủy lợi, 5 công trình xây dựng hạ tầng vùng sản xuất tập trung, 50 công trình giao thông nông thôn, triển khai đầu tư hệ thống điện nông thôn giai đoạn I (đầu tư 50,646 km đường dây trung thế, 21 trạm biến áp tại các huyện, thị xã, thành phố Móng Cái, Hải Hà, Bình Liêu…)
[12] Có 17 khoản chi, trong đó các khoản chi lớn như: Chi mua thẻ BHYT KCB cho các đối tượng chính sáchvới kinh phí 100 tỷ đồng; chi trợ giúp đối tượng BTXH 100 tỷ; chi bù miễn thu thuỷ lợi phí 27 tỷ; chi hỗ trợ học sinh bán trú, học sinh vùng ĐBKK, trẻ em mẫu giáo, bù miễn giảm học phí 42,5 tỷ; hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo theo QĐ 102/2009/QĐ-TTg 10 tỷ; chi điều chỉnh tăng lương, phụ cấp, trợ cấp 360 tỷ; chi bù lãi suất tiền vay cho hộ nghèo, đối tượng xã hội 10 tỷ; chi hỗ trợ đào tạo dạy nghề cho lao động nông thôn, người nghèo 20 tỷ....
[13] Trong đó có 15 nhiệm vị chuyển tiếp từ năm 2010 và 19 nhiệm vụ mới.
[14] Áp dụng công nghệ đèn chiếu sáng công cộng tiết giảm điện năng bằng công nghệ PLC tại tuyến đường Hùng Thắng - TP. Hạ Long…
[15]Đã bầu ra được 07 Đại biểu Quốc hội khóa XIII, 72 Đại biểu HĐND tỉnh khóa XII, 462 đại biểu HĐND cấp huyện, 4.645 đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2011-2016.
[16] Số vụ bắt giữ tăng 36,7% (484/354), số đối tượng tăng 33,8% (621/464) so với cùng kỳ.
[17] Tỷ giá dự báo khoảng 21.000 đồng/USD.
[18] Với phương án tăng trưởng năm 2012, cơ cấu kinh tế (giá so sánh) giữa các khu vực chuyển dịch như sau: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản khoảng 4,71 - 4,68% (năm 2011: 5,11%), khu vực công nghiệp và xây dựng khoảng 53,87-53,78 % (năm 2011: 53,78%), khu vực dịch vụ khoảng 41,42-41,54% (năm 2011: 41,12%).
[19] Kế hoạch năm 2012 của Chính phủ đưa ra mức tăng chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 10%.
[20] Dự kiến năm 2012, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) tăng trên 14,5% so với ước thực hiện năm 2011
[21] Nhiệt điện Uông Bí mở rộng giai đoạn I - 300 MW; Nhiệt điện Uông Bí mở rộng giai đoạn II - 330 MW; Nhiệt điện Quảng Ninh 1.200 MW; Nhiệt điện Cẩm Phả 600 MW; Điện Mông Dương II; sớm hoàn thành nhiệt điện Mạo Khê 440 MW. Duy trì công suất các nhà máy xi măng: Cẩm Phả, Thăng Long, Hạ Long, Lam Thạch với tổng công suất trên 7,5 triệu tấn (trong đó: 3 triệu tấn clinker).
[22] Dự kiến giá trị tăng thêm ngành dịch vụ (giá hiện hành) tăng 18% - 20% so với năm 2011.
[23] Dự kiến năm 2012, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (giá cố định 1994) tăng 5,6 - 6,7% so với CK
[24] Tỷ lệ hộ nghèo đầu năm 2010 (chuẩn mới là 7,68%) ước năm 2011 giảm 1,5%, còn lại 6,18% vào đầu năm 2012. Phấn đấu giảm xuống còn 4,98% vào cuối năm 2012.