Báo cáo của Vụ Kinh tế Nông nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 26 tháng 3 năm 2013
Giátrị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản quí I năm 2013 (theo giá cố định 2010) ước đạt 161 497,15 tỷ đồng, tăng 2,59% so với quý I năm 2012, trong đó nông nghiệp đạt 124 755,25 tỷ đồng, tăng 2,48%; lâm nghiệp đạt 5 398,9 tỷ đồng, tăng 5,8%; thuỷ sản đạt 31 343 tỷ đồng tăng 2,47%.
I. NÔNG NGHIỆP
Giátrị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản quí I năm 2013 (theo giá cố định 2010) ước đạt 161 497,15 tỷ đồng, tăng 2,59% so với quý I năm 2012, trong đó nông nghiệp đạt 124 755,25 tỷ đồng, tăng 2,48%; lâm nghiệp đạt 5 398,9 tỷ đồng, tăng 5,8%; thuỷ sản đạt 31 343 tỷ đồng tăng 2,47%.
1. Trồng trọt
Tính đến 15/3/2013, cả nước đã gieo cấy được 3092,2 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 100,9% so cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 1111,6 nghìn ha, tăng 0,5% (+5,1 nghìn ha), các địa phương phía Nam gieo cấy 1980,6 nghìn ha, tăng 1,1% (+ 21,1 nghìn ha).
Thời tiết từ Tết Nguyên đán đến nay tương đối thuận lợi, đủ nước nên các địa phương phía Bắc đẩy nhanh gieo cấy lúa Đông xuân, phấn đấu cấy hết diện tích. Từ nửa cuối tháng 2 đến nay nhiệt độ tăng và ấm dần tạo điều kiện cho cây trồng sinh trưởng và phát triển, người dân tích cực chăm sóc, giữ mực nước thường xuyên trong ruộng để lúa nhanh đẻ nhánh. Do vậy, lúa xuân phát triển và sinh trưởng nhanh, trà lúa cấy sớm đang đẻ nhánh rộ, trà lúa cấy muộn đang ở thời kỳ bén rễ hồi xanh. Đến nay, hầu hết diện tích lúa đã được chăm sóc lần 1, một số diện tích lúa đang chăm sóc lần 2.
Tính đến trung tuần tháng Ba, các địa phương phía Nam đã thu hoạch 1123,3 nghìn ha lúa đông xuân, tăng 34,4% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng Sông Cửu Long thu hoạch được 1091 nghìn ha, chiếm 68% diện tích xuống giống và tăng 35,5% cùng kỳ năm trước do nước lũ thấp và rút nhanh nên tiến độ gieo cấy, thu hoạch lúa đông xuân năm nay nhanh hơn so với năm trước, trong đó Kiên Giang thu hoạch 213 nghìn ha (chiếm 71% diện tích gieo cấy); Long An 211,6 nghìn ha (chiếm 79% diện tích gieo cấy); Đồng Tháp 189 nghìn ha (chiếm 91% diện tích gieo cấy); An Giang 150 nghìn ha (chiếm 58% diện tích gieo cấy). Theo báo cáo của các tỉnh, năng suất lúa đông xuân vùng ĐBSCL ước đạt 68,4 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha chủ yếu do sâu bệnh gây hại và một số diện tích bị nhiễm mặn (Bến Tre 450 ha, Tiến Giang 11500 ha); sản lượng toàn vùng ước đạt 10,93 triệu tấn, tăng 100 nghìn tấn (0,9%) so với vụ đông xuân 2012 do diện tích tăng 18,4 nghìn ha (+1,2%).
Lúa đông xuân tại các tỉnh khác đang làm đòng, một số diện tích trà sớm bắt đầu cho thu hoạch. Do thời tiết từ đầu vụ ít mưa nên hiện nay nước tại các hồ thủy lợi tại Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Duyên hải Nam trung bộ đã giảm so trung bình hàng năm; ngoài việc các địa phương giảm diện tích gieo cấy do thiếu nước (Đông Nam bộ giảm 2,5 nghìn ha, Tây nguyên giảm 1,8 nghìn ha), diện tích lúa hiện nay cũng đang phải đối diện nguy cơ thiếu nước tưới ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây lúa (Tây Nguyên gần 3 nghìn ha lúa đang thiếu nước có nguy cơ mất trắng. Ngoài ra sâu bệnh cũng phát sinh trên cây lúa, đặc biệt là rầu nâu, chuột.
Tính đến giữa tháng Ba, cả nước đã gieo trồng được 340,5 nghìn ha ngô, bằng 103,5%; 79,9 nghìn ha khoai lang, bằng 90,7%; 54,4 nghìn ha đỗ tương, bằng 104%; 136,2 nghìn ha lạc, bằng 92,8%; 449,1 nghìn ha rau đậu, bằng 103,9% cùng kỳ năm trước.
2. Chăn nuôi
Chăn nuôi trâu, bò Quý I năm 2013 tập trung vào chăm sóc và tái đàn do số lượng trâu, bò bị giết thịt trong đợt tết Nguyên đán vừa qua khá nhiều. Ước tính hiện tại đàn trâu, bò của cả nước giảm khoảng 3-4%. Đàn trâu, bò giảm chủ yếu do diện tích chăn thả bị thu hẹp và thời gian tái đàn chậm. Sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng ước tăng khoảng 1,5-2% so với cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi lợn Quý I năm 2013 còn nhiều khó khăn, thách thức. Giá thịt lợn quý I năm 2013 giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước (Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất thịt lợn quí I năm 2013 giảm 20% so với quí I năm 2012). Đặc biệt thời gian gần đây, giá lợn hơi liên tục giảm, nhất là tại các tỉnh Nam bộ đã tạo tâm lý hoang mang cho người chăn nuôi và gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư tái đàn sau Tết. Dịch lợn tai xanh xảy ra tại các tỉnh Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Trị đã làm chết và tiêu hủy khoảng gần 3000 con lợn. Ước tính đàn lợn hiện tại giảm khoảng 1-2% so với cùng kỳ năm 2012; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I đạt xấp xỉ mức quý I năm 2012.
Chăn nuôi gia cầm Quý I năm 2013 tập trung đầu tư tái đàn, khôi phục sản xuất. Dịch cúm gia cầm xuất hiện trở lại tại một số tỉnh từ cuối tháng 2 đến nay đã làm chết và tiêu hủy khoảng hơn 14.000 con gia cầm. Dịch cúm gia cầm xuất hiện chủ yếu do thời tiết thay đổi, độ ẩm cao làm giảm sức đề kháng của gia cầm và do nhu cầu tiêu dùng thực phẩm có nguồn gốc động vật tăng cao, nhiều địa phương tổ chức lễ hội... làm phát tán mầm bệnh. Ước tính số lượng gia cầm của cả nước giảm khoảng 2-3%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước tăng nhẹ so với quý I năm 2012.
* Tình hình dịch bệnh
Tính đến ngày 20/3/2013, cả nước còn 2 tỉnh là Quảng Trị và Nghệ An có dịch lợn tai xanh chưa qua 21 ngày; 1 tỉnh có dịch cúm gia cầm chưa qua 21 ngày là Khánh Hòa; 1 tỉnh có dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày là Bắc Ninh.
II. LÂM NGHIỆP
Trong những tháng đầu năm, điều kiện thời tiết rét đậm tại các tỉnh phía Bắc, đồng thời tình hình khô hạn kéo dài tại hầu khắp các địa phương trong cả nước đã ảnh hưởng đến sản xuất lâm nghiệp, tiến độ trồng rừng chậm, nguy cơ cháy rừng cao tại nhiều nơi. Các địa phương đã khắc phục khó khăn, chủ động triển khai công tác trồng rừng mới, chăm sóc rừng trồng, khoanh nuôi và bảo vệ rừng, đồng thời phát động toàn dân thực hiện Tết trồng cây theo lời dạy của Bác Hồ trong dịp Tết Nguyên đán 2013.
Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu tháng 3/2013 ước đạt được như sau: Diện tích rừng trồng tập trung đạt 7,2 nghìn ha, giảm 20,8% so với cùng kỳ năm 2012; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 32,2 triệu cây (+2,9%); sản lượng gỗ khai thác 487,7 nghìn m3 (+7,9%); sản lượng củi khai thác 2,33 triệu ste (+3,1%).
Tính chung quý I/2013 kết quả thực hiện ước đạt: Diện tích rừng trồng tập trung đạt 8,4 nghìn ha, giảm 17,6% so với quý I năm 2012; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 64 triệu cây (+3,2%); sản lượng gỗ khai thác 1.130,7 nghìn m3 (+8,2%), một số tỉnh có sản lượng gỗ khai thác tăng khá cao như Quảng Ninh (+150%), Thanh Hóa (+23,7%), Bình Định (+20%), Thừa Thiên Huế (+17,4%), Quảng Nam (+16,7%), Phú Thọ (+10,3%)…; sản lượng củi khai thác 7,4 triệu ste (+3,1%).
Trong quý I/2013 mặc dù diện tích rừng trồng mới tập trung giảm nhưng sản lượng gỗ khai thác tăng khá cao so cùng kỳ năm trước nên giá trị sản xuất lâm nghiệp theo giá so sánh vẫn tăng khá. Sản lượng gỗ khai thác quý I tiếp tục tăng cao chủ yếu do các nguyên nhân:
(i) Giá sản phẩm gỗ khai thác tăng 1,6% so với quý IV năm 2012 và tăng 9,2% so với quý I năm 2012;
(ii) Nguồn cung và thị trưởng tiêu thụ thuận lợi: diện tích rừng sản xuất được quy hoạch ổn định, các địa phương trọng điểm về sản xuất lâm nghiệp có nhiều diện tích rừng sản xuất đến chu kỳ khai thác. Mặt khác, nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu cho sản xuất, xuất khẩu (bột giấy, dăm gỗ) lớn nên đầu ra của sản phẩm gỗ nguyên liệu ổn định. Trong 3 tháng đầu năm , 2013, giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tăng 15,8% (riêng giá trị xuất khẩu gỗ tăng 25,3%), trong khi đó giá trị nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ không tăng nên đã góp phần làm tăng nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước.
Tình hình thiệt hại rừng: Trong kỳ, đặc biệt vào thời gian cuối quý I do tình hình khô hạn kéo dài tại nên tại nhiều vùng đã có nguy cơ cháy rừng cao, trọng điểm là khu vực Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ và một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều vụ cháy rừng đã xảy ra ở khu vực này. Theo Bản tin cảnh báo cháy rừng của Cục Kiểm lâm ngày 20/3, cả nước có 20 tỉnh/thành phố có nguy cơ cháy rừng ở cấp IV và cấp V. Tổng hợp sơ bộ diện tích rừng thiệt hại trong quý I là 459,8 ha, giảm 34,4%, trong đó diện tích rừng bị cháy 403,9 ha (-36,1%), một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy nhiều như: Gia Lai 270 ha, Bình Phước 37,7 ha, Lâm Đồng 35,4 ha, Đăk Lăk 30,7 ha…, diện tích rừng bị phá 55,9 ha (-19%).
III. THỦY SẢN
Tổng sản lượng thuỷ sản quí I năm 2013 ước đạt 1151 nghìn tấn tăng 1,1% so với quý I năm 2012; trong đó cá đạt 857,5 nghìn tấn giảm 0,1%, tômđạt 108,8 nghìn tấn tăng 4,1%, thủy sản khác đạt 184,8 nghìn tấn, tăng 5,2%.
Nuôi trồng thuỷ sản
Sản lượng thủy sản nuôi trồng quí I ước đạt 500 nghìn tấn, giảm 2,3% so với quý I năm 2012; trong đó cá đạt 361,2 nghìn tấn giảm 5%, tôm đạt 79,5 nghìn tấn tăng 4,5%; thủy sản khác đạt 59,3 nghìn tấn, tăng 7,2%.
Nuôi trồng thủy sản quý I năm nay gặp khó khăn do sản xuất cá tra thua lỗ kéo dài: Giá cá tra nguyên liệu luôn ở mức thấp trong khi giá chi phí nguyên liệu đầu vào tăng, nhu cầu nhập khẩu của các thị trường lớn giảm,các ngân hàng lại đang siết chặt tín dụng vì sợ rủi ro dẫn tới không ít doanh nghiệp phải đóng cửa hoặc chỉ hoạt động cầm chừng. Bên cạnh đó, ngày 14/3/2013 Bộ Thương mại Mỹ ra phán quyết áp đặt mức thế chống phá giá đối với mặt hàng cá tra, cá ba sa phi lê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ với mức thuế nhập khẩu cao hơn từ 0,19 đôla tới 0,77 - 3,87 đôla/kg sẽ làm cho việc sản xuất, xuất khẩu mặt hàng này càng gặp nhiều khó khăn hơn. Trước những khó khăn trên nhiều tỉnh trọng điểm nuôi cá tra đã thu hẹp diện tích nuôi. Hiện tại, diện tích đang thả nuôi tại An Giang là 779 ha giảm 18%; Trà Vinh117 ha, giảm 47,5 %; Cần Thơ 667 ha, giảm 4,2 % so với cùng kỳ. Sản lượng cá tra 3 tháng đầu năm vùng đồng bằng sông Cửu Long ước tính đạt 210 nghìn tấn, giảm 15% so với cùng kỳ (An Giang 66 nghìn tấn giảm 15%; Cần thơ 23 nghìn tấn giảm 5,8%; Bến tre 25 nghìn tấn, giảm 31%; Vĩnh Long 7,4 nghìn tấn giảm 66%...). Dự báo sản lượng cá tra vẫn còn tiếp tục giảm trong các tháng tới.
Sản lượng tôm nuôi thu hoạch trong kỳ chủ yếu trên phần diện tích nuôi tỉa thưa, thả bù và nuôi trong nội đồng phục vụ nhu cầu Tết Nguyên đán. Diện tích nuôi tôm sú thâm canh chủ yếu đang trong thời kỳ cải tạo ao đầm, do các năm trước sảy ra tình trạng dịch bệnh trên diện rộng nên các địa phương đã chỉ đạo sát sao việc thả nuôi đúng lịch thời vụ. Hiện nay, một số địa phương đã bắt đầu vào vụ nuôi nhưng nhìn chung diện tích thả giống giảm: Phú Yên diện tích nuôi tôm sú 60 ha giảm 42,9%; Sóc trăng 2393 ha giảm 40,8%; Bạc Liêu 1155 ha giảm 40,8% so với cùng kỳ. Trong thời gian tới, để chủ động phòng ngừa dịch bệnh, hạn chế thiệt hại xảy ra, các địa phương cần theo dõi sát tiến độ thả nuôi, tăng cường công tác kiểm dịch tôm giống, theo dõi tình hình thời tiết nhất là trong giai đoạn chuyển mùa, bắt đầu vào mùa mưa là thời điểm thường bùng phát dịch bệnh trên tôm ở diện rộng.
Nuôi các loại thủy sản khác phát triển khá ổn định gắn với việc thực hiện chủ chương chuyển đổi và mở rộng các diện tích nuôi trồng thuỷ sản theo hướng đa canh, đa con kết hợp, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và đảm bảo môi trường sinh thái bền vững của ngành nông lâm thủy sản. Phổ biến là các mô hình nuôi kết hợp tôm–cá, tôm–cua , tôm-lúa, lúa-cá…. Phát triển nuôi lồng, bè trên biển, với các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như cá mú, cá giò, tu hài….
Khai thác thuỷ sản
Sản lượng thủy sản khai thác đạt 651 nghìn tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó khai thác biển đạt 612,4 nghìn tấn, tăng 4,2%.
Trong kỳ, giá xăng, dầu tăng đã làm cho chi phí đánh bắt tăng, thời tiết biển chịu ảnh hưởng của cơn bão số 1 và áp thấp nhiệt đới trong tháng 01 nhưng các tháng tiếp theo thời tiết khá thuận lợi cho khai thác biển. Các địa phương rất quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ tàu thuyền ra khơi, bám biển khai khác hải sản như trang bị máy thông tin liên lạc, thành lập tổ, đội tự nguyện để giúp đỡ nhau trong việc đánh bắt hải sản trên biển; hỗ trợ vay vốn ưu đãi để cải hoán, đóng mới tàu thuyền công suất lớn; tổ chức đăng ký, đăng kiểm, kiểm tra an toàn kỹ thuật và cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật tàu cá nên các chuyến đi biển xa bờ đạt hiệu quả khá. Việc khai thác cá lớn và cá ngừ đại dương tiếp tục phát triển mạnh: Sản lượng cá ngừ đại dương Bình Định đạt 2053 tấn, tăng 28,2% so với cùng kỳ; Phú yên 2850 tấn, tăng 16,3%. Giá cá ngừ đại dương hiện nay giảm gần 40% so cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, nhờ sản lượng đánh bắt tăng cao, các tàu cá thành lập từng tổ, đội để hỗ trợ nhau trong việc khai thác thủy hải sản, vận chuyển sản phẩm vào bờ, nhằm giảm chi phí nên hoạt động khai thác cá ngừ vẫn có lãi.
IV. HỖ TRỢ SẢN XUẤT VÀ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
Hạn hán và xâm nhập mặn tiếp tục gay gắt: Trước tình trạng khô hạn và xâm nhập mặn diễn ra gay gắt trên cả nước, đặc biệt khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, ngày 14/3/2013, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải chủtrì cuộc họp khẩn với các địa phương trên địa bàn Tây Nguyên, miền Trung để chỉ đạo một số yêu cầu, nhiệm vụ ứng phó, khắc phục hậu quả với hạn hán, ưu tiên tối đa hỗ trợ nông nghiệp vượt khó khăn. Các giải pháp chống hạn được xác định phù hợp với điều kiện nguồn nước hiện có, tăng cường nạo vét kênh mương, kêu gọi người dân tiết kiệm, sử dụng nước hợp lý; kiên quyết trong việc hướng dẫn cơ cấu cây trồng, những khu vực không đủ nước tưới chuyển đổi sang trồng cạn, không để nông dân gieo trồng ngoài kế hoạch gây căng thẳng, tranh chấp nguồn nước và mất mùa. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu Bộ NN&PTNT phối hợp với BộCông Thương, EVN xây dựng phương án, kế hoạch đặc biệt điều tiết nước ở các hồ thủyđiện, thủy lợi, đủ điều kiện mới xả nước, tận dụng tối đa nguồn nước hiện có.
Tình hình phòng ngừa, ngăn chặn vận chuyển và kinh doanh gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập khẩu trái phép (Đề án 2088) tiếp tục khả quan: Sau 02 tháng triển khai Đề án đã cơ bản kiểm soát, ngăn chặn hiệu quả việc vận chuyển và kinh doanh gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập khẩu trái phép, góp phần giúp chăn nuôi trong nước có bước phục hồi và phát triển; người dân dần an tâm khi sử dụng sản phẩm gia cầm; Nhận thức và hành động của người kinh doanh gia cầm, người tiêu dùng cũng có chuyển biến rõ rệt; người tiêu dùng nhận thức rõ hơn về tác hại của việc sử dụng gia cầm, sản phẩm gia cầm không rõ nguồn gốc, không bảo đảm an toàn thực phẩm đối với sức khỏe. Đây là kết quả của sự quyết tâm, chỉ đạo kiên quyết, sát sao của Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực, ra quân quyết liệt, đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương và các phương tiện thông tin đại chúng.
Tạm trữ lúa gạo cơ bản đạt kế hoạch: Thực hiện Quyết định số 311/QĐ-TTg ngày 07/2/2013, Thủ tướng Chính, tính đến ngày 20/3, các doanh nghiệp đã mua tạm trữ khoảng 980 ngàn tấn gạo (tương đương 1,9 triệu tấn lúa), cơ bản hoàn thành chỉ tiêu mua gạo tạm trữ do Chính phủ đề ra. Hiện nay, tiến độ mua gạo diễn ra chậm lại dẫn đến giá lúa trên thị trường giảm từ 100 – 150 đồng/kg, gạo nguyên liệu giảm từ 150 – 200 đồng/kg. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam , hiện giá lúa khô tại kho ở khu vực ĐBSCL (loại thường) dao động từ 5.150 – 5.250 đồng/kg, lúa dài khoảng 5.350 – 5.450 đồng/kg.
Sản xuất và chế biến cá tra tiếp tục gặp khó khăn: Ngày 14/3/2013, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC), đã ra phán quyết đối với việc lựa chọn Indonesia làm nước thứ ba thay thế Bangladesh để tính thuế chống bán phá giá đối với cá tra, cá ba sa Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Từ quyết định trên, thuế suất đánh vào mặt hàng cá tra, cá ba sa phi lê đông lạnh của các doanh nghiệp Việt Nam cao hơn nhiều lần so với mức thuế sơ bộ và mức thuế của các đợt rà soát trước. Hiện tại ở Đồng bằng sông Cửu Long, với giá thu mua cá tra nguyên liệu khoảng 21.000 đồng/kg, người sản xuất lỗ khoảng 2.000-3.000 đồng/kg. Do đó, với mức thuế mới, người sản xuất cá và doanh nghiệp chế biến càng gặp nhiều khó khăn, tăng nguy cơ dừng sản xuất. Trước tình hình này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng đã có văn bản gửi Bộ trưởng Bộ Thương mại Hoa Kỳ để xem xét, cân nhắc đầy đủ các yếu tố, những nguy cơ tiềm tàng để có một quyết định khách quan, công bằng, đồng thời hài hòa lợi ích của các bên liên quan, và đề nghị DOC quay lại sử dụng các giá trị thay thế hợp lý của Bangladesh như cách thức và phương pháp mà DOC đã sử dụng trong giai đoạn điều tra cuối cùng của POR6, POR7 và trong giai đoạn sơ bộ của POR8 để đưa ra quyết định cuối cùng về thuế chống bán phá giá cho POR8 đối với sản phẩm cá tra, cá basa Việt Nam./.
File đính kèm: BC Nongnghiep T3.13.pdf
Vụ Kinh tế Nông nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư