I. SẢN XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN
1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa và rau màu vụ mùa. Tính đến ngày 15/9, toàn tỉnh đã gieo cấy được 37.160 ha lúa mùa, giảm 4,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 19.040 ha lúa ruộng, tăng 1,0%; 18.120 ha lúa nương, giảm 9,6%. Vụ mùa năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước do một số diện tích đã chuyển sang trồng cây ăn quả và một số diện tích bị thiệt hại do mưa lũ.
Cũng đến thời điểm trên, toàn tỉnh đã gieo trồng được 124.097 ha ngô, 32.836 ha sắn, 3.708 ha dong riềng, 2.401 ha rau và đậu các loại, 547 ha lạc, 431 ha đậu tương, 203 ha khoai lang. So với cùng kỳ năm trước, diện tích ngô giảm 9,4%; sắn tăng 2,1%; dong riềng tăng 5,5%; rau, đậu các loại tăng 0,3%; lạc giảm 9,6%; đậu tương giảm 4,2%; khoai lang giảm 3,3%.
Đến giữa tháng Chín, toàn tỉnh đã thu hoạch được 28.540 ha ngô, chiếm 23,0% diện tích gieo cấy, sản lượng đạt 117.586 tấn, giảm 15,7% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của thời tiết mưa nhiều nên ngô vụ mùa năm nay trồng muộn; 10.379 tấn rau, đậu các loại, tăng 10,1%; 56 tấn khoai lang, tăng 1,8%; 32 tấn lạc, tương đương cùng kỳ năm trước.
Cây lâu năm tiếp tục phát triển với diện tích hiện có 72.142 ha, trong đó cây ăn quả 41.696 ha, chiếm 57,8%; cây lấy sản phẩm cho công nghiệp chế biến 29.341 ha, chiếm 40,7%. So với cùng kỳ năm trước, diện tích cây lâu năm tăng 21,2%; cây ăn quả tăng 37,7%; cây lấy sản phẩm cho công nghiệp chế biến tăng 4,8%. Diện tích cây ăn quả tăng chủ yếu do có chính sách đầu tư hỗ trợ phát triển của tỉnh, tính chung 9 tháng đã trồng mới 6.891 ha cây ăn quả, trong đó trồng trên đất dốc 5.399 ha và 1.996 ha cây ghép lai cho năng suất, chất lượng cao, nâng tổng diện tích cây ăn quả trồng trên đất dốc lên 24.453 ha và diện tích cây lâu năm ghép lai lên 10.319 ha (trong đó diện tích cho sản phẩm 3.576 ha); diện tích cây trồng đạt tiêu chuẩn VietGap hiện có 336 ha nhãn, 260 ha chè, 279 ha rau các loại, 105 ha mận, 34 ha xoài, 20 ha na, 17 ha cam, 08 ha chanh leo, 05 ha thanh long, 05 ha dâu tây, 04 ha bơ và 02 ha bưởi.
Sản lượng một số cây lâu năm trong 9 tháng tăng so với cùng kỳ năm trước: 60.147 tấn nhãn, tăng 71,4%; 37.307 tấn mận, tăng 3,6%; 34.749 tấn chè, giảm 2,7%; 22.233 tấn chuối, tăng 19,4%; 17.031 tấn xoài, tăng 38,8%; 4.973 tấn cà phê, tăng 63,6%; 4.892 tấn chanh leo, tăng 217,7%; 2.803 tấn bơ, tăng 33,0%; 1.427 tấn cam, tăng 98,7%; 1.271 tấn bưởi, tăng 50,8%; 623 tấn cao su, tăng 5,3 lần ; 330 tấn na, tăng 30,4%; 152 tấn thanh long, tăng 31,0%.
Trong tháng 9, trên địa bàn tỉnh xuất hiện dịch bệnh đối với một số cây trồng: Lúa 497 ha; chè 62 ha; cà phê 213 ha; cây ăn quả 130 ha; cây hàng năm khác 55 ha, tuy nhiên không có diện tích mất trắng, dự ước giá trị thiệt hại 578 triệu đồng.
b) Chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc, gia cầm nhìn chung ổn định, không xảy ra dịch bệnh lớn. Tính đến tháng 9, đàn trâu toàn tỉnh có 141.755 con, giảm 2,1%; đàn bò 304.187 con, tăng 9,6%; đàn lợn 599.348 con, tăng 1,1%; đàn gia cầm 6.282 nghìn con, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng tháng 9 ước đạt 376 tấn, thịt bò 363 tấn, thịt lợn 2.125 tấn, thịt gia cầm 705 tấn, sản lượng sữa tươi 7.570 tấn, trứng gia cầm 7.067 nghìn quả. Tính chung 9 tháng, sản lượng thịt trâu xuất chuồng ước đạt 3.543 tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò 3.990 tấn, tăng 5,3%; thịt lợn 34.492 tấn, tăng 0,8%; thịt gia cầm 8.038 tấn, tăng 2,9%; sản lượng sữa tươi ước đạt 66.167 tấn, tăng 25,6%; trứng gia cầm 49.307 nghìn quả, giảm 3,0%.
Trong 9 tháng, xảy ra dịch lở mồm long móng trên địa bàn huyện Yên Châu, Phù Yên, Bắc Yên và Sông Mã, Mộc Châu làm 2.585 con gia súc mắc bệnh, chết 02 con. Công tác tiêm phòng cho gia súc, gia cầm đạt 311.165 liều vắc xin THT; 448.630 liều vắc xin lở mồm long móng; 110.930 liều vắc xin dịch tả; 124.000 liều vắc xin dại; 1.243.205 liều vắc xin Niu cát xơn; 82.450 liều vắc xin ung khí thán. Công tác kiểm dịch xuất và nhập gia súc, gia cầm đuợc kiểm soát chặt chẽ đảm bảo kịp thời phát hiện và xử lý nhanh các trường hợp mắc bệnh, tránh dịch bệnh lây lan ra diện rộng.
2. Lâm nghiệp
Trong 9 tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung toàn tỉnh ước tính đạt 1.432 ha, giảm 67,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 300 nghìn cây, giảm 76,5%; diện tích rừng trồng được chăm sóc đạt 20.000 ha, tăng 3,7%; rừng trồng được khoanh nuôi tái sinh 27.150 ha, tăng 5,3%; rừng được giao khoán, bảo vệ 521.200 ha, tăng 0,4%.
Sản lượng gỗ khai thác tháng 9 ước tính đạt 10.949 m3, tăng 105,1%; củi khai thác ước đạt 3.232 ste, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 29.750 m3, giảm 1,3% (giảm chủ yếu từ khai thác rừng tự nhiên, do thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về đóng cửa rừng); củi khai thác đạt 689.780 ste, tăng 3,3% so với cùng kỳ.
Mặc dù công tác quản lý, bảo vệ rừng được quan tâm thực hiện nhưng các vụ vi phạm lâm luật vẫn xảy ra. Trong tháng 9, toàn tỉnh xảy ra 44 vụ vi phạm lâm luật với tổng số tiền phạt vi phạm hành chính nộp ngân sách nhà nước 518 triệu đồng. Tính chung 9 tháng, số vụ vi phạm lâm luật là 358 vụ, giảm 17,7% so với cùng kỳ năm trước (do các cấp, các ngành quan tâm, thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng); số tiền phạt vi phạm hành chính là 2.639 triệu đồng, giảm 11,3%; diện tích rừng bị thiệt hại 17,7 ha, giảm 29,8%, trong đó diện tích rừng bị cháy 4,1 ha, giảm 20,0%; diện tích rừng bị chặt phá 13,6 ha, giảm 32,3%.
3. Thuỷ sản
Diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn tỉnh tính đến tháng 9/2018 đạt 2.705 ha, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích nuôi cá 2.672 ha, giảm 0,3%. Số lồng bè nuôi trồng thủy sản đạt 9.318 chiếc, tăng 3,3% với thể tích 783.733 m3, giảm 4,4%.
Sản lượng thuỷ sản tháng 9 ước tính đạt 548 tấn, giảm 15,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng 529 tấn, giảm 14,5%; sản lượng khai thác 19 tấn, giảm 42,4%. Sản lượng giống thủy sản 13 triệu con, tăng 44,4%.
Tính chung 9 tháng, sản lượng thủy sản ước tính đạt 5.785 tấn, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng 4.967 tấn, tăng 9,3%; khai thác 818 tấn, tăng 1,9%. Sản lượng giống thủy sản đạt 105 triệu con, tăng 15,4%.
II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 9 ước tính giảm 19,2% so với tháng trước và giảm 13,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 24,5% và giảm 30,4%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,1% và tăng 18,6%; sản xuất và phân phối điện giảm 20,9% và giảm 15,7%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,6% và giảm 3,2%. Sản xuất công nghiệp tháng 9 giảm chủ yếu do ngành sản xuất điện chiếm tỷ trọng cao trong toàn ngành nhưng sản lượng điện sản xuất trong tháng giảm 21,0% so với tháng trước và giảm 4,0% so với cùng kỳ năm trước (chủ yếu do thuỷ điện Sơn La giảm 26,6% và giảm 23,6%).
Tính chung 9 tháng năm 2018, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 14,0% trong 6 tháng đầu năm bởi xu hướng giảm dần tốc độ tăng qua các quý (quý I tăng 40,2%, quý II tăng 7,3%, riêng quý III giảm 7,8%). Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 7,8% (quý I tăng 11,2%, quý II tăng 4,5%, quý III tăng 7,7%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,5% (từ tốc độ tăng 49,5% trong quý I, tăng 7,8% trong quý II, giảm mạnh trong quý III với mức giảm 8,7%, chủ yếu do sản lượng điện phát ra của Công ty Thủy điện Sơn La giảm); 02 ngành có chỉ số sản xuất giảm là ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,0%; ngành khai khoáng giảm 19,4%.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 9 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp: In, sao chép bản ghi các loại tăng 41,2%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 22,5%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 10,2%; dệt tăng 9,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 9,0%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 3,5%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải, tái chế phế liệu giảm 0,7%; khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 2,6%; khai khoáng khác giảm 19,4%; sản xuất đồ uống giảm 28,6%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 31,8%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) giảm 76,8%.
Trong 9 tháng năm nay, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản phẩm in khác tăng 33,0%; nước tinh khiết tăng 29,9%; sữa chua, sữa và kem lên men hoặc axít hoá tăng 22,2%; đường chưa luyện tăng 17,6%; xi măng tăng 9,0%; điện sản xuất tăng 5,3% (trong đó: Thuỷ điện Sơn La giảm 1,0%, thuỷ điện Huội Quảng tăng 13,3%). Tuy nhiên có một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Sữa và kem chưa cô đặc, chưa pha thêm đường và chất ngọt khác tăng 3,5%; chè nguyên chất và dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế tăng 2,2%; nước uống được giảm 2,6%; điện thương phẩm giảm 3,6%; đá xây dựng các loại giảm 19,5%; bia hơi giảm 35,8%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2018 tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo tăng 3,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) tăng 3,7 lần; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 82,7%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 39,1%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 7,9%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,6%; sản xuất đồ uống giảm 26,9%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 30,2%; dệt giảm 92,5%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/9/2018 tăng 75,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 48,7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 16,2%; sản xuất giường tủ, bàn ghế giảm 33,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 75,6%; dệt tăng 6,1 lần; in, sao chép bản ghi các loại tăng 51,0 lần.
III. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
Trong tháng 9, toàn tỉnh có 12 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký 79,2 tỷ đồng, giảm 14,3% về số doanh nghiệp và giảm 56,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 6,6 tỷ đồng, giảm 49,2%. Trong tháng có 08 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 66,7%; 04 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm 20,0% so với cùng kỳ năm 2017.
Tính chung 9 tháng , toàn tỉnh có 194 doanh nghiệp thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.748,2 tỷ đồng, giảm 26,5% về số doanh nghiệp và giảm 30,3% số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 9,0 tỷ đồng, giảm 5,3%. Số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động là 57 doanh nghiệp, tăng 32,6%; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 27 doanh nghiệp, tăng 50,0%so với cùng kỳ năm trước.
IV. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa
Hoạt động thương mại dịch vụ 9 tháng năm nay khá sôi động, công tác quản lý điều hành bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn giá cả trên thị trường được các cấp, các ngành chỉ đạo kịp thời, hiệu quả. Bên cạnh đó công tác khuyến khích, động viên, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa Việt Nam có chất lượng, giá cả hợp lý luôn được quan tâm; tăng cường tổ chức mạng lưới bán hàng tại các huyện, thành phố; kết nối giữa nhà sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tổ chức tốt các hội chợ, lễ hội, khai trương trung tâm thương mại đầu tiên với phương thức bán hàng đa dạng, phong phú… đã góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh, kích thích sức mua của người tiêu dùng.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 9 ước tính đạt 1.681.273 triệu đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm ngành hàng so với cùng kỳ năm trước đều tăng, trong đó tăng cao nhất là nhóm ô tô các loại tăng 14,8%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 11,8%; lương thực, thực phẩm tăng 11,5%; xăng dầu các loại tăng 10,9%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 10,8%; các nhóm ngành hàng khác tăng từ 5,0% đến 10,3%.
Tính chung 9 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 14.337.337 triệu đồng, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước, xu hướng phát triển quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 9,9%, quý II tăng 10,6%, quý III tăng 11,2%), trong đó: Nhóm sửa chữa xe xó động cơ, môtô, xe máy tăng 11,8%; ô tô các loại tăng 11,6%; lương thực, thực phẩm và phương tiện đi lại tăng 10,9%; xăng, dầu các loại tăng 10,8%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 10,7%; các nhóm ngành hàng khác tăng từ 9,0% đến 10,3%.
2. Doanh thu hoạt động dịch vụ
Doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 9 ước tính đạt 461.480 triệu đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 14.865 triệu đồng, tăng 2,3% và tăng 1,5%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 148.065 triệu đồng, tăng 2,4% và tăng 4,7%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 1.595 triệu đồng, tăng 1,1% và tăng 8,6%; doanh thu dịch vụ khác đạt 296.955 triệu đồng, tăng 1,2% và tăng 8,8%.
Tính chung 9 tháng, doanh thu hoạt động dịch vụ ước đạt 4.028.309 triệu đồng, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Dịch vụ lưu trú tăng 7,5%; ăn uống tăng 8,1%; du lịch lữ hành giảm 17,7% (chủ yếu do công ty TNHH một thành viên Thương mại, du lịch Sầm Nưa và công ty TNHH một thành viên Du lịch Chiềng Khoa hiệu quả kinh doanh thấp, chuyển sang hoạt động ngành nghề khác); dịch vụ khác tăng 8,5%.
3. Vận tải hành khách và hàng hoá
Vận tải hành khách và hàng hóa trên địa bàn ổn định, đáp ứng nhu cầu vận chuyển và đi lại của nhân dân, đặc biệt trong dịp nghỉ Tết Nguyên đán và mùa Lễ hội năm 2018, nghỉ lễ 30/4, 01/5, 02/9 và kỳ thi THPT Quốc gia năm 2018, khối lượng hành khách tăng cao, ngành giao thông vận tải đã chỉ đạo các đơn vị vận tải huy động tối đa phương tiện đảm bảo giao thông thông suốt, an toàn.
Vận tải hành khách tháng 9 ước tính đạt 317 nghìn lượt khách và 31.256 nghìn lượt khách.km, so với tháng trước tăng 1,6% và tăng 1,9%, so với cùng kỳ năm trước cùng tăng 7,7%. Tính chung 9 tháng, vận tải hành khách đạt 2.772 nghìn lượt khách, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước và 272.943 nghìn lượt khách.km, tăng 7,9%, trong đó vận tải hành khách đường bộ đạt 2.518 nghìn lượt khách, tăng 6,7% và 270.127 nghìn lượt khách.km, tăng 7,8%.
Doanh thu vận tải hành khách tháng 9 ước tính đạt 30.470 triệu đồng, tăng 2,0% so với tháng trước và tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, doanh thu vận tải hành khách đạt 258.512 triệu đồng, tăng 8,9%, trong đó doanh thu vận tải hành khách đường bộ 250.326 triệu đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Vận tải hàng hóa tháng 9 ước tính đạt 420 nghìn tấn và 46.898 nghìn tấn.km, cùng tăng 1,6% so với tháng trước, so với cùng kỳ năm trước tăng 7,5% và tăng 7,9%. Tính chung 9 tháng, vận tải hàng hóa đạt 3.631 nghìn tấn, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước và 415.916 nghìn tấn.km, tăng 8,6%, trong đó vận tải hàng hóa đường bộ đạt 3.585 nghìn tấn, tăng 8,2% và 414.540 nghìn tấn.km, tăng 8,6%.
Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 9 ước tính đạt 140.500 triệu đồng, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, doanh thu vận tải hàng hóa đạt 1.249.760 triệu đồng, tăng 8,8%, trong đó doanh thu vận tải hàng hóa đường bộ 1.244.222 triệu đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 9 ước tính đạt 4.163 triệu đồng, tăng 3,0% so với tháng trước và tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 35.886 triệu đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bốc xếp hàng hóa đạt 440 triệu đồng, tăng 10,6%; doanh thu hoạt động khác 35.446 triệu đồng, tăng 10,7%.
4. Bưu chính viễn thông
Hoạt động bưu chính viễn thông duy trì bảo đảm thông suốt, an toàn, chất lượng ngày một nâng lên, phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh. Doanh thu bưu chính viễn thông 9 tháng ước đạt 805.550 triệu đồng, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến cuối tháng 9/2018, tổng số thuê bao điện thoại ước tính đạt 911.044 thuê bao, giảm 6,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thuê bao di động đạt 863.242 thuê bao, giảm 7,1%; thuê bao cố định đạt 47.802 thuê bao, giảm 2,6%. Số thuê bao Internet ước đạt 76.845 thuê bao (trong đó phát triển mới 5.600 thuê bao), tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2017.
V. VỐN ĐẦU TƯ
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý III năm 2018 theo giá hiện hành ước đạt 3.032.547 triệu đồng, giảm 17,5% so với quý trước và giảm 4,0% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 1.272.736 triệu đồng, giảm 9,5% và giảm 7,9%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 1.731.507 triệu đồng, giảm 22,7% và giảm 2,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 28.304 triệu đồng, giảm 7,4% so với quý trước, cùng kỳ năm trước không phát sinh.
Tính chung 9 tháng, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn ước tính đạt 9.748.950 triệu đồng, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước và đạt 61,3% so với kế hoạch năm, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 3.478.510 triệu đồng, chiếm 35,7% tổng vốn và giảm 4,2% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 6.206.112 triệu đồng, chiếm 63,7% và tăng 11,0%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 64.328 triệu đồng, chiếm 0,6%, cùng kỳ năm 2017 không phát sinh.
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 9 tháng ước tính đạt 1.943.122 triệu đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn trung ương quản lý đạt 516.543 triệu đồng, giảm 53,5%; vốn địa phương quản lý đạt 2.961.967 triệu đồng, tăng 17,5%, trong đó: Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 1.340.255 triệu đồng, tăng 6,8%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 478.150 triệu đồng, tăng 41,7%.
Trong vốn đầu tư của khu vực ngoài Nhà nước, vốn của các tổ chức, doanh nghiệp ngoài Nhà nước 2.699.804 triệu đồng, tăng 18,7%; vốn đầu tư của dân cư 3.506.308 triệu đồng, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung tình hình thực hiện vốn đầu tư trong những tháng gầy đây có xu hướng giảm và giảm cả 3 khu vực, về phía nhà nước, do nguồn vốn đầu tư còn hạn chế đã ảnh hưởng đến việc bố trí vốn để thực hiện các dự án, một số dự án lớn chưa có vốn thực hiện (dự án kè suối Nậm La - giai đoạn II, dự án đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu...); vốn khu vực ngoài nhà nước đạt thấp do xu hướng của người dân về đầu tư sản xuất kinh doanh, xây dựng, sửa chữa nhà ở trong tháng 7 âm lịch giảm; bên cạnh đó trên địa bàn tỉnh xuất hiện nhiều đợt mưa lớn, kéo dài, gió lốc, lũ quét, sạt lở đất... gây ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng các công trình, dự án. Tính chung 9 tháng, với sự chỉ đạo chặt chẽ, quyết liệt của UBND tỉnh và sự cố gắng, nỗ lực của các địa phương, các sở, ban, ngành trong quá trình tổ chức triển khai, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tăng khá so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên so với kế hoạch năm còn chậm. Dự kiến vốn đầu tư thực hiện những tháng cuối năm tiếp tục tăng khá. Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và đầu tư năm 2018 như kế hoạch đề ra, bên cạnh việc tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư cho phát triển, trong những tháng cuối năm, các cấp, các ngành và địa phương cần tập trung thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ triển khai và giải ngân các chương trình, dự án; nâng cao trách nhiệm quản lý của người đứng đầu, các chủ đầu tư; tiếp tục rà soát, cân đối và phân bổ bổ sung các nguồn vốn, trong đó ưu tiên cho dự án khắc phục hậu quả do mưa lũ...
VI. TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
1. Thu, chi ngân sách nhà nước
Công tác thu ngân sách đã đảm bảo được nguồn kinh phí đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện các chương trình trọng điểm của tỉnh, đảm bảo an sinh xã hội. Đã quản lý và khai thác tốt các nguồn thu phát sinh trên địa bàn, tăng cường các biện pháp thu nợ đọng thuế.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tháng 9 ước tính đạt 1.157,7 tỷ đồng, giảm 6,3% so với tháng trước và giảm 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Thu cân đối ngân sách nhà nước đạt 470,2 tỷ đồng, giảm 9,4% và giảm 5,0%; thu bổ sung từ ngân sách cấp trên 685,5 tỷ đồng, tăng 0,4% và giảm 5,5%.
Tính chung 9 tháng, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước tính đạt 12.690,6 tỷ đồng, bằng 95,1% dự toán năm và tăng 23,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Thu cân đối ngân sách nhà nước đạt 6.418,2 tỷ đồng, bằng 140,0% và tăng 41,0%; thu bổ sung từ ngân sách cấp trên 6.214,6 tỷ đồng, bằng 70,9% và tăng 9,3%. Trong thu cân đối ngân sách nhà nước, thu nội địa ước đạt 3.391,8 tỷ đồng, bằng 76,2% và tăng 17,0%; thu hải quan ước đạt 45,7 tỷ đồng, bằng 126,8% và tăng 37,6%.
Chi ngân sách đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả đảm bảo đúng Luật ngân sách Nhà nước. Tổng chi ngân sách nhà nước tháng 9 ước tính đạt 1.442,2 tỷ đồng, tăng 9,4% so với tháng trước và tăng 48,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 10.522,2 tỷ đồng, bằng 80,3% dự toán năm và tăng 35,3% so với cùng kỳ năm trước, đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cụ thể: Chi thường xuyên đạt 7.407,6 tỷ đồng, bằng 82,7% và tăng 28,4%; chi đầu tư phát triển đạt 1.266,4 tỷ đồng, bằng 82,2% và tăng 9,4%; chi chương trình mục tiêu quốc gia, hỗ trợ mục tiêu đạt 1.503,6 tỷ đồng, bằng 72,6% và tăng 105,9%.
2. Thu chi tiền mặt qua quỹ ngân hàng, tín dụng
Hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng trên địa bàn ổn định, an toàn và tăng trưởng tốt; đã thực hiện tốt các quy định và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất huy động, lãi suất cho vay; tăng cường công tác huy động vốn, thực hiện các giải pháp mở rộng tín dụng hiệu quả, góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, ưu tiên tập trung vốn cho các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tổng thu tiền mặt qua quỹ ngân hàng 9 tháng ước thực hiện 72.912 tỷ đồng, tổng chi tiền mặt ước thực hiện 73.274 tỷ đồng, bội chi 362 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm trước tổng thu tiền mặt tăng 6,8%, tổng chi tiền mặt tăng 5,6%.
Dư nợ tín dụng ước đạt 32.400 tỷ đồng, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 14.400 tỷ đồng, tăng 20,9%; dư nợ trung dài hạn đạt 18.000 tỷ đồng, tăng 13,2%. Trong tổng dư nợ, dư nợ cho vay các đối tượng chính sách đến 31/8/2018 là 3.893 tỷ đồng, chiếm 12,0%; nợ xấu toàn địa bàn là 279 tỷ đồng, chiếm 0,9%.
Huy động vốn tại địa phương đến 30/9/2018 ước tính đạt 16.300 tỷ đồng, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tiền gửi tiết kiệm 12.930 tỷ đồng, tăng 14,5%; tiền gửi các tổ chức kinh tế 3.300 tỷ đồng, tăng 15,7%; tiền gửi giấy tờ có giá 70 tỷ đồng, giảm 24,3%.
VII. XUẤT, NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
1. Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 9 ước tính đạt 1.786,5 nghìn USD, tăng 8,3% so với tháng trước, chủ yếu do xuất khẩu xi măng đạt 17,7 nghìn USD, tăng 62,4%; xuất khẩu hạt rau quả các loại đạt 40,0 nghìn USD, tăng 14,3%; xuất khẩu chè đạt 1.528,8 nghìn USD, tăng 9,2%; riêng xuất khẩu hàng dệt may đạt 200,0 nghìn USD, giảm 1,8%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 9 tăng 87,2%, chủ yếu do xuất khẩu chè tăng 87,5% và chiếm tỷ trọng lớn với 85,6% trong kim ngạch xuất khẩu; xuất khẩu xi măng tăng 2,1 lần. Thị trường xuất khẩu chủ yếu trong tháng: Apganixtan, Lào, Đài Loan, Nhật Bản, Ấn Độ.
Tính chung 9 tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 8.734,0 nghìn USD, tăng 36,9% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do xuất khẩu ngô giống đạt 352,5 nghìn USD, tăng 204,9%; xuất khẩu xi măng đạt 111,1 nghìn USD, tăng 103,1%; xuất khẩu chè đạt 7.333,5 nghìn USD, tăng 24,7%. Bên cạnh đó một số mặt hàng xuất khẩu giảm như: Xuất khẩu lõi ngô ép đạt 28,6 nghìn USD, giảm 39,3%; xuất khẩu tơ tằm đạt 112,2 nghìn USD, giảm 60,4%. Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 9 tháng, Apganixtan là thị trường lớn nhất với kim ngạch đạt 6.168,5 nghìn USD; Đài Loan đạt 1.118,6 nghìn USD; Lào đạt 463,6 nghìn USD; Ấn Độ đạt 799,6 nghìn USD; Nhật Bản đạt 187,7 nghìn USD; Hàn Quốc đạt 28,6 nghìn USD.
2. Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 9 ước tính đạt 1.536,0 nghìn USD, giảm 7,2% so với tháng trước, chủ yếu do nhập khẩu máy móc thiết bị đạt 960,0 nghìn USD, giảm 16,4% và chiếm tỷ trọng lớn với 62,3% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhập khẩu cỏ Anphapha đạt 200,0 nghìn USD, tăng 9,9%; nhập khẩu phân bón đạt 336,0 nghìn USD, tăng 16,7%; nhập khẩu hàng hoá khác đạt 40,0 nghìn USD, tăng 10,5%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 9 giảm 52,0%, chủ yếu do nhập khẩu hàng hoá khác giảm 96,2%; nhập khẩu phân bón giảm 53,3%; nhập khẩu máy móc thiết bị giảm 24,2%; riêng nhập khẩu cỏ Anphapha tăng 33,3%;
Ước tính 9 tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 14.970,9 nghìn USD, giảm 26,2% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do nhập khẩu hàng hoá khác giảm 92,7%; nhập khẩu phân bón giảm 57,3%; nhập khẩu máy móc thiết bị tăng 2,7%; nhập khẩu cỏ Anphapha tăng 29,4%.
VIII. CHỈ SỐ GIÁ
1. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2018 tăng 0,53% so với tháng trước, trong đó khu vực thành thị tăng 0,57%, khu vực nông thôn tăng 0,50%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ, 08 nhóm có chỉ số giá tăng: Giáo dục tăng 4,63% (chủ yếu do thực hiện lộ trình tăng giá học phí hàng năm); giao thông tăng 0,67% (chủ yếu do giá xăng, dầu tăng 1,81%, bình quân giá xăng tăng 293 đồng/lít, giá dầu tăng 355 đồng/lít); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,54% (chủ yếu ở một số mặt hàng đồ dùng phục vụ gia đình tăng); hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,46% (lương thực tăng 0,35%; thực phẩm tăng 0,60%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,30% (tăng chủ yếu ở mặt hàng đồ dùng phục vụ cá nhân); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,21%; nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng tăng 0,15% (chủ yếu ở mặt hàng gas tăng 2,40%; thép xây dựng tăng 0,75%;); văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,06%; 03 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tương đương tháng trước.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý III tăng 2,92% so với bình quân cùng kỳ năm 2017; bình quân 9 tháng tăng 2,04%. CPI tháng 9/2018 tăng 2,10% so với tháng 12/2017 và tăng 2,70% so với cùng kỳ năm trước. CPI 9 tháng tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (1) Thực hiện Nghị định số 141/2017/NĐ-CP ngày 07/12/2017 về việc Quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động áp dụng từ ngày 01/01/2018; (2) Thực hiện tăng học phí theo Nghị quyết số 79/2018/NQ-HĐND và Nghị quyết số 126/2015/NQ-HĐND của Hội đồng Nhân dân tỉnh; (3) Giá xăng, dầu được điều chỉnh tăng mạnh 11 lần và giảm 06 lần làm cho chỉ số giá xăng dầu bình quân 9 tháng tăng 17,30% so với cùng kỳ; (4) Giá gas tăng liên tục 04 lần làm chỉ số giá gas bình quân 9 tháng tăng 8,19%.
Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI trong 9 tháng, có một số yếu tố góp phần kiềm chế CPI: (1)Thực hiện Thông tư số 15/2018/TT-BYT của Bộ Y tế quy định thống nhất giá khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc, giá nhóm dịch vụ y tế giảm mạnh; (2) Giá thịt gia súc tươi sống giảm mạnh vào những tháng đầu năm (3) Giá thiết bị điện thoại giảm 0,25% tác động làm chỉ số giá bưu chính viễn thông giảm 0,05%;
Dự báo tháng 10/2018 giá cả thị trường tăng nhẹ.
2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng tháng 9/2018 giảm 0,76% so với tháng trước, giảm 0,42% so với tháng 12/2017 và giảm 1,33% so với cùng kỳ năm trước, giá vàng 99,99% bán ra bình quân trong tháng là 3.640.000 đồng/chỉ.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2018 tăng 0,17% so với tháng trước, tăng 2,54% so với tháng 12/2017 và tăng 2,49% so với cùng kỳ năm trước.
X. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Đời sống công chức, viên chức và người hưởng bảo hiểm xã hội 9 tháng năm nay nhìn chung ổn định, thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động khu vực nhà nước 4.100 nghìn đồng, khu vực doanh nghiệp nhà nước 5.600 nghìn đồng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 3.800 nghìn đồng và doanh nghiệp ngoài Nhà nước 3.400 nghìn đồng.
Đời sống dân cư nông thôn được cải thiện nhưng còn thiếu bền vững, tình trạng thiếu đói giáp hạt vẫn xảy ra tại các huyện Quỳnh Nhai, Thuận Châu, Mường La, Bắc Yên, Phù Yên, Mộc châu, cao điểm trong tháng 02/2018 với 5.276 hộ và 22.288 nhân khẩu; UBND các huyện đã hỗ trợ các hộ 290,79 tấn gạo để khắc phục tình trạng thiếu đói.
Công tác an sinh, xã hội và xóa đói, giảm nghèo tiếp tục được quan tâm thực hiện. Trong 9 tháng, Ngân hàng Chính sách xã hội đã thực hiện các chương trình cho vay đối với 27.053 lượt hộ, tổng số tiền 800.940 triệu đồng; toàn tỉnh đã cấp 778.866 thẻ BHYT cho các đối tượng chính sách bảo trợ xã hội và 154.455 thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi; hỗ trợ 2.354,6 tấn gạo cho học sinh và trường ở xã đặc biệt khó khăn trong học kỳ I năm học 2018-2019; trợ cấp thường xuyên cho 28.782 đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP; cấp 1.074.231 tờ báo và cuốn tạp chí cho đồng bào vùng dân tộc, miền núi theo Quyết định số 59/QĐ-TTg ngày 16/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Trao tặng 50.553 suất quà trị giá 19.485 triệu đồng, 102 sổ tiết kiệm trị giá 242 triệu đồng, xây dựng 08 nhà tình nghĩa; giúp đỡ 12.253 ngày công lao động cho các đối tượng chính sách nhân dịp Tết cổ truyền và kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ. Bên cạnh đó, các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân đã hỗ trợ các đối tượng chính sách, hộ nghèo, thiệt hại do mưa lũ, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn… giá trị hơn 5,9 tỷ đồng; phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ trẻ em khuyết tật Việt Nam tổ chức khám sàng lọc cho 713 trẻ em khuyết tật và phẫu thuật cho 142 trường hợp; phối hợp với Bệnh viện Tim Hà Nội khám sàng lọc cho 146 trẻ em bị tim bẩm sinh.
Công tác tư vấn việc làm đạt 6.905 lượt người, trong đó có 2.000 lao động đi làm việc tại các doanh nghiệp ngoài tỉnh, 19 người tham gia xuất khẩu sang thị trường nước ngoài; chuyển đổi và tạo việc làm cho 17.400 lao động; thông tin thị trường lao động cho 146.246 lượt người; đăng thông tin người tìm việc cho 541 hồ sơ và việc tìm người cho 216 doanh nghiệp; tuyển sinh đào tạo dạy nghề đạt 5.537 học viên, tốt nghiệp 2.355 người. Thực hiện tốt các chính sách về bảo hiểm thất nghiệp với 1.130 đối tượng được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Thực hiện chương trình nông thôn mới toàn tỉnh có 188/188 xã, trong đó 16 xã đạt chuẩn nông thôn mới; 08 xã đạt 15-18 tiêu chí; 34 xã đạt từ 10-14 tiêu chí; 130 xã đạt từ 5-9 tiêu chí.
3. Giáo dục và đào tạo
Trong 9 tháng, ngành Giáo dục đã tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kết thúc các nhiệm vụ năm học 2017-2018; triển khai nhiệm vụ năm học 2018-2019. Tổ chức thành công kỳ thi học sinh giỏi THCS và chọn học sinh giỏi THPT Quốc gia tại tỉnh; cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học cấp tỉnh; tổ chức thi và cấp chứng chỉ nghề phổ thông cho 10.705 học sinh THPT và THCS; tổ chức kỳ thi THPT quốc gia, toàn tỉnh có 10.442 thí sinh dự thi với tỷ lệ tốt nghiệp đạt 97,3%.
Kết thúc năm học 2017-2018, toàn tỉnh có 2.015 học sinh bỏ học; 51.758 học sinh phổ thông và giáo dục thường xuyên hoàn thành cấp học, trong đó: tiểu học 23.893 học sinh, trung học cơ sở 18.492 học sinh; trung học phổ thông 8.150 học sinh, bổ túc trung học phổ thông 1.223 học sinh. 12 huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi, chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và giáo dục THCS mức độ 01; toàn tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và giáo dục THCS với cùng mức độ 01; trên địa bàn tỉnh hiện có 285/828 trường đạt chuẩn quốc gia, 53/828 trường đạt chuẩn chất lượng giáo dục.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ năm học 2018 - 2019, tập trung cho công tác khai giảng. Toàn tỉnh dự kiến huy động 20,6% số trẻ trong độ tuổi ra nhà trẻ; 97,0% số trẻ trong độ tuổi mẫu giáo ra lớp và huy động hầu hết học sinh trong độ tuổi vào lớp 1, lớp 6; 11.973 học sinh vào lớp 10 các trường trung học phổ thông; 1.838 học sinh vào học bổ túc. Các trường Đại học, Cao đẳng, Cao đẳng nghề và Trung cấp chuyên nghiệp dự kiến tuyển mới 6.390 sinh viên, trong đó: Hệ đại học chính quy 1.885 sinh viên; hệ cao đẳng 1.836 sinh viên; hệ trung cấp 1.650 sinh viên.
4. Y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân
Ngành Y tế tăng cường chỉ đạo về phòng chống dịch bệnh, thực hiện tốt việc theo dõi, giám sát, phát hiện sớm và xử lý kịp thời các trường hợp mắc bệnh, đặc biệt là sốt xuất huyết, dịch sởi, tiêu chảy cấp, cúm A(H7N9); tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định pháp luật về an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh…Trong 9 tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 04 vụ dịch với 162 ca mắc bệnh, 09 trường hợp tử vong. Số người nhiễm HIV126 trường hợp; tử vong do AIDS 64 trường hợp; ngộ độc thực phẩm 1.196 trường hợp, không có tử vong, trong đó mắc theo vụ 10 vụ, 461 trường hợp.
Thực hiện tốt công tác khám, điều trị, cấp cứu, tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ. Tổng số lượt khám bệnh tại các cơ sở y tế trong 9 tháng đạt 1.087.616 lượt; số bệnh nhân điều trị nội trú 146.940 người; số bệnh nhân điều trị ngoại trú 588.041 người; số bệnh nhân chuyển tuyến 79.999 lượt, trong đó chuyển về Trung ương 5.438 lượt. Tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế về lĩnh vực y tế. Triển khai Chiến dịch truyền thông bảo đảm an toàn thực phẩm dịp Tết Nguyên đán từ ngày 10/01/2015 đến 30/3/2015; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh trước, trong và sau Tết; đặc biệt lưu ý các cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm phục vụ tết như: bánh, mứt, kẹo, bia rượu, nước giải khát, thịt, thực phẩm chế biến sẵn (giò, chả, nem chạo, ...), kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng các chất phụ gia trong chế biến thực phẩm, thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm tại địa phương nhằm giảm tối đa số vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra trong dịp tết. Tăng cường kiểm tra, giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có quy mô lớn, tại các chợ đầu mối, các điểm diễn ra những hoạt động văn hóa (hoạt động mừng xuân Ất Mùi, hội chợ xuân…).
5. Văn hóa, thông tin, thể thao
Hoạt động văn hóa, thông tin 9 tháng năm 2018 tập trung tổ chức các hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện trọng đại của đất nước và của tỉnh. Các hoạt động văn hóa, thể thao được tổ chức dưới nhiều hình thức và nhận được sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân: Chương trình nghệ thuật "Chào năm 2018", "Bản tình ca bên Sông Đà", "Hoa đào vùng cao", "Bản tình ca mùa xuân", "Sắc xuân Sơn La", "Khúc giao mùa", "Quỳnh Nhai ngày mở hội"; gameshow "Về bản em"; các triển lãm ảnh tuyên truyền chủ đề: "Biển đảo và người chiến sỹ Hải quân, Sơn La chung sức xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới biển đảo của Tổ quốc", kỷ niệm 50 năm "cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - bước ngoặt lịch sử", "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - những bằng chứng lịch sử và pháp lý", "Thể thao Sơn La một chặng đường phát triển", "Thành tựu phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng tỉnh Sơn La giai đoạn 2013 - 2018", "70 năm Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Sơn La thực hiện lời kêu gọi thi đua Ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh'; các chuyên mục di sản văn hoá với chủ đề: "Di tích lưu niệm Trung đoàn 52 Tây tiến", "Gốm Mường Chanh", "Sắc màu văn hoá Thái Sơn La"; tổ chức thành công "Ngày hội xoài Yên Châu", "Ngày hội nhãn Sông Mã"...
Trong 9 tháng, tổ chức chiếu phim 2.390 buổi, phục vụ 897.000 lượt người xem; thực hiện tuần phim kỷ niệm 88 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, mừng xuân Mậu Tuất, kỷ niệm 65 năm ngày Bác Hồ ký sắc lệnh thành lập ngành điện ảnh; biên tập 08 tài liệu, in 84 đĩa CD, tổ chức 05 buổi tuyên truyền thu hút 10.000 lượt người xem; phục vụ 374.000 lượt khách tham quan tại Bảo tàng tỉnh và các điểm di tích.
Tổ chức thành công Đại hội TDTT tỉnh Sơn La lần thứ VIII năm 2018 với 560 VĐV thuộc 12 huyện, thành phố, 06 ngành, đơn vị lực lượng vũ trang và các trường chuyên nghiệp tham gia. Tổ chức thành công Giải thể thao người khuyết tật; giải cầu lông thanh thiếu niên; giải Teakondo và giải cầu lông trung cao tuổi toàn tỉnh năm 2018. Tham gia vô địch đẩy gậy lần thứ XII và kéo co toàn quốc tại tỉnh Bình Phước; giải vô địch trẻ và thiếu niên võ cổ truyền toàn quốc tại tỉnh Sóc Trăng; giải thể thao người khuyết tật toàn quốc tại Thành phố Đà Nẵng.
Trong hoạt động thể thao thành tích cao, từ đầu năm đến nay đã giành được 19 huy chương vàng, 23 huy chương bạc và 38 huy chương đồng tại các giải thể thao toàn quốc và khu vực, trong đó nổi bật là môn điền kinh tham gia giải vô địch trẻ tại Thái Lan đạt 01 HCB, 09 lượt VĐV cấp I; 07 lượt VĐV được phong kiện tướng quốc gia.
Phát thanh tiếng phổ thông thực hiện 819 chương trình, sử dụng 5.231 tin, bài, phóng sự và 1.062 chuyên đề, chuyên mục; tiếng dân tộc 1.092 chương trình, sử dụng 4.942 tin, bài, phóng sự, gương người tốt, việc tốt, 970 chuyên đề, chuyên mục.
Truyền hình tiếng phổ thông thực hiện 2.471 chương trình, sử dụng 9.626 tin, bài, phóng sự, gương người tốt, việc tốt và 2.183 chuyên đề, chuyên mục; tiếng dân tộc 624 chương trình, sử dụng 5.494 tin, bài, phóng sự, gương người tốt, việc tốt và 308 chuyên đề, chuyên mục; 78 chương trình cộng tác với VTV.
6. Công tác phòng chống ma tuý
Tính đến ngày 13/9/2018, toàn tỉnh có 8.728 người nghiện ma tuý đang trong diện quản lý, trong đó có 1.790 người đang cai nghiện tập trung tại các cơ sở điều trị nghiện ma túy (1.736 trường hợp cưỡng chế, 18 tự nguyện, 30 hỗ trợ cắt cơn), 04 người đang quản lý sau cai, 1.355 người đang điều trị bằng Methadone.
Trong tháng 9, toàn tỉnh phát hiện, bắt giữ 64 vụ, 87 đối tượng; triệt xoá 05 điểm, 05 đối tượng có liên quan đến ma tuý. Tính chung 9 tháng đã phát hiện, bắt giữ 935 vụ, 1.362 đối tượng; triệt xoá 71 điểm, 82 đối tượng có liên quan đến ma tuý; vận động, bắt 13 đối tượng truy nã về ma tuý. Hiện trên địa bàn tỉnh còn 09 điểm, 55 đối tượng có biểu hiện bán lẻ, chứa chấp, tổ chức sử dụng ma túy ở 30 tổ, bản thuộc 17 xã, thị trấn.
7. An toàn giao thông
Trong tháng (từ 16/8 đến 15/9), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 08 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 05 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 03 vụ va chạm giao thông, làm 04 người chết và 05 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 38,5% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 54,5%; số vụ va chạm giao thông tăng 50,0%), số người chết giảm 60,0%, số người bị thương giảm 50,0%.
Tính chung 9 tháng năm 2018, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 97 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 75 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 22 vụ va chạm giao thông, làm 58 người chết và 74 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước số vụ tai nạn giảm 4,0% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 8,7%; số vụ va chạm giao thông giảm 31,3%), số người chết tăng 5,5%, số người bị thương giảm 22,1%.
8. Thiệt hại do thiên tai
Trong 9 tháng năm 2018, trên địa bàn tỉnh xảy ra rét đậm, rét hại cùng mưa đá, gió lốc, lũ quét, sạt lở đất gây thiệt hại về người và tài sản, ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống của nhân dân, cụ thể: 21 người chết, 01 người mất tích, 18 người bị thương; 6.373 ngôi nhà bị thiệt hại, hư hỏng, tốc mái, phải di dời khẩn cấp; 61 trường/điểm trường bị thiệt hại; 4.682 ha cây hàng năm (trong đó lúa 2.635 ha, ngô và hoa màu 1.930 ha), 1.324 ha cây lâu năm (trong đó cây ăn quả 306 ha), 2.119 con gia súc, 3.624 con gia cầm, 332 ha diện tích nuôi trồng và 75 tấn cá bị thiệt hại; 62 cột điện bị gãy đổ, 1.945m dây điện bị đứt; nhiều tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ, giao thông nông thôn bị sạt lở, hư hỏng với chiều dài 25.069 m, khối lượng đất đá 2.246.925 m3... Thiệt hại ước tính 973 tỷ đồng. Tổng kinh phí các cấp, các ngành, địa phương đã hỗ trợ cho các gia đình có người chết, mất tích, bị thương, di dời nhà ở trong 9 tháng là 7,8 tỷ đồng; bố trí khắc phục hạ tầng và triển khai các dự án sắp xếp dân cư 66,9 tỷ đồng.
9. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Trong tháng 9/2018, cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý 14 vụ vi phạm các quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường với tổng số tiền phạt 112 triệu đồng. Tính chung 9 tháng năm 2018, đã phát hiện 344 vụ vi phạm các quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường, trong đó xử lý 340 vụ với tổng số tiền phạt 1.395 triệu đồng.
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy, nổ làm 01 người bị thương, thiệt hại ước tính 85 triệu đồng. Tính chung 9 tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 26 vụ cháy, nổ làm 01 người chết, 03 người bị thương, thiệt hại ước tính 3.412 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước, số vụ cháy, nổ giảm 10,3%, số người chết giảm 50% và thiệt hại ước tính giảm 20,3%.
Khái quát lại, kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2018 tiếp tục diễn biến tích cực; sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản được duy trì ổn định; môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục được cải thiện; thị trường hàng hoá phát triển, cân đối cung cầu và lưu thông hàng hoá thông suốt; đời sống các tầng lớp dân cư ổn định; công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện; các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao có nhiều tiến bộ. Bên cạnh những mặt tích cực, kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn đối mặt với những khó khăn, thách thức: Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh hưởng, thiệt hại của thiên tai, thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi; công nghiệp khai khoáng tiếp tục giảm sút; xuất khẩu chưa có nhiều cải thiện; tiến độ triển khai thực hiện một số chương trình, dự án, nguồn vốn chậm, giải ngân thanh toán đạt thấp; kết quả huy động các nguồn vốn đầu tư xã hội hóa còn hạn chế, chính sách thu hút đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư; chất lượng thu ngân sách còn hạn chế, tỷ lệ nợ thuế khó thu chiếm tỷ lệ cao trong tổng nợ...
Để thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, trong những tháng cuối năm các cấp, các ngành, các huyện, thành phố cần tiếp tục nỗ lực phấn đấu, thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018; cần đẩy mạnh các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ giữ ổn định vĩ mô; thực hiện nghiêm Luật ngân sách Nhà nước, quản lý chặt chẽ các khoản thu phát sinh trên địa bàn, tăng cường và thực hiện có hiệu quả các biện pháp chống thất thu và nợ đọng thuế; giám sát chặt chẽ các khoản chi từ ngân sách Nhà nước, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, mua sắm, hội họp; tiếp tục tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, trong đó chú trọng các dự án lớn, dự án quan trọng, các chương trình mục tiêu quốc gia, đảm bảo thực hiện và giải ngân hết nguồn vốn đầu tư công được giao năm 2018; tăng cường các giải pháp thu hút và huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, ưu tiên tập trung vốn cho các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, kinh tế tập thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, khuyến khích liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn với mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa nông sản địa phương; khai thác và phát huy hiệu quả các cơ sở sản xuất công nghiệp, đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô, nâng cao công suất, chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp trên địa bàn; đẩy mạnh phát triển thị trường thương mại, dịch vụ, tăng cường các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu; tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội; hỗ trợ kịp thời cho người dân khi gặp rủi ro, thiên tai ổn định đời sống, khôi phục sản xuất; tăng cường công tác bảo vệ môi trường, bảo đảm trật tự an toàn giao thông và phòng chống cháy, nổ./.