Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 12/06/2020-16:32:00 PM
Phấn đấu giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
(MPI) - Tham gia thảo luận tại Hội trường về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 diễn ra chiều ngày 12/6/2020, đa số ý kiến đại biểu Quốc hội nhất trí với sự cần thiết ban hành Chương trình này. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng điều hành phiên thảo luận.
Toàn cảnh phiên họp. Ảnh: quochoi.vn

Trước đó (ngày 28/5/2020) Quốc hội được nghe Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc Quốc hội về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Theo Tờ trình của Chính phủ, nước ta có 53 dân tộc thiểu số với hơn 14 triệu người, gần 3 triệu hộ, cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới. Địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước.

Chương trình Mục tiêu Quốc gia nhằm khắc phục hạn chế, bất cập trong công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc; là giải pháp quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu của Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Đối tượng điều chỉnh của Chương trình là xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động ở địa bàn vùng đặc biệt khó khăn.

Mục tiêu tổng quát của Chương trình là giảm nghèo nhanh, bền vững; thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi so với bình quân chung của cả nước; đảm bảo an sinh xã hội; bảo vệ an ninh tổ quốc; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc.

Mục tiêu cụ thể, đến năm 2025 sẽ đóng góp quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu được xác định trong Nghị quyết số 88/2019/QH14; phấn đấu đạt được các chỉ tiêu chủ yếu như giảm tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hằng năm trên 3%; phát triển bền vững sinh kế, tăng thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số lên hơn 2 lần so với năm 2020; phấn đấu giảm trên 60% số xã, thôn đặc biệt khó khăn so với tiêu chí năm 2020.

Định hướng mục tiêu đến năm 2030 là nỗ lực cao nhất, phấn đấu đạt được các mục tiêu đã xác định trong Nghị quyết số 88/2019/QH14, tăng thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số lên tối thiểu bằng 1/2 bình quân chung của cả nước; giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%; cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn.

Quyết định đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia là rất cần thiết, bởi đây là vùng trọng yếu về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; có nhiều tài nguyên khoáng sản, có hệ sinh thái động, thực vật đa dạng; có trên 14 triệu ha rừng, là đầu nguồn sinh thủy, gắn với các công trình thủy điện quốc gia vừa cung cấp điện, vừa cung cấp nước sản xuất, sinh hoạt cho vùng hạ du và khu vực đồng bằng.

Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư, đạt được thành tựu to lớn, cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của đồng bào sinh sống ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã được cải thiện rõ rệt nhưng hiện nay, vẫn là vùng khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, kinh tế - xã hội phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chủ yếu là núi cao, biên giới, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội kém nhất cả nước, xuất phát điểm rất thấp; biến đổi khí hậu, sự cố môi trường diễn ra nghiêm trọng và khó lường… Chi phí sản xuất, lưu thông hàng hóa lớn nên rất khó khăn để thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tuy đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng còn nhiều đầu mối xây dựng, quản lý, theo dõi; nguồn lực phân tán, dàn trải; chưa phân định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành nên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp; chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế của vùng, phát huy nội lực của đồng bào để đẩy mạnh phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Cùng với đó, Chương trình nhằm khắc phục hạn chế, bất cập trong công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc; là giải pháp quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu của Nghị quyết số 88/2019/QH14. Đồng thời, hướng đến mục tiêu giảm nghèo nhanh, bền vững; thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi so với bình quân chung của cả nước; đảm bảo an sinh xã hội; bảo vệ an ninh tổ quốc; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc.

Giải pháp thực hiện Chương trình là phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển để tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho các địa bàn đặc biệt khó khăn, nhóm dân tộc có khó khăn đặc thù. Áp dụng một số cơ chế đặc thù để thực hiện các dự án của Chương trình. Đa dạng hóa nguồn vốn trong đó vốn nhà nước là quan trọng và có ý nghĩa quyết định, tạo điều kiện thuận lợi để huy động vốn ODA và đẩy mạnh thu hút các nguồn lực ngoài ngân sách, khuyến khích sự tham gia, đóng góp của người dân để thực hiện các mục tiêu của Chương trình theo nguyên tắc “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”. Công khai, dân chủ, phát huy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số; quán triệt phương châm: “Dân cần, dân bàn, dân làm, dân hưởng lợi”, “Xã, thôn có công trình, dân có việc làm, tăng thu nhập”. Đẩy mạnh phân cấp, trao quyền và nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương; lồng ghép, thực hiện bình đẳng giới trong triển khai thực hiện Chương trình. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát ở các cấp; huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để theo dõi, giám sát, đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chương trình...

Tại phiên thảo luận, đa số ý kiến của các đại biểu cơ bản nhất trí với sự cần thiết ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Bên cạnh đó, các đại biểu cũng tập trung cho ý kiến về phạm vi, đối tượng thụ hưởng, địa bàn của Chương trình mục tiêu quốc gia; quan điểm, mục tiêu đầu tư; nguyên tắc, cơ chế thực hiện; chính sách huy động, tập trung nguồn lực đầu tư; các dự án thành phần của Chương trình; thứ tự ưu tiên thực hiện các dự án thành phần; lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào các dự án thành phần; kinh phí đầu tư, cơ cấu các nguồn vốn; tính khả thi trong việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu của Chương trình…

Phát biểu kết thúc phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng nêu rõ, với tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết và thẳng thắn chia sẻ những khó khăn với đồng bào, nhiều ý kiến phát biểu của các đại biểu Quốc hội đã tập trung vào những vấn đề cấp bách nhằm thực hiện hiệu quả Nghị quyết của Quốc hội; đồng thời, khẳng định chính sách dân tộc luôn được Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cấp, các ngành và đồng bảo cả nước quan tâm. Vì vậy, việc ban hành Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 là cần thiết.

Bên cạnh đó, ý kiến phát biểu tập trung vào các nội dung đầu tư trọng tâm, trọng điểm để giảm nghèo nhanh, bền vững nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, mức sống giữa miền xuôi, miền núi và giữa vùng thuận lợi, vùng khó khăn; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số; giữ gìn bản sắc văn hóa, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu; chăm sóc sức khỏe đồng bào dân tộc thiểu số; phát huy truyền thống đoàn kết bảo vệ vững chắc an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ biên giới; phát huy khối đại đoàn kết các dân tộc; giữ vững niềm tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước; quản lý hiệu quả kinh phí sử dụng từ nguồn ngân sách Nhà nước, các nguồn vốn hợp pháp khác do Chính phủ huy động; chú trọng đến nhóm dân tộc đặc biệt khó khăn, đặc thù còn rất ít người; sớm hoàn thành bộ tiêu chí phân định các vùng phát triển của vùng dân tộc và miền núi để thực hiện tốt các dự án thành phần đã được Chính phủ trình Quốc hội; tăng cường trách nhiệm giám sát của Quốc hội và trách nhiệm của Chính phủ, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện dự án…/.

Chương trình gồm 10 dự án thành phần gồm:

Dự án 1: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt của hộ dân tộc thiểu số.

Dự án 2: Quy hoạch sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết.

Dự án 3: Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị.

Dự án 4: Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và các đơn vị sự nghiệp công lập của lĩnh vực dân tộc.

Dự án 5: Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Dự án 6: Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.

Dự án 7: Chăm sóc sức khỏe Nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.

Dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em.

Dự án 9: Đầu tư phát triển nhóm dân tộc rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn.

Dự án 10: Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kiểm tra, giám sát đánh giá việc tổ chức thực hiện Chương trình.

Tùng Linh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư

  • Tổng số lượt xem: 1490
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)