I. Nông - Lâm - Thuỷ sản
Trong tháng, thời tiết nông vụ thuận lợi cho sản xuất vụ hè thu; cây lâu năm phát triển ổn định. Chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục ổn định; chăn nuôi lợn được phục hồi, tổng đàn tăng so với thời điểm chưa có bệnh Dịch tả lợn Châu phi năm trước, nhiều trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi lợn tiếp tục tăng quy mô; chăn nuôi gia cầm phát triển khá,môi trường nuôi của các cơ sở được tăng cường công tác vệ sinh phòng dịch bệnh, giá bán các loại gia cầm nhìn chung ổn định. Dịch bệnh Covid-19 tiếp tục ảnh hưởng đến việc xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản. Thời tiết thuận lợi cho việc triển khai trồng rừng. Trong nuôi trồng thuỷ sản, do thời tiết nóng, ẩm, mưa nhiều một số khu vực nuôi tôm xảy ra bệnh; sản lượng khai thác thuỷ sản tiếp tục tăng. Tình hình dịch bệnh nghiêm trọng trên các loại cây trồng, vật nuôi không xảy ra.
1. Trồng trọt:
* Cây hàng năm: Tính đến ngày 15/8/2020, tiến độ sản xuất vụ hè thu ước đạt 64.235,1 ha, tăng 6,6% (tăng 3.971,2 ha) so với cùng kỳ năm trước; diện tích tăng do mùa vụ đã ổn định, thời tiết thuận lợi, hệ thống tưới tiêu hiện được đảm bảo, cụ thể:
Cây lương thực: Diện tích gieo trồng ước đạt 50.067,1 ha tăng 8,8% (tăng 4.044,5 ha) so với cùng kỳ năm trước; trong đó, lúa đạt 43.344 ha tăng 10,7% (tăng 4.189,5 ha) so với cùng kỳ năm trước (thực hiện mô hình cánh đồng lớn áp dụng thâm canh và cơ giới hoá đồng bộ với diện tích 500 ha tại các xã Đức phú, Nghị Đức, Bắc Ruộng, Lạc Tánh, Gia An ở huyện Tánh Linh); bắp đạt 6.723,1 ha giảm 2,1% (giảm 145 ha) so với cùng kỳ năm trước, do có mưa nhiều và trên diện rộng ảnh hưởng đến năng suất cây bắp, nên người dân hạn chế gieo trồng vào thời điểm này.
Cây có hạt chứa dầu: Diện tích gieo trồng ước đạt 5.958,8 ha; trong đó, diện tích cây đậu phộng đạt 1.844,8 ha, tăng 5,1% (tăng 88,7 ha) so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu gieo trồng ở huyện Hàm Thuận Nam, Bắc Bình, Tánh Linh, Hàm Tân, do chuyển đổi đất cây trồng phù hợp thời tiết khô hạn từ đầu vụ nên người dân tích cực gieo trồng; cây mè đạt 4.114 ha, tăng 0,2% (tăng 9 ha) so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu tăng ở Hàm Thuận Bắc và Bắc Bình.
Cây thực phẩm: Diện tích gieo trồng ước đạt 7.220,3 ha; trong đó, rau các loại đạt 3.124 ha, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước, do nắng hạn từ đầu vụ người dân cắt giảm gieo trồng; đậu các loại đạt 4.096,3 ha, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu tăng ở Bắc Bình 1.211 ha, diện tích tăng vì đậu các loại phù hợp với thời tiết nắng hạn ở đầu vụ, người dân tích cực gieo trồng.
Cây hàng năm khác toàn tỉnh gieo trồng đạt 509,5 ha, giảm 14,6% so với cùng kỳ năm trước, do khung thời vụ hè thu 2020 bị trễ, hiện tại người dân vẫn còn tiếp tục gieo trồng.
* Cây lâu năm: Trong tháng, các địa phương tập trung trồng mới các loại cây lâu năm, tuy nhiên, do ảnh hưởng giá đầu ra nhiều loại cây như thanh long, cao su, tiêu,… ở mức thấp nên việc phát triển thêm diện tích mới có phần bị ảnh hưởng. Diện tích, sản lượng một số cây chủ lực của tỉnh như sau:
- Thanh long: Đang ở thời điểm thu hoạch chính vụ, do ảnh hưởng của thời tiết (áp thấp nhiệt đới), cây thanh long xuất hiện nhiều sâu bệnh, bên cạnh đó giá bán giảm mạnh, việc đầu tư chăm sóc của người dân hạn chế hơn nên sản lượng và chất lượng trái thanh long thấp. Đến thời điểm 15/8/2020, toàn tỉnh có 10.048,7 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap.
- Cao su: Hiện trong mùa thu hoạch, trong những năm gần đây giá cao su ở mức thấp, thị trường xuất khẩu chưa có chuyển biến tích cực, nên diện tích phát triển mới hiện tại cũng như trong thời gian tới dự tính không nhiều.
- Cây điều: Đang tập trung chăm sóc, bón phân và tiến hành trồng mới. Do phần lớn diện tích điều trên địa bàn tỉnh đã già cỗi, ở một số địa phương như thành phố Phan Thiết, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình, Tuy Phong trồng trên những vùng đất cát, đất bạc màu, việc chăm sóc chưa được quan tâm đúng mức, diện tích trồng còn phân tán, rải rác, nên năng suất thu hoạch thấp so với cả nước. Để cây điều phát triển trong thời gian đến, tỉnh cần tập trung đẩy mạnh xây dựng các mô hình thâm canh, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đến người trồng như tỉa cành, tạo tán, bón phân, phòng trừ sâu bệnh, giúp cho cây sinh trưởng, phát triển tốt. Bên cạnh đó, thay thế giống điều truyền thống bằng các giống điều cao sản, quy hoạch phát triển vùng sản xuất tập trung tạo nguồn nguyên liệu xuất khẩu cho ngành điều.
- Cây tiêu: Do giá đầu ra thấp, sâu bệnh nên diện tích phát triển mới từ đầu năm đến nay chưa nhiều, diện tích tập trung chủ yếu ở Đức Linh, Tánh Linh và Hàm Tân; hiện nay đang tập trung chăm sóc diện tích hiện có.
- Cà phê: Chuẩn bị vào mùa thu hoạch, tập trung chủ yếu ở Hàm Thuận Bắc, Tánh Linh và Đức Linh. Toàn tỉnh đến nay có 2.315,5 ha, đây là một trong những cây phát triển mới trong những năm gần đây.
Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể,...
* Tình hình dịch bệnh:
- Cây lúa: Bọ trĩ gây hại 353 ha, tăng 260 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc, Tuy Phong và thị xã La Gi). Ốc bươu vàng gây hại 221 ha, giảm 81 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố huyện Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc, Tuy Phong). Sâu đục thân 441 ha, giảm 88 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố huyện Tánh Linh và Thị xã La Gi). Bệnh đạo ôn lá 2.075 ha, tăng 744 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình, Tuy Phong và Thị xã La Gi). Chuột gây hại 400 ha, tăng 400 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Đức Linh). Rầy nâu 700 ha, tăng 521 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Đức Linh). Sâu cuốn lá 346 ha, giảm 177 ha so với cùng kỳ năm kỳ trước (phân bố tại huyện Tánh Linh, Bắc Bình, Tuy Phong và Thị xã La Gi). Sâu keo mùa thu 128 ha, tăng 128 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Bắc Bình và Hàm Thuận Bắc).
- Cây bắp: Sâu keo mùa thu 1.398 ha, giảm 777 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình, Đức Linh, Hàm Tân và Thị xã La Gi).
- Cây mì: Bệnh khảm lá virus gây hại 2.065 ha, tăng 1.695 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Tân, Hàm Thuận Nam, Đức Linh, Tánh Linh và thị xã La Gi).
- Cây thanh long: Bệnh đốm nâu 4.390 ha, tăng 841 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình, La Gi). Bệnh nám vàng cành 1.969 ha, tăng 1.077 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình và thị xã La Gi). Bệnh thối rễ tóp cành 1.337 ha, tăng 1.000 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình và Thị xã La Gi). Bệnh thán thư cành, quả 860 ha, giảm 334 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại các huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình và thị xã La Gi).
- Cây điều: Bệnh khảm lá virus là 2.065 ha, tăng 1.695 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Tân, Hàm Thuận Nam, Đức Linh, Tánh Linh và Thị xã La Gi).
* Tình hình tưới tiêu vụ hè thu 2020: Tính đến ngày 15/8/2020, trên địa bàn tỉnh đã có mưa, lượng nước trên hệ thống kênh nối mạng, nước tại một số hồ tăng với lượng nước hữu ích hiện đạt 113,9 triệu m3, đạt 43,9% thiết kế, tổng lượng nước đến hồ là 155,6 triệu m3. Hồ thủy điện Đại Ninh đạt 866,6 triệu m3. Hồ thủy điện Hàm Thuận đạt 585,1 triệu m³. Ngoài việc tiếp tục ưu tiên cấp nước cho sinh hoạt, hiện nay các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh đã đáp ứng được 100,7% kế hoạch tưới cây thanh long (19.938 ha/19.791 ha), lượng nước còn lại được điều tiết phục vụ cho sản xuất cây hàng năm đạt 96,7% so với kế hoạch sản xuất (31.025 ha/32.095 ha).
2. Chăn nuôi:
Chăn nuôi trong tháng nhìn chung ổn định và có xu hướng phát triển. Đàn trâu có khuynh hướng giảm nhẹ; đàn bò phát triển ổn định so với cùng kỳ; chăn nuôi lợn đã bước vào trạng thái phục hồi như trước khi chưa có bệnh Dịch tả lợn Châu phi, xu hướng phục hồi vẫn tiếp diễn từ đây đến cuối năm, giá đầu vào đáp ứng được yêu cầu người chăn nuôi có lãi, nhiều trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi lợn tiếp tục tăng quy mô tổng đàn; chăn nuôi gia cầm phát triển khá,môi trường nuôi của các cơ sở được tăng cường công tác vệ sinh phòng dịch, giá bán các loại gia cầm nhìn chung ổn định.
Ước thời điểm 15/8/2020, đàn trâu 8.820 con, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò 170.200 con, tăng 1,2% so cùng kỳ năm trước; đàn lợn 280.100 con, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước; đàn gia cầm 3.760 ngàn con, tăng 11,9% (trong đó, đàn gà 2.510 ngàn con, tăng 17,8%).
* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật (tính đến ngày 15/8/2020):
Trong tháng không xuất hiện các ổ dịch nguy hiểm cúm gia cầm, lở mồm long móng ở gia súc, bệnh tai xanh trên heo; một số bệnh truyền nhiễm có xảy ra trên gia súc, gia cầm nhưng chỉ dừng lại ở mức độ lẻ tẻ không lây lan thành dịch.
- Công tác tiêm phòng: Đã tổ chức tiêm phòng 3.267.756 liều vắc xin; trong đó, đàn trâu bò 120 liều, đàn lợn 139.101 liều, đàn gia cầm 3.127.600 liều; luỹ kế 8 tháng đã tiêm phòng 18.841.192 liều vắc xin; trong đó, đàn trâu bò 80.608 liều, đàn lợn 388.717 liều, đàn gia cầm 18.366.395 liều.
- Kiểm dịch động vật: Kết quả đã kiểm dịch, đàn lợn 56.511 con, trâu bò 619 con, gia cầm 83.371, thịt dê 4.920 kg, trứng gia cầm 3.570.000 quả; lũy kế 8 tháng đã kiểm dịch 755.773 con lợn, 6.042 con trâu bò, 2.101.685 con gia cầm, 208 con dê, 29.971 kg thịt dê, 20.510.380 quả trứng gia cầm.
- Kiểm soát giết mổ: Đã kiểm soát giết mổ 611 con trâu bò, 1.755 con lợn, 8.770 con gia cầm, 236 con dê; luỹ kế 8 tháng đã kiểm soát 879 con trâu bò, 18.737 con lợn, 47.472 con gia cầm, 1.369 con dê.
3. Lâm nghiệp:
- Công tác trồng rừng: Trong tháng, diện tích rừng trồng mới 351 ha, luỹ kế 8 tháng 441 ha, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng trồng được chăm sóc đạt 4.151 ha (trong đó, rừng trồng phòng hộ 25 ha và rừng trồng sản xuất 4.126 ha).
- Công tác phòng chống cháy rừng: Trong tháng không xảy ra cháy rừng, cháy thực bì dưới tán lá rừng trên địa bàn tỉnh; lũy kế 8 tháng đã xảy ra 41 trường hợp, với diện tích 67 ha cháy thực bì dưới tán lá rừng, không gây thiệt hại về rừng.
- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Trong tháng đã phát hiện 29 vụ vi phạm lâm luật, lũy kế 8 tháng 180 vụ, phá rừng trái phép 6 vụ, khai thác gỗ và lâm sản khác 47 vụ, mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 63 vụ và vi phạm khác 64 vụ.
Tổng số vụ vi phạm đã xử lý trong tháng 28 vụ, số lâm sản tịch thu 28,4 m3 gỗ. Luỹ kế 8 tháng, số vụ xử lý 184 vụ; tịch thu 67 xe máy, 2 xe trâu bò kéo, 34 phương tiện khác và 171 m3 gỗ các loại. Số tiền phạt, bán tang vật nộp vào ngân sách là 1,1 tỷ đồng.
4. Thuỷ sản:
- Diện tích nuôi trồng thủy sản: Ước trong tháng đạt 262,6 ha, giảm 1,6% so tháng cùng kỳ năm trước; luỹ kế 8 tháng ước đạt 1.852,1 ha, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, diện tích nuôi cá ước đạt 1.246 ha, giảm 3,3%; diện tích nuôi tôm 586,4 ha, giảm 3,1%).
- Sản lượng nuôi trồng: Ước trong tháng đạt 1.133 tấn, giảm 1,4% so cùng kỳ năm trước. Lũy kế 8 tháng ước đạt 9.091 tấn, giảm 2,4% so cùng kỳ (trong đó, cá các loại 3.640 tấn, giảm 2,5%; tôm nuôi nước lợ 5.411 tấn, giảm 2,8%); nguyên nhân giảm do ảnh hưởng thời tiết, nắng nóng và mưa nhiều nên nhiều khu vực tôm bị bệnh đường ruột, gan,... Đồng thời, giá tôm thương phẩm giảm thấp nên nhiều hộ dân chỉ thả nuôi cầm chừng, với mật độ thưa.
- Sản lượng khai thác: Thời tiết ngư trường trong tháng ảnh hưởng nhẹ bởi bão số 2, sau bão thời tiết ổn định, nguồn lợi hải sản xuất hiện đều. Trong đó, các nghề rê nổi, vây, câu, lặn, kéo, lồng bẫy hoạt động đạt hiệu quả; các nghề như pha xúc, mành, lưới chụp,... hoạt động ít hiệu quả hơn. Sản lượng thuỷ sản khai thác trong tháng ước đạt 24.607,3 tấn, tăng 1,3% so với tháng cùng kỳ năm trước; lũy kế 8 tháng, ước đạt 143.203,5 tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, khai thác biển ước đạt 142.801 tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ).
Số tàu cá từ 15 m trở lên bắc buộc phải gắn hệ thống giám sát hành trình theo luật thủy sản năm 2017, đến nay có 1.925 chiếc. Từ ngày 11/7-10/8/2020, đã thẩm định cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm cho 22 tàu cá. Đã tổ chức ký cam kết sản xuất thực phẩm an toàn cho 75 tàu cá có chiều dài từ 12 đến dưới 15 mét.
- Sản xuất giống thuỷ sản: Ước trong tháng sản xuất 1,9 tỷ post, tăng 4,3% so với tháng cùng kỳ năm trước; lũy kế 8 tháng ước đạt 15,5 tỷ post, giảm 8,0% so với cùng kỳ năm trước; sau nhiều tháng liên tục giảm, tình hình sản xuất tôm giống trong tháng có dấu hiệu tăng trở lại. Công tác kiểm tra chất lượng tôm giống xuất tỉnh và nhập tỉnh, cũng như các đối tượng giống tôm thủy sản bố mẹ được tăng cường. Đã kiểm tra và cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất giống thủy sản cho 08 cơ sở, lũy kế 8 tháng cấp giấy chứng nhận cho 23 cơ sở.
- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Trong tháng có 60 vụ vi phạm xảy ra (trong đó, không đăng ký lại tàu cá 03 vụ; không chứng chỉ thuyền trưởng, máy trưởng 08 vụ; tàng trữ kích điện trên tàu cá 02; không cập cảng cá chỉ định bốc dở sản phẩm 21; không thông báo trước 01 giờ trước khi cập cảng 05; thuyền viên không có tên trong sổ danh bạ 13; giã cào bay sai vùng khai thác 02, sai nghề trong giấy 3 phép khai thác 01, tước quyền sử dụng 02 giấy phép khai thác, 02 chứng chỉ thuyền trưởng,...); lũy kế 8 tháng đã xảy ra 203 vụ vi phạm (trong đó, 34 vụ không đăng ký tàu cá, 25 vụ không chứng chỉ thuyền trưởng, 42 vụ thuyền viên trên tàu cá không có tên trong sổ danh bạ thuyền viên tàu cá, 25 vụ tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15 m trở lên không cập cảng cá có tên trong danh sách cảng cá chỉ định để bốc dỡ thủy sản,...). Trong 8 tháng năm 2020, các tàu cá của tỉnh không vi phạm vùng biển nước ngoài.
II. Công nghiệp; đầu tư phát triển; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư
1. Công nghiệp:
Hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện và ngành cung cấp nước và xử lýrácthải,nướcthải vẫn duy trì mức tăng trưởng cao. Chỉ số sản xuấttoàn ngành công nghiệp tháng8ước tăng12,13% so với cùng kỳ năm trước; trong đó,ngành khai khoánggiảm 25,11%;công nghiệp chế biến, chế tạo tăng8,79%;sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 13,85%;cung cấp nước và xử lý rác thải,nướcthải tăng1,05%.
Luỹ kế 8 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 15,46% so với cùng kỳ; trong đó, ngành sản xuất và phân phối điện tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ, tăng 19,91%; ngành khai khoáng tăng 10,65%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,11%; ngành cung cấp nước hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,88%.
Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) 8 tháng đầu năm ước đạt 23.987,6 tỷ đồng, đạt 65,87% kế hoạch, tăng 10,26% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, công nghiệp khai khoáng 486,7 tỷ đồng, tăng 12,40%; công nghiệp chế biến chế tạo 11.157,52 tỷ đồng, tăng 1,84%; sản xuất và phân phối điện 12.153,63 tỷ đồng, tăng 19,35%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải 189,74 tỷ đồng, tăng 3,19%.
Các sản phẩm sản xuất trong 8 tháng tăng so với cùng kỳ gồm: Cát sỏi các loại tăng 6,29%, đá khai thác tăng 8,47%, muối hạt tăng 74,76%, thủy sản đông lạnh tăng 10,40%, hạt điều nhân tăng 28,98%, nước khoáng tăng 6,52%, gạch các loại tăng 12,21%, nước máy sản xuất tăng 2,17%, điện sản xuất tăng 18,71%, đồ gỗ và các sản phẩm gỗ tăng 11,79%, thức ăn gia súc tăng 16,43%. Sản phẩm giảm gồm: Thủy sản khô giảm 14,55%, nước mắm giảm 0,10%, quần áo may sẵn giảm 5,13%, sơ chế mủ cao su giảm 25,48%, giày dép các loại giảm 31,08%.
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp cơ bản được duy trì ổn định, phần lớn các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19. Các doanh nghiệp đã có kế hoạch cắt giảm lao động và đang lập hồ sơ danh sách người lao động cần được hỗ trợ theo Nghị quyết số 42/NQ-CP; do đó, một số chỉ tiêu về hoạt động sản xuất kinh doanh có giảm so với cùng kỳ, cụ thể, doanh thu ước đạt 190 tỷ đồng, lũy kế 8 tháng ước đạt 1.270 tỷ đồng, giảm 5,2% so với cùng kỳ năm trước, đạt 23,96% kế hoạch năm; kim ngạch xuất khẩu ước đạt 5 triệu USD, lũy kế 8 tháng ước đạt 31,5 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước, đạt 27,39% kế hoạch năm; nộp ngân sách ước đạt 5 tỷ đồng, lũy kế ước đạt 29,5 tỷ đồng, tăng 3% so với cùng kỳ, đạt 31,38% kế hoạch năm.
2. Đầu tư phát triển:
Trong tháng, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 538,4 tỷ đồng, tăng 86,05% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 8 tháng đạt 2.480,2 tỷ đồng, tăng 46,85% so với cùng kỳ năm trước, đạt 61,81% so với kế hoạch năm 2020. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 1.996,8 tỷ đồng, tăng 53,05%, đạt 61,77% kế hoạch năm; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 432,4 tỷ đồng, tăng 28,27%, đạt 62,21% kế hoạch năm; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã 50,8 tỷ đồng, tăng 8,18%, đạt 59,98% kế hoạch năm.
Tiếp tục thực hiện hiện các dự án trọng điểm của tỉnh (theo Nghị quyết số 93/NQ-HĐND, ngày 02/12/2019 của HĐND tỉnh về kế hoạch đầu tư công và danh mục các dự án trọng điểm của tỉnh năm 2020); trong đó, đã quy định danh mục các công trình trọng điểm năm 2020 gồm có 6 công trình. Luỹ kế 8 tháng, các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án trọng điểm của tỉnh đã được quan tâm triển khai thực hiện; được ưu tiên bố trí vốn; định kỳ hàng tháng, rà soát đánh giá tiến độ thực hiện của từng dự án, giải quyết kịp thời các vướng mắc khó khăn,…
3. Đăng ký kinh doanh:
Trong tháng (từ ngày 15/7 đến ngày 20/8/2020), có 141 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 46,23% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký mới 1.449,6 tỷ đồng, tăng 89,38% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp đã giải thể 12 doanh nghiệp, tăng 33,33% so với cùng kỳ năm trước; tạm ngừng hoạt động 13 doanh nghiệp, bằng so với cùng kỳ năm trước; đăng ký chuyển đổi loại hình 9 doanh nghiệp, giảm 55% so với cùng kỳ năm trươc; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 7 doanh nghiệp, tăng 33,33% so với cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 8 tháng (đến ngày 20/8/2020), có 906 doanh nghiệp thành lập mới (có 280 đơn vị trực thuộc), tăng 6,46% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký 6.860,2 tỷ đồng, giảm 3,25% so với cùng kỳ năm trước; tạm ngừng hoạt động 219 doanh nghiệp (có 45 đơn vị trực thuộc), tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm trước; đăng ký thay đổi loại hình 787 doanh nghiệp (có 161 đơn vị trực thuộc), tăng 6,06% so cùng kỳ. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 92 doanh nghiệp (có 24 đơn vị trực thuộc), tăng 3,37% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp đã giải thể 156 doanh nghiệp (có 85 đơn vị trực thuộc), giảm 9,3% so với cùng kỳ năm trước, điều này cho thấy môi trường kinh doanh được cải thiện và những tín hiệu tích cực của các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và kế hoạch phục hồi nền kinh tế nước ta sau dịch bệnh Covid-19.
4. Đăng ký đầu tư:
Luỹ kế 8 tháng (tính đến ngày 14/8/2020), có 28 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư, giảm 28 dự án so với cùng kỳ; với tổng diện tích đất 425,09 ha, bằng 97% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký 6.471,39 tỷ đồng, tăng 86% so với cùng kỳ năm trước. Đến nay (đến ngày 14/8/2020), trên địa bàn tỉnh có 1.575 dự án được cấp, với tổng diện tích đất 50.025 ha và tổng vốn đăng ký 320.435 tỷ đồng.
Trong tháng có 01 dự án khởi công, không có dự án đi vào hoạt động và thu hồi 01 dự án. Lũy kế 8 tháng (tính đến ngày 14/8/2020), có 08 dự án khởi công, không có dự án đi vào hoạt động và 06 dự án bị thu hồi.
Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng, tạo thuận lợi cho Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh và các Hội, Hiệp hội, các doanh nghiệp về cơ hội giao thương với doanh nghiệp nước ngoài. Triển khai thực hiện các chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch Covid-19 trên địa bàn.
IV. Thương mại, giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải
1. Thương mại, giá cả:
Dịch bệnh Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trong nước và trên thế giới, do đó, các doanh nghiệp trên địa bàn đã chung tay phối hợp cùng với chính quyền địa phương để thực hiện mục tiêu vừa chống dịch hiệu quả, vừa phát triển kinh tế. Các chương trình kích cầu tiêu dùng nội địa, trên phạm vi cả nước đã giúp các doanh nghiệp khôi phục, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần phục hồi phát triển kinh tế. Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã hưởng ứng tích cực cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; các chương trình khuyến mãi tập trung quốc gia và được kéo dài nhiều kỳ trong tháng nhằm kích cầu tiêu dùng, tăng nhu cầu mua sắm của người dân. Ngoài ra, các cửa hàng tiện ích được phát triển nhanh trên địa bàn tỉnh như cửa hàng Bách hoá xanh, cửa hàng Vinmart, tạo thuận tiện cho người dân đi lại, mua sắm, kết hợp mua hàng online giao hàng tận nhà đang là xu hướng trong mùa dịch bệnh Covid-19.
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 8 ước đạt 5.028,9 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,71% và tăng 1,81% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 3.567,5 tỷ đồng, tăng 3,3% so tháng trước và tăng 9,44% so với tháng cùng kỳ năm trước; dịch vụ ước đạt 548,2 tỷ đồng, giảm 1,85% so tháng trước và tăng 0,04% so tháng cùng kỳ năm trước; lưu trú, ăn uống ước đạt 921 tỷ đồng, giảm 2,02% so tháng trước và giảm 18,7% so tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 8 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ước đạt 36.966 tỷ đồng, giảm 1,62% so với cùng kỳ năm trước.
Công tác quản lý thị trường được tăng cường; công tác kiểm tra, kiểm soát, quản lý địa bàn, nắm tình hình giá cả, biến động của thị trường qua đó phát hiện nhanh, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của các đối tượng kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trong tháng 7 năm 2020, đã kiểm tra 148 vụ, phát hiện và xử lý 58 vụ vi phạm; luỹ kế 7 tháng, kiểm tra 1.196 vụ, phát hiện và xử lý 216 vụ vi phạm, xử phạt và thu nộp vào ngân sách Nhà nước 1.890 triệu đồng.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 so với tháng trước giảm 0,03%; so với tháng cùng kỳ năm trước tăng 3,8%; so với tháng 12/2019 giảm 0,45%. Bình quân 8 tháng năm 2020 tăng 4,45% so bình quân 8 tháng năm 2019.
So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 4 nhóm hàng tăng giá: Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,11%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,06%; May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,03%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%. Có 4 nhóm hàng giảm giá: Đồ uống và thuốc lá giảm 0,22%; Nhà ở, điện nước và vật liệu xây dựng giảm 0,16%; Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,11%; Giao thông giảm 0,02%. Có 03 nhóm hàng hoá và dịch vụ vẫn giữ mức ổn định không tăng, không giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống, Bưu chính viễn thông Giáo dục.
2. Du lịch:
Với việc bùng phát trở lại của dịch bệnh Covid-19 từ cuối tháng 7/2020 tại các tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,... đã ảnh hưởng tiêu cực đến ngành du lịch của tỉnh. Việc tiếp tục thực hiện nghiêm chủ trương về tạm dừng các hoạt động như lễ hội, hoạt động thể dục thể thao, sự kiện, hoạt động của các cơ sở kinh doanh và các dịch vụ không thiết yếu,... trên toàn quốc, nên lượng du khách nội địa và quốc tế đến tỉnh bị sụt giảm rất lớn, đặc biệt là khách quốc tế.
Dự ước trong tháng 8, các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh đón và phục vụ 116,7 ngàn lượt khách, giảm 4,26% so với tháng trước và giảm 78,75% so với tháng cùng kỳ năm trước; số ngày khách phục vụ đạt 231,5 ngàn ngày khách, giảm 2,66% so với tháng trước và giảm 75,39% so với tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 8 tháng, ước đạt 1.787,2 ngàn lượt khách, giảm 55,52% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách ước đạt 3.1047,8 ngàn ngày khách, giảm 53,33% so với cùng kỳ năm trước.
Lượng khách quốc tế đến tỉnh trong tháng 8 tiếp tục đạt thấp, chỉ đạt 3,54 ngàn lượt khách, giảm 7,49% so với tháng trước và giảm 94,29% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 8 tháng, khách quốc tế đến tỉnh đạt 162,76 ngàn lượt khách, giảm 67,34% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ đạt 557,7 ngàn ngày khách, giảm 63,04%so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng 8 ước đạt 484 tỷ đồng, giảm 4,57% so với tháng trước và giảm 61,63% so với cùng kỳ năm trước; luỹ kế 8 tháng, ước đạt 5.631,3 tỷ đồng, giảm 43,39% so với cùng kỳ năm trước.
3. Xuất, nhập khẩu:
Tình hình xuất khẩu trong tháng 7/2020, nhiều khả quan, tuy nhiên với đợt bùng phát dịch bệnh Covid-19 lần thứ 2 đã làm tình hình xuất khẩu tháng 8/2020 của tỉnh quay trở lại mức tăng trưởng âm so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 7 ước đạt 35,8 triệu USD, tăng 13,35% so với tháng trước và giảm 17,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm hàng thủy sản ước đạt 14,4 triệu USD, giảm 4,4% so với tháng trước và tăng 6,36% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nông sản ước đạt 1,1 triệu USD, giảm 1,12% so với tháng trước và tăng 15,65% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hoá khác ước đạt 20,4 triệu USD, giảm 19,19% so với tháng trước và giảm 29,27% so với cùng kỳ năm trước.
Luỹ kế 8 tháng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 292,3 triệu USD, giảm 1,97% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm hàng thủy sản ước đạt 99,8 triệu USD, tăng 12,39% so với cùng kỳ; nhóm hàng nông sản ước đạt 8,1 triệu USD, tăng 17,06% so với cùng kỳ (mặt hàng rau quả 8 tháng đầu năm lượng xuất khẩu tăng khá cao thị trường xuất khẩu sang Canada, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan); nhóm hàng hoá khác ước đạt 184,4 triệu USD, giảm 8,92% so với cùng kỳ (nhóm hàng này bị ảnh hưởng chủ yếu bởi mặt hàng dệt may, giày dép, đế giày).
+ Xuất khẩu trực tiếp 8 tháng đạt 279,53 triệu USD (giảm 2,29% so với cùng kỳ năm trước). Thị trường xuất khẩu chủ yếu thị trường Châu Á ước đạt 185,63 triệu USD, giảm 3,37% so với cùng kỳ năm trước; thị trường Châu Âu đạt 43,56 triệu USD, tăng 20,25% so với cùng kỳ năm trước; thị trường Châu Mỹ đạt 47,53 triệu USD, giảm 11,37% so với cùng kỳ năm trước.
+ Ủy thác xuất khẩu 8 tháng ước đạt 12,79 triệu USD, tăng 5,54% so với cùng kỳ năm trước (tăng chủ yếu tăng ở mặt hàng mực tươi và hàng dệt may khác).
- Nhập khẩu 8 tháng ước đạt 521,13 triệu USD, giảm 26,80% so với cùng kỳ (giảm ở các mặt hàng như máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, nguyên liệu dệt may, da giày).
4. Giao thông vận tải:
Trong tháng, hoạt động giao thông vận tải tiếp tục ổn định, tuy nhiên vẫn còn giảm sâu so với cùng kỳ.
- Vận tải hành khách:
+ Ước tháng 8 đã vận chuyển 956,1 nghìn hành khách và luân chuyển 47,3 triệu hk.km. Lũy kế 8 tháng, vận chuyển 10.330,6 nghìn hành khách, giảm 40,05% so cùng kỳ và luân chuyển 511,9 triệu hk.km, giảm 40,38% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 8 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 947,6 nghìn hành khách; lũy kế 8 tháng đạt 10.257,7 nghìn hành khách, giảm 39,99% so với cùng kỳ. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 8,5 nghìn hành khách; lũy kế 8 tháng đạt 72,93 nghìn hành khách, giảm 47,57% so với cùng kỳ. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 46,4 triệu hk.km, lũy kế 8 tháng đạt 503,9 triệu hk.km, giảm 40,23% so với cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường thủy đạt 0,95 triệu hk.km, lũy kế 8 tháng đạt 7,98 triệu hk.km, giảm 48,74% so với cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hoá:
+ Ước tháng 8 vận chuyển hàng hoá đạt 503,5 nghìn tấn và luân chuyển hàng hoá đạt 27,3 triệu tấn.km. Lũy kế 8 tháng, toàn tỉnh đã vận chuyển 4.843,8 nghìn tấn hàng hoá, giảm 27,80% so với cùng kỳ và luân chuyển hàng hoá đạt 262,97 triệu tấn.km, giảm 30,92% so với cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 8 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 503,1 nghìn tấn, lũy kế 8 tháng đạt 4.839,8 nghìn tấn, giảm 27,79% so với cùng kỳ; vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,42 nghìn tấn, lũy kế 8 tháng đạt 4,1 nghìn tấn, giảm 35,13% so với cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 27,3 triệu tấn.km, lũy kế 8 tháng đạt 262,5 triệu tấn.km, giảm 30,92% so với cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 46,7 nghìn tấn.km, lũy kế 8 tháng đạt 464,9 nghìn tấn.km, giảm 35,01% so với cùng kỳ năm trước.
- Cảng quốc tế Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp hàng hoá tháng 8 ước đạt 45.000 tấn; lũy kế 8 tháng, đạt 433.764 tấn (trong đó, khối lượng bốc xếp ngoài nước đạt 1.102 tấn); các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng gồm quặng Ilmenite, cát, tro bay, gạch pallet, xi măng,... Ước doanh thu 8 tháng đạt 19,7 tỷ đồng.
- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi ước tháng 8 đạt 122,1 tỷ đồng, tăng 0,25% so với tháng trước và giảm 37,97% so với cùng kỳ năm trước; luỹ kế 8 tháng ước đạt 1.103, tỷ đồng, giảm 30,03% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 424,1 tỷ đồng, giảm 37,51% so với cùng kỳ; Doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 654,3 tỷ đồng, giảm 24,31% so với cùng kỳ; Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 24,8 tỷ đồng, giảm 26,19% so với cùng kỳ.
5. Bưu chính, viễn thông:
Hạ tầng bưu chính, mạng viễn thông tiếp tục được phát triển mở rộng; đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Tổng số điểm giao dịch bưu chính viễn thông 1.170 điểm. Số thuê bao điện thoại cố định 33.320 thuê bao; điện thoại di động trả sau 31.920 thuê bao. Tổng số thuê bao Internet các loại 135.340 thuê bao; tỷ lệ người sử dụng Internet (quy đổi) đạt 61%.
V. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng
1. Thu, chi ngân sách:
Trong tháng 8, tiếp tục rà soát, xử lý những vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị định số 41/2020/NĐ-CP, ngày 08/4/2020 của Chính phủ về việc gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho các doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân kinh doanh bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; đồng thời hỗ trợ các biện pháp cho người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Triển khai đôn đốc thực hiện tốt cân đối thu, chi ngân sách của tỉnh.
- Thu ngân sách tháng 8 ước đạt 540 tỷ đồng. Lũy kế 8 tháng đạt 6.691,2 tỷ đồng, đạt 62,24% dự toán năm, giảm 27,05% so cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa (trừ dầu) đạt 5.084,9 tỷ đồng, đạt 66,47% dự toán năm, giảm 19,68%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí 4.179,8 tỷ đồng, đạt 62,41% dự toán năm, giảm 21,28%; thu tiền nhà, đất 905,1 tỷ đồng, đạt 94,97% dự toán năm, giảm 11,31% (trong đó, thu tiền sử dụng đất 574,1 tỷ đồng, đạt 82,02% dự toán năm, giảm 23,56%); thu dầu thô 752,7 tỷ đồng, đạt 57,9% dự toán năm, giảm 39,96% và thu thuế xuất nhập khẩu 853,6 tỷ đồng, đạt 47,42% dự toán năm, giảm 46,25% so cùng kỳ năm trước.
Dự ước các khoản thu 8 tháng đầu năm 2020 tăng (giảm) so cùng kỳ năm trước như sau: Thu từ doanh nghiệp nhà nước 689,5 tỷ đồng (giảm 35,25%), thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 663,1 tỷ đồng (giảm 16,46%), thu ngoài quốc doanh 745,4 tỷ đồng (giảm 30,08%), thuế thu nhập cá nhân 410 tỷ đồng (giảm 9,98%), thuế bảo vệ môi trường 337,4 tỷ đồng (giảm 15,65%); lệ phí trước bạ 174,1 tỷ đồng (giảm 40,91%); thu từ các loại phí, lệ phí 123,2 tỷ đồng (tăng 9,35%); thu khác ngân sách 147,7 tỷ đồng (giảm 45,92%); thu xổ số kiến thiết 829,3 tỷ đồng (tăng 13,31%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản 43,8 tỷ đồng (giảm 59,08%); thu tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 6,6 tỷ đồng (giảm 26,51%), thu tiền thuê mặt đất, mặt nước 323,9 tỷ đồng (tăng 26,56%); thu tiền sử dụng đất 574,1 tỷ đồng (giảm 23,56%); thu từ dầu thô 752,7 tỷ đồng (giảm 39,96%) và thu thuế xuất nhập khẩu đạt 853,6 tỷ đồng (giảm 46,25%).
- Chi ngân sách: Tổng chi trong tháng 8 ước thực hiện 380 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 330 tỷ đồng); lũy kế 8 tháng 9.499,4 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 6.680,7 tỷ đồng); trong đó, chi đầu tư phát triển 3.026,1 tỷ đồng, chi thường xuyên 3.654,5 tỷ đồng.
3. Hoạt động tín dụng:
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã triển khai các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng dịch Covid-19; tính đến 31/7/2020, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn 620 tỷ đồng, chiếm 0,99% tổng dư nợ, tăng 0,42% so với đầu năm và tăng 0,1% so với tháng trước. Đến ngày 12/8/2020, đã giảm lãi vay cho 2.700 khách hàng với số tiền lãi được giảm là 1,05 tỷ đồng. Cùng với việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và miễn, giảm lãi vay, các tổ chức tín dụng tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn, triển khai thực hiện các chương trình cho vay mới với lãi suất thấp hơn so với trước khi dịch bệnh xảy ra, doanh số cho vay mới bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh từ ngày 23/01/2020 là 8.015 tỷ đồng/3.640 khách hàng.
- Tình hình thực hiện lãi suất: Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 3,7-4,05%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng là 4,4-7,5%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên là 6-7,7%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 5%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân là 6%/năm), các lĩnh vực khác từ 7-9%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 9-12%/năm.
- Hoạt động huy động vốn (tính đến ngày 31/7/2020), nguồn vốn huy động đạt 39.784 tỷ đồng, tăng 2% so với đầu năm và giảm 0,89% so với tháng trước. Ước đến 31/8/2020, vốn huy động đạt 40.565 tỷ đồng, tăng 4% so với đầu năm.
- Hoạt động tín dụng: Các Tổ chức tín dụng tiếp tục mở rộng cho vay đi đôi với an toàn và hiệu quả, gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương. Tính đến 31/7/2020, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn tỉnh đạt 62.349 tỷ đồng, tăng 5,7% so với đầu năm, tăng 0,53% so với tháng trước. Trong đó, dư nợ cho vay bằng VND đạt 61.300 tỷ đồng, chiếm 98,3% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 33.914 tỷ đồng, chiếm 54,4% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay phân theo các mức lãi suất: lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng 6%/năm chiếm 4% tổng dư nợ; lãi suất từ 6-7%/năm chiếm 9,4% tổng dư nợ; lãi suất trong khoảng 7-9%/năm chiếm 22% tổng dư nợ; lãi suất từ 9-12%/năm chiếm khoảng 56,1% tổng dư nợ; lãi suất trên 12%/năm chiếm khoảng 8,5% tổng dư nợ. Ước đến tính đến ngày 31/8/2020, dư nợ đạt 63.113 tỷ đồng, tăng 7% so với đầu năm.
- Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của Trung ương và Địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 34.857 tỷ đồng, chiếm 55,9% tổng dư nợ; cho vay xuất khẩu đạt 667 tỷ đồng, chiếm 1,1% tổng dư nợ; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 13.965 tỷ đồng, chiếm 22,4% tổng dư nợ; cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.855 tỷ đồng.
- Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 957,4 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 295,5 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 653,8 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 8 tỷ đồng), trong đó nợ xấu 21,9 tỷ đồng/5 tàu; nợ cơ cấu lại thời hạn 99,4 tỷ đồng/91 tàu.
- Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết số 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 321 tỷ đồng phục vụ nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi tôm giống công nghệ cao, chăn nuôi bò sữa công nghệ cao; dư nợ cho vay chăn nuôi lợn, sản xuất thuốc thú y, thức ăn gia súc đạt 481 tỷ đồng.
- Cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP: Hiện đang được triển khai tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh với dư nợ đạt 46,3 tỷ đồng/120 hộ.
- Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Tăng cường đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển lương qua tài khoản, thanh toán qua POS. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục được mở rộng, hoạt động thông suốt và an toàn. Đến 31/7/2020, trên địa bàn có 186 máy ATM (tăng 11 máy so với đầu năm) và 1.633 máy POS (tăng 13 máy so với đầu năm), hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
- Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Các Tổ chức tín dụng trên địa bàn đã bám sát điều hành tỷ giá và thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Nhìn chung, các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Diễn biến thị trường vàng, ngoại hối trên địa bàn tiếp tục phát triển theo hướng ổn định. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 07 tháng đầu năm đạt 347 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 63,4 triệu USD.
VI. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội
1. Hoạt động văn hóa:
Trong tháng (từ ngày 20/7-20/8/2020) đã tăng cường công tác tuyên truyền kỷ niệm 73 năm ngày thương binh liệt sỹ (27/07/1947-27/07/2020); 91 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/07/1929-28/07/2020); 90 năm ngày truyền thống ngành tuyên giáo của Đảng (01/8/1930-01/8/2020); tuyên truyền công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trong tình hình mới,...
Hoạt động Thư viện: Cấp mới 119 thẻ (thiếu nhi 60 thẻ); phục vụ 2.528 lượt bạn đọc (thiếu nhi 1.078 lượt), lượt bạn đọc truy cập website 272,45 ngàn lượt, luân chuyển 5.818 lượt tài liệu (thiếu nhi 1.847 lượt). Sưu tầm 111 tin, bài cho Tập thông tin tư liệu Bình Thuận, 21 tin, bài chuyên mục Thông tin kinh tế. Phục vụ xe ô tô thư viện lưu động tại 6 điểm với 13.200 bản sách, thu hút 1.750 lượt bạn đọc.
Hoạt động bảo tồn, bảo tàng trong tháng đã đón 28.609 lượt khách; trong đó, 87 lượt khách nước ngoài. Lũy kế 8 tháng (tính đến 20/7/2020), đã đón 111.074 lượt khách, trong đó 12.180 lượt khách nước ngoài.
2. Thể dục thể thao:
Thể dục, thể thao quần chúng: Tổ chức giải vô địch Vovinam tỉnh Bình Thuận năm 2020 tại huyện Hàm Tân; giải Bóng đá hạng Nhì năm 2020.
Thể thao thành tích cao: Đội Judo tham dự giải vô địch Các Câu lạc bộ Jujitsu toàn quốc năm 2020 tại Bình Dương (đạt 04 huy chương đồng); Đội Taekwondo tham dự giải vô địch các lứa tuổi trẻ toàn quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh (đạt 04 huy chương vàng, 05 huy chương bạc, 10 huy chương đồng, xếp hạng 3 toàn đoàn nội dung quyền); Đội Canoeing tham dự giải vô địch các Câu lạc bộ toàn quốc tại Đà Nẵng (đạt 01 huy chương vàng, 01 huy chương đồng); Đội Bơi lội tham dự giải vô địch trẻ toàn quốc tại Đà Nẵng. Lũy kế 8 tháng, đạt 58 huy chương (09 huy chương vàng, 13 huy chương bạc, 36 huy chương đồng); 09 kiện tướng (đạt 20% so với chỉ tiêu 45); 46 vận động viên Cấp 1 (đạt 70,8% so với chỉ tiêu 65).
3. Giáo dục và Đào tạo:
Trong tháng, đã tổ chức xong Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2020; chấm thi tốt nghiệp trung học phổ thông và chấm thi phúc khảo vào lớp 10 trung học phổ thông công lập, thi tốt nghiệp trung học phổ thông.
Chuẩn bị tốt các điều kiện về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho năm học 2020-2021; Công tác huy động học sinh đến trường, lớp học, phấn đấu thực hiện đạt chuẩn tiêu chí 5 về trường học trong chương trình xây dựng nông thôn mới; các tổ chức, đoàn thể nhiều địa phương đã phối hợp, rà soát số trẻ trên địa bàn, thực hiện tuyên truyền, vận động trẻ ra lớp với mục tiêu đảm bảo đạt tỷ lệ cao nhất. Công tác chuẩn bị tổ chức lễ khai giảng năm học mới 2020-2021 vào ngày 05/9/2020 được các trường trên địa bàn tỉnh tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết. Tiếp tục tăng cường việc ứng phó kịp thời với diễn biến phức tạp, kéo dài của dịch bệnh Covid-19 trong năm học mới 2020-2021.
4. Y tế
Trong tháng tiếp tục triển khai đẩy mạnh các hoạt động chương trình y tế Quốc gia, không có dịch bệnh nghiêm trọng xảy ra. Công tác phòng chống các bệnh xã hội, phòng chống HIV/AIDS duy trì đều. Công tác khám chữa bệnh ở các cơ sở nhà nước đáp ứng được nhu cầu phục vụ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm; phòng, chống dịch bệnh, đặc biệt là bệnh tay - chân - miệng ở trẻ em, bệnh sốt xuất huyết, tiêu chảy cấp và các dịch bệnh khác được tiếp tục tăng cường.
Tính đến ngày 22/8/2020, tỉnh liên tiếp 162 ngày không ghi nhận thêm trường hợp nào nhiễm Covid-19. Hiện nay, số trường hợp đang cách ly tập trung tại cơ sở điều trị và cơ sở cách ly tập trung là 07 trường hợp, sức khỏe ổn định.
Trong tháng, có 5 cas mắc sốt rét, 159 cas mắc sốt xuất huyết, 14 cas mắc tay chân miệng, tất cả không có cas tử vong. Số bệnh nhân mắc bệnh phong 6 bệnh nhân, không có bệnh nhân phát hiện mới, có 422 bệnh nhân đang quản lý và không có bệnh nhân phong mới tàn tật độ II.
Công tác phòng chống Lao: Số bệnh nhân thu dung điều trị 166 người. Số bệnh nhân lao phổi AFB (+) mới 90 người.
Số nhiễm HIV mới phát hiện 75cas (lũy kế 1.519 cas); có 9 cas chuyển AIDS mới (lũy kế 1.053 cas); có 2 cas tử vong (lũy kế 529 cas).
Công tác khám, chữa bệnh tiếp tục cơ bản đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Các bệnh viện, các đơn vị điều trị chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân; thực hiện đầy đủ các quy định chuyên môn của Bộ Y tế; tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Trong tháng đã khám 76.605 lượt khám, chữa bệnh và số bệnh nhân nội trú 11.282 người, 841 cas bệnh nhân chuyển viện và 32 ca tử vong.
Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm được triển khai tích cực; trong tháng không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm. Luỹ kế 8 tháng, xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm với tổng số người mắc là 02 người; trong đó có 01 người tử vong, xác định nguyên nhân do độc tố tự nhiên từ cá nóc mú.
5. Lao động - Xã hội:
Trong tháng, đã giải quyết việc làm cho 2.630 lao động; luỹ kế 8 tháng (đến ngày 10/8/2020) đã giải quyết việc làm cho 13.029 lao động, đạt 54,29% so với kế hoạch năm. Tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp cho 7.899 người, đạt 71,81% so với kế hoạch năm (trong đó, đào tạo nghề cho lao động nông thôn 1.618 người, đạt 40,45% so với kế hoạch năm và bằng 78,40% so với cùng kỳ năm trước).
Số lao động nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp trong tháng 1.293 người; có 1.413 lao động được ban hành Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp (bao gồm số tồn của tháng trước chuyển sang). Lũy kế 8 tháng, tổng số hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp 8.456 hồ sơ, tăng 18,05% so với cùng kỳ năm trước. Ban hành Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp 8.427 lao động, tăng 20,14% so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến ngày 10/8/2020, Quỹ Đền ơn đáp nghĩa vận động được 6,61 tỷ đồng, đạt 110,2% so với kế hoạch năm; Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh được 1,30 tỷ đồng, đạt 65,2% kế hoạch năm.
Công tác chính sách người có công: Trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 05 đối tượng theo Pháp lệnh ưu đãi người có công. Trợ cấp mai táng phí cho 45 trường hợp; quyết định trợ cấp dụng cụ chỉnh hình cho 04 trường hợp; quyết định trợ cấp ưu đãi giáo dục cho 09 trường hợp; 04 trường hợp giới thiệu giám định y khoa nhiễm chất độc hoá học. Trợ cấp thờ cúng liệt sĩ cho 11 trường hợp cấp mới và đổi người thờ cúng 30 trường hợp. Ngoài ra, tiếp nhận 07 hồ sơ liệt sĩ. Di chuyển tỉnh ngoài 11 hồ sơ liệt sĩ; 05 Quyết định điều chỉnh thông tin trong hồ sơ (04 hồ sơ liệt sĩ, 01 hồ sơ người nhiễm chất độc hóa học).
Tổng số người đăng ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone đến 10/8/2020 là 1.589 người, hiện đang duy trì tham gia điều trị 653 người; số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý 3.450 người; có 105/124 xã, phường, thị trấn có người sử dụng chất ma túy, chiếm 84,67% số xã, phường, thị trấn có người nghiện ma túy.
Thực hiện hỗ trợ người lao động theo Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, tính từ ngày 29/4 đến ngày 06/8/2020 chi trả cho 113.869 đối tượng với số tiền 116,4 tỷ đồng. Chi hỗ trợ cho 15.145 hồ sơ (14.706 hồ sơ không có giao kết hợp đồng lao động bị mất việc làm; 07 hồ sơ lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp; 277 hồ sơ lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc nghỉ việc không hưởng lương và 155 Hộ kinh doanh cá thể có doanh thu khai thuế dưới 100 triệu đồng/năm) với số tiền 15,4 tỷ đồng.
6. Hoạt động bảo hiểm
Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT chính xác, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch. Công tác thu vẫn còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19, nên số tiền nợ cao (tính đến ngày 31/7/2020) đã tiếp nhận văn bản của đơn vị, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp đề nghị giãn đóng, miễn đóng, miễn lãi chậm đóng, dừng đóng vào các quỹ BHXH, BHYT, BHTN; thông báo giảm 13.284 lao động, trong đó có 6.731 lao động thôi việc, chấm dứt hợp đồng lao động; 6.553 lao động nghỉ việc không hưởng lương, đã xác nhận 7.159 sổ BHXH để bảo lưu.
Luỹ kế 7 tháng (đến ngày 31/7/2020), toàn tỉnh có 89.856 người tham gia BHXH bắt buộc, giảm 4,1% so với cùng kỳ; có 80.640 người tham gia BHTN, giảm 1,53% so với cùng kỳ; số người tham gia BHXH tự nguyện 6.070 người, tăng 187,4% so với cùng kỳ; Số người tham gia BHYT 990.129 người, tăng 3,2% so với cùng kỳ. Đã xét duyệt, giải quyết cho 35.579 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, giảm 6,3% so với cùng kỳ. Trong đó, hưởng các chế độ BHXH dài hạn 668 lượt người; hưởng trợ cấp BHXH một lần 7.440 lượt người; hưởng chế độ BHXH ngắn hạn 20.657 lượt người; hưởng trợ cấp BHTN 6.814 lượt người. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 85,6% dân số.
Tổng số đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng đến đầu tháng 8/2020, BHXH tỉnh quản lý là 15.621 người (chi trả qua ATM cho 7.250 người). Trong tháng thu được 164,9 tỷ đồng, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 7 tháng (đến ngày 31/7/2020), toàn tỉnh thu được 1.334 tỷ đồng, đạt 52,1% kế hoạch, tăng 4,8% so với cùng kỳ. Tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 132,5 tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước.
7. Tai nạn giao thông (từ 15/7-14/8/2020):
Số vụ tai nạn giao thông 29 vụ, so với tháng trước tăng 1 vụ và so với cùng kỳ năm trước giảm 12 vụ. Luỹ kế 8 tháng 204 vụ (trong đó đường sắt 01 vụ), so với cùng kỳ năm trước giảm 79 vụ.
Số người bị thương 28 người, tăng 13 người so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước giảm 7 người. Luỹ kế 8 tháng 135 người, giảm 70 người so với cùng kỳ năm trước.
Số người chết 21 người, tăng 4 người so với tháng trước và giảm 1 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 8 tháng 123 người (trong đó đường sắt 01), so với cùng kỳ giảm 42 người.
Trong tháng, xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng giữa xe ô tô khách và xe tải, làm 8 người chết và 7 người bị thương. Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra và tập trung trên tuyến quốc lộ 1A, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, đi không đúng phần đường, làn đường, chuyển hướng sai quy định, không nhường đường, lái xe đã uống rượu bia,... ngoài ra còn có các nguyên nhân khác và do người đi bộ gây ra. Thực hiện Nghị định số 100/2019/NĐ-CP, ngày 30/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt” các vụ tai nạn liên quan đến rượu, bia khi tham gia giao thông đã giảm đáng kể. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, người dân thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch, hạn chế ra đường và ở nhà nên cũng góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
8. Thiên tai, cháy nổ:
Thiên tai: Trong tháng xảy ra 06 vụ thiên tai, do lốc, gió giật mạnh và mưa lớn gây lũ quét cục bộ xảy ra bất ngờ tại huyện Bắc Bình, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Lagi làm bị thương 01 người, tốc mái 13 căn nhà, hư 4 trạm biến áp hạ thế 75KW, diện tích cây bị thiệt hại là: 58,3 ha. Ước tổng giá trị thiệt trên 952 triệu đồng. Lũy kế 8 tháng 16 vụ thiên tai, 01 người chết, ước tổng giá trị thiệt ban đầu 24,58 tỷ đồng (trong đó 20 tỷ do hạn hán và thiệt hại 2.024,2 ha diện tích cây trồng).
Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 01 vụ cháy (giảm 2 vụ so cùng kỳ), không thiệt hại về người, không xảy ra nổ; ứớc thiệt hại ban đầu khoảng 1 tỷ đồng. Lũy kế 8 tháng có 58 vụ cháy, tăng gấp 2 lần số vụ so với cùng kỳ; tổng thiệt hại 11 tỷ đồng, tăng 5,5 lần so cùng kỳ.
Vi phạm môi trường: Trong tháng không có vụ nào xảy ra (giảm 07 vụ so với cùng kỳ). Lũy kế 8 tháng có 14 vụ (giảm 10 vụ so với cùng kỳ), đã xử phạt 1.044 triệu đồng.\.