Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 28/05/2021-15:38:00 PM
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 3 và quý I năm 2021 tỉnh Hải Dương

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng cao chủ yếu do sản lượng cây vụ đông và nuôi trồng thủy sản tăng mạnh; ngành công nghiệp, xây dựng giảm khá “sâu” do dịch covid-19 ảnh hưởng lớn đến sản xuất ở hầu hết các ngành, một số ít ngành có lượng sản xuất tăng như sản xuất than cốc, sắt thép và sản xuất điện; ngành dịch vụ giảm nhẹ do quý I năm trước đã chịu ảnh hưởng bởi dịch.

Kinh tế

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2021 cơ bản thuận lợi, do thời tiết ấm phù hợp gieo trồng lúa và cây rau mầu vụ chiêm xuân. Riêng chăn nuôi lợn việc tái đàn vẫn gặp khó khăn do nguồn lợn giống khan hiếm.

1.1. Trồng trọt

Vụ đông năm 2021, toàn tỉnh gieo trồng được 21.811 ha, tăng 2,4% (+509 ha) so với vụ đông năm 2020, trong đó tăng nhiều nhất là nhóm rau các loại (+303 ha), một số loại cây rau có diện tích tăng nhiều như: hành củ (+244 ha), dưa chuột (+136 ha), bắp cải (+89 ha), tỏi lấy củ (+56 ha),… Nhóm cây chất bột có củ (+246 ha), chủ yếu tăng ở cây khoai tây (+269 ha). Bên cạnh đó, một số cây trồng vụ đông diện tích giảm so với năm trước như: ngô (-17 ha), khoai lang (-30 ha), rau cải các loại (-127 ha), mùng tơi (-23 ha), rau ngót (-51 ha), cà chua (-29 ha)… So với năm trước, một số huyện có diện tích gieo trồng vụ đông tăng nhiều như: huyện Tứ Kỳ (+174 ha), Bình Giang (+116 ha), Ninh Giang (+74 ha), Kim Thành (+71 ha) …

Sản xuất vụ chiêm xuân năm nay có những thuận lợi do: thời tiết nắng ấm, rét đậm, rét hại không kéo dài; nguồn nước đổ ải dồi dào; các địa phương đã chủ động trong khâu chuẩn bị nên hầu hết diện tích lúa, rau mầu được gieo trồng trong khung thời vụ tốt nhất.

Đến nay, toàn tỉnh đã gieo trồng xong diện tích lúa và cây rau mầu vụ chiêm xuân; tổng diện tích gieo trồng vụ chiêm xuân 2021 ước đạt gần 67.000 ha, giảm 1% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó, diện tích lúa chiêm xuân ước đạt 56.100 ha; rau, màu vụ xuân ước đạt trên 9.000 ha.

1.2. Chăn nuôi

Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, không xẩy ra dịch bệnh nên đàn gia cầm phát triển khá. Riêng chăn nuôi lợn vẫn gặp khó khăn trong việc tái đàn sau dịch tả lợn châu phi do nguồn lợn giống khan hiếm.

Tổng đàn trâu ước đạt 5.330 con, tăng 16,2%; tổng đàn bò ước đạt 15.830 con, giảm 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 45 tấn, tăng 12,5%; sản lượng thịt bò ước đạt 135 tấn, tương đương so với cùng kỳ năm 2020.

Tổng đàn lợn thịt ước đạt 210.000 con, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, đàn lợn đang được khôi phục, tuy nhiên việc tái đàn chậm do thiếu nguồn cung lợn giống nhưng hiệu quả kinh tế đạt khá. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I ước đạt 13.350 tấn, tăng 18% so với cùng kỳ.

Về đàn gia cầm, trong quý I do chăn nuôi lợn khôi phục chậm, nhiều hộ trang trại, gia trại tiếp tục duy trì và mở rộng đàn gà nên tổng đàn tăng khá. Công tác phòng bệnh, vệ sinh môi trường luôn được quan tâm thực hiện nghiêm ngặt nên bệnh dịch không xảy ra. Ước tại thời điểm 31/3/2021, tổng đàn gia cầm ước đạt 15.348 nghìn con, tăng 14,1%; trong đó đàn gà ước đạt 11.000 nghìn con, tăng 10%. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng trong quý I ước đạt trên 16.000 tấn, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm 2020; sản lượng trứng ước đạt 125.000 nghìn quả, tăng 1,6% so với cùng kỳ.

1.3. Thuỷ sản

Trong quý I, nuôi trồng thuỷ sản phát triển ổn định, không phát sinh dịch bệnh, giá bán sản phẩm các loại thủy sản giảm mạnh, hiệu quả nuôi trồng thủy sản đạt thấp; phương thức nuôi cá lồng bè vẫn được duy trì và phát triển mạnh do phương thức nuôi lồng bè đem lại hiệu quả kinh tế cao, với các chủng loại cá đa dạng như: Diêu hồng, Rô phi đơn tính, Trắm cỏ, Cá chép nuôi giòn… Diện tích thuỷ sản đang nuôi ước đạt trên 11.000 ha, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2020. Sản lượng thủy sản ước đạt trên 27.000 tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ 2020. Công tác quản lý môi trường ao nuôi và phòng ngừa dịch bệnh thủy sản được duy trì thường xuyên, nên dịch bệnh phát sinh ở mức độ nhẹ, rải rác.

Sản xuất công nghiệp

Dịch bệnh Covid-19 tái bùng phát tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động sản xuất công nghiệp của tỉnh Hải Dương, do phần lớn các ca bệnh xuất hiện ở các địa phương tập trung nhiều khu, cụm công nghiệp. Dịch bệnh đồng thời xảy ra trong kỳ nghỉ tết Nguyên Đán làm cho nhiều công nhân về quê ăn Tết không thể trở lại làm việc đúng hạn, làm cho sản xuất công nghiệp trong quý đầu năm sụt giảm.

2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp

Tháng 3, dịch Covid-19 đã cơ bản được kiểm soát, số ca mắc mới trong cộng đồng giảm rõ rệt, lệnh phong toả dần được gỡ bỏ từ giữa tháng. Nhiều doanh nghiệp đã quay trở lại ổn định sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo các biện pháp an toàn phòng chống dịch. Đồng thời, do chênh lệch về số ngày sản xuất nên sản xuất công nghiệp tháng 3 tăng 51,9% so với tháng 02, cụ thể: ngành khai khoáng +44,5%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo +58,2%; ngành sản xuất và phân phối điện, nước nóng, hơi nước…+27,7%; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải +2,0%.

So với cùng kỳ, sản xuất công nghiệp tháng 3 giảm 3,7%; trong đó ngành khai khoáng -21,8%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo -6,0%; ngành sản xuất và phân phối điện, nước nóng, hơi nước +11,4%; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải +6,2%.

Tính chung quý I, sản xuất công nghiệp giảm 7,4%; đây là mức giảm sâu nhất trong nhiều năm trở lại đây, thấp hơn cả “mức đáy” quý II năm 2020; cụ thể, ngành khai khoáng -23,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo -10,1%; ngành sản xuất và phân phối điện, nước nóng, hơi nước +13,9%; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải +0,8%.

Các ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính (-23,4%) và sản xuất thiết bị điện (-37,6%) là những ngành chiếm tỷ trọng lớn và giảm “sâu” trong quý I; nguyên nhân chủ yếu do các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành này tập trung ở huyện Cẩm Giàng là một trong 02 huyện/thị chịu ảnh hưởng lớn trong đợt dịch này với số ngày cách ly xã hội theo Chỉ thị 16 là 25 ngày, số ngày giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15 là 15 ngày.

Tất cả các huyện, thị tập trung nhiều khu, cụm công nghiệp trong tỉnh cũng là các địa phương chịu ảnh hưởng lớn do dịch (TP. Hải Dương, TP. Chí Linh, TX. Kinh Môn, các huyện Cẩm Giàng, Kim Thành), vì vậy, đại đa số các ngành sản xuất đều có lượng sản xuất giảm, có thể kể đến như thức ăn cho gia súc -10,8%; áo phông (T- shirt), áo may ô và các loại áo khác -27,8%; giày dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài -32,2%; bao bì đóng gói khác bằng plastic -8,5%; mạch điện tử tích hợp -20,0%; máy kết hợp từ hai chức năng trở lên: in, quét, coppy,… -34,2%; máy khâu loại khác trừ máy khâu sách và máy khâu gia đình -67,2%; máy khâu loại dùng cho gia đình – 7,5%; xe có động cơ chở 5 người trở lên -26,4; bộ đánh lửa và bộ dây khác dùng cho xe có động cơ -2,1% …

Một số ít ngành sản xuất tăng là do đặc thù hoạt động sử dụng ít lao động và nhu cầu thị trường tăng cao như sản xuất than cốc (+17,1%); sản xuất kim loại (+7,7%); sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng …(+13,9%); khai thác, xử lý và cung cấp nước (+7,1%).

2.2. Chỉ số tiêu thụ

Cũng giống như xu hướng sản xuất, tình hình tiêu thụ sản phẩm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3 năm 2021 tăng 66,7% so với tháng trước, giảm 1,3% so với cùng kỳ.

Tính chung 3 tháng đầu năm tiêu thụ sản phẩm giảm 9,1%, trong đó ngoại trừ ngành sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 18,7% thì các ngành còn lại đều có sản lượng tiêu thụ giảm đó là: sản xuất, chế biến thực phẩm -7,8%; sản xuất đồ uống -17,6%; dệt -9,5%; sản xuất trang phục -8,0%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan -30,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plactic -7,2%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác -10,7%; sản xuất kim loại -6,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) -7,8%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính, sản phẩm quang học -19,8%; sản xuất thiết bị điện -37,2%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu -60,7%; sản xuất xe có động cơ -2,9%.

2.3. Chỉ số tồn kho

Tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điềm 01/4/2021 tăng 8,7% so với tháng trước và giảm 3,3% so với cùng kỳ. Các ngành có lượng tồn kho so với cùng kỳ giảm là sản xuất đồ uống giảm 26,2%; sản xuất trang phục giảm 27,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 3,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plactic giảm 19,0%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 6,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 44,5%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 66,4%; sản xuất xe có động cơ giảm 19,9%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 30,8%.

Các ngành có chỉ số tồn kho tăng là: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 18,1%; dệt tăng 30,3%; sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế tăng 42,3%; sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất tăng 30,9%; sản xuất thuốc, hoá dược, dược liệu tăng 15,9%; sản xuất kim loại tăng 43,2%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính, sản phẩm quang học tăng 35,4%; sản xuất thiết bị điện tăng 0,5%; công nghiệp chế biến chế tạo khác tăng 17,0%.

2.4. Chỉ số sử dụng lao động

Tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/04/2021 tăng 0,7% so với tháng trước và giảm 3,7% so với cùng kỳ.

Tính chung 3 tháng đầu năm giảm 5,4%, trong đó hầu hết các ngành đều có số lượng lao động giảm, điển hình như khai khoáng khác giảm 19,1%; sản xuất đồ uống giảm 5,9%; dệt giảm 10,5%; sản xuất trang phục giảm 9,7%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 21,1%; sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất giảm 2,1%; sản xuất thuốc, hoá dược, dược liệu giảm 30,5%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 5,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 8,3%; sản xuất thiết bị điện giảm 5,9%; sản xuất và phân phối điện giảm 4,2%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 15,6% …

Các ngành có chỉ số sử dụng lao động tăng là sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,9%; sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế tăng 6,7%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plactic tăng 0,6%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính, sản phẩm quang học tăng 10,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 2,8%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 0,6%.

Hoạt động đầu tư

3.1. Vốn đầu tư thực hiện

Quý I năm 2021, vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 320,7 tỷ đồng, đạt 9,0% kế hoạch năm, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 141,4 tỷ đồng, giảm 0,3%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 152,7 tỷ đồng, tăng 12,3%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã đạt 12,9 tỷ đồng, tăng 10,8%.

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý I năm 2021 ước đạt 7.657 tỷ đồng, giảm 20,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn nhà nước trên địa bàn đạt 861 tỷ đồng, giảm 10,3%; vốn ngoài nhà nước đạt 4.282 tỷ đồng, giảm 21,6%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.513 tỷ đồng, giảm 23,0%.

Một số biện pháp cụ thể ngay từ đầu năm 2021 được các ban, ngành triển khai thực hiện nhằm đẩy nhanh công tác giải ngân vốn đầu tư công, không để dồn vào cuối năm như:

– Chủ động xây dựng chương trình hành động, kế hoạch hành động cụ thể về đầu tư công để có giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư, nhất là công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, đấu thầu …

– Thường xuyên rà soát, kiểm tra, đôn đốc không để xảy ra tình trạng chậm giao kế hoạch vốn, tồn đọng vốn, tồn đọng hồ sơ giải quyết các thủ tục dự án đầu tư; đẩy nhanh công tác nghiệm thu, quyết toán.

3.2. Thu hút đầu tư

Dịch bệnh Covid-19 gây ảnh hưởng đến hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài do các hoạt động tìm hiểu cơ hội đầu tư bị trì hoãn; các hoạt động tìm hiểu cơ hội đầu tư, các hội thảo, các diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn xúc tiến đầu tư chưa thể triển khai.

Thu hút đầu tư nước ngoài trong quý I đạt khoảng 91,5 triệu USD bằng 80% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó cấp mới cho 7 dự án với số vốn đăng ký 47,2 triệu USD (6 dự án ngoài KCN với số vốn 39,2 triệu USD, 01 dự án KCN dự kiến cấp với 8 triệu USD), điều chỉnh tăng vốn đầu tư cho 10 lượt dự án với số vốn tăng thêm 44,3 triệu USD (2 dự án ngoài KCN 3,3 triệu USD; 8 dự án trong KCN với vốn tăng thêm 41 triệu USD).

Về thu hút đầu tư trong nước, trong 03 tháng đầu năm 2021 UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư cho 36 dự án (trong đó 25 dự án mới và 11 dự án điều chỉnh) với tổng vốn thu hút đầu tư 3.421,3 tỷ đồng tăng 92,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, có nhiều dự án có quy mô lớn như: Bệnh viện quốc tế Hà Nội – Hải Dương (Công ty cổ phần đầu tư và phát triển y tế Thành Đông) tổng vốn đầu tư 1.278 tỷ đồng; Trung tâm thương mại dịch vụ Quang Thành (Công ty cổ phần bất động sản Hyosung Việt Nam) tổng vốn đầu tư 703 tỷ đồng.

Nhìn chung, thu hút vốn đầu tư trong quý I cao hơn cùng kỳ năm trước, đây là tiền đề quan trọng để Tỉnh phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong năm 2021 và các năm tiếp theo.

3.3. Phát triển doanh nghiệp

Về thành lập mới doanh nghiệp, tính đến ngày 21/3/2020, đã cấp giấy chứng nhận ĐKKD thành mới cho 363 doanh nghiệp (giảm 32,5% so với cùng kỳ), trong đó có 15 hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp. Giải thể 66 doanh nghiệp. Luỹ kế đến nay, trên địa bàn tỉnh có 16.056 doanh nghiệp, chi nhánh và văn phòng đại diện.

Thương mại, giá cả, dịch vụ

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và tác động từ các biện pháp phòng, chống dịch làm cho các lĩnh vực vận tải, khách sạn, nhà hàng, du lịch và một số dịch vụ khác gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ khác chỉ chiếm 13,0% trong tổng mức, nên không ảnh hưởng lớn đến tổng mức chung. Tính chung quý I, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt 15.519 tỷ đồng tăng 7,8%.

4.1. Bán lẻ hàng hoá

Doanh thu bán lẻ hàng hoá tháng 3 ước đạt 4.106 tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung quý I, doanh thu bán lẻ hàng hoá ước đạt 13.502 tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo mặt hàng:

– Nhóm lương thực, thực phẩm là nhóm chiếm cơ cấu lớn nhất với 38,5% trong tổng số và đạt 5.194 tỷ đồng, tăng 19,3%;

– Nhóm gỗ và vật liệu xây dựng cũng chiếm cơ cấu tương đối với 15,2% trong tổng số, đạt 2.052 tỷ đồng, tăng 12,8%;

– Nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình đạt 1.879 tỷ đồng, tăng 11,8%.

4.2. Dịch vụ tiêu dùng

Doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 3 ước đạt 579 tỷ đồng, giảm 0,5% so với tháng trước, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội quý I ước đạt 2.017 tỷ đồng, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo ngành kinh tế: Dịch vụ lưu trú đạt 26 tỷ đồng, chiếm 1,3% trong tổng số, giảm 42,6% so với cùng kỳ năm trước; Dịch vụ ăn uống đạt 714 tỷ đồng, chiếm 35,4% tổng số, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước; Dịch vụ khác đạt 1.276 tỷ đồng, chiếm 63,3% tổng số, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước.

4.3. Vận tải, kho bãi

Tháng 3, doanh thu vận tải, kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt 419 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 46,3% và giảm 30,9% so với cùng kỳ; trong đó, vận tải hành khách đạt 45 tỷ đồng, tăng 67,9% so với tháng trước và giảm 37,1% so với cùng kỳ năm trước; vận tải hàng hoá đạt 333 tỷ đồng, tăng 47,5% so với tháng trước, giảm 30,4% so với cùng kỳ; dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 40 tỷ đồng, tăng 21,0% so với tháng trước, giảm 26,7% so với cùng kỳ.

Quý I, doanh thu vận tải, kho bãi và hỗ trợ vận tải ước đạt 1.659 tỷ đồng, giảm 15,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, vận tải hành khách đạt 200 tỷ đồng, giảm 23,2%; vận tải hàng hoá đạt 1.318 tỷ đồng, giảm 13,6%; dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 138 tỷ đồng, giảm 19,4%.

Khối lượng hành khách vận chuyển tháng 3 ước đạt xấp xỉ 1,0 triệu hành khách, so với tháng trước tăng 80,0% và giảm 49,6% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 36 triệu hành khách.km, tăng 71,9% so với tháng trước và giảm 48,9% so với cùng kỳ. Tính chung quý I khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 4,5 triệu hành khách, giảm 33,6% so với cùng kỳ; khối lượng hành khách luân chuyển đạt 195 triệu hành khách.km, giảm 23,5% so với cùng kỳ năm trước.

Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng 3 ước đạt 4,9 triệu tấn, tăng 36,2% so với tháng trước và giảm 41,1% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 351 triệu tấn.km, tăng 42,6% so với tháng trước và giảm 37,4% so với cùng kỳ. Tính chung quý I khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 21,7 triệu tấn, giảm 18,0% so với cùng năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 1.362 triệu tấn.km, giảm 25,2% so với cùng kỳ năm trước.

4.4 Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3 giảm 0,49% so với tháng trước; giảm 0,17% so với cùng kỳ năm trước; CPI bình quân 3 tháng đầu năm giảm 1,0% so với cùng kỳ.

So với tháng trước, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 3,15% là nhóm hàng có giảm mạnh nhất. Nguyên nhân do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid nên giá dịch vụ nhà ở giảm. Tiếp đến là hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,55% là do sau Tết nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng lương thực, thực phẩm giảm đi rõ rệt, trong khi nguồn cung dồi dào.

Bên cạnh đó, nhóm hàng có chỉ số giá tăng cao là nhóm giao thông (+2,67%), do nhà nước điều chỉnh tăng giá xăng, dầu; cụ thể, giá xăng A95 tăng 1.213 đồng/lít, giá xăng E5 tăng 1.075 đồng/lít và dầu diezen tăng 1.057 đồng/lít.

Giá vàng biến động phức tạp theo thị trường giá vàng thế giới, so với tháng trước chỉ số giá vàng giảm 3,74%, giá vàng bình quân tháng này là 5.302 ngàn đồng/chỉ, giảm 206 ngàn đồng/chỉ so với tháng trước. Ngược chiều với giá Vàng, Giá Đô la Mỹ tháng này có xu hướng tăng nhẹ với mới tăng 0,04% so với tháng trước (+990 đồng/USD).

Một số vấn đề xã hội

Y tế và hoạt động phòng, chống dịch Covid-19

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc Gia, Bộ Y tế về công tác chống dịch, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện cấp bách các nhiệm vụ phòng chống dịch trên địa bàn tỉnh: Chỉ thị số 10-CT/TU ngày 28/01/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương về khẩn trương triển khai quyết liệt các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh; Chỉ thị số 11-CT/TU ngày 15/02/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương về về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh; các Thông báo số 80; 82; 89; 91; 92; 95 Kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh.

Tính đến 6h ngày 25/3/2021, tỉnh Hải Dương đã bước sang ngày thứ 07 liên tiếp không có thêm ca mắc mới. Tổng số ca bệnh đang giảm dần, hiện chỉ còn 192/724 ca bệnh đang điều trị và 156 trường hợp F1 đang được cách ly tập trung. Công tác lấy mẫu xét nghiệm SARS-CoV-2 chủ yếu tập trung vào nhóm đối tượng trong doanh nghiệp, lái xe để tham gia các hoạt động kinh tế và học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh trước khi quay trở lại trường học.

Tổng hợp chung từ khi dịch bùng phát trở lại đến nay, tỉnh Hải Dương đã phát hiện 724 ca dương tính; có tổng số 17.557 trường hợp F1 và 84.281 trường hợp F2 được cách ly và giám sát y tế. Tổng số xét nghiệm đã thực hiện là khoảng 712.000 mẫu. Nếu diễn biến dịch thuận lợi, toàn tỉnh Hải Dương sẽ trở lại trạng thái bình thường mới từ 31/3/2021.

Các hoạt động y tế khác, tăng cường phối hợp trong phòng chống những bệnh dịch mới lạ. Nguy cơ một số bệnh trong Chương trình tiêm chủng mở rộng tiếp tục có xu hướng quay trở lại như: Ho gà, Sởi/Rubella, tay chân miệng… nguyên nhân do điều kiện thời tiết và giao lưu phát tán mầm bệnh trong cộng đồng. Triển khai thực hiện tốt các chương trình, đề án của ngành, đặc biệt quan tâm Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số – KHH gia đình, từng bước giảm mất cân bằng giới tính khi sinh, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3.

Văn hóa, thể thao

Tổ chức tuyên truyền chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các biện pháp phòng chống dịch bênh Covid-19.

Để thực hiện tốt công tác phòng chống dịch, trong bối cảnh dịch bệnh đang diễn biến phức tạp do biến thể mới của virus SARS-CoV-2 lây lan nhanh, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh tế – xã hội, sức khỏe và đời sống nhân dân, ban Chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 yêu cầu tạm dừng mọi hoạt động văn hóa, thể dục thể thao và hướng dẫn các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, thờ tự không tổ chức các nghi lễ, hoạt động có tập trung đông người. Không tổ chức đón các đoàn khách thập phương, thực hiện nghiêm túc các qui định về phòng chống dịch bệnh. Tạm dừng các hoạt động triển lãm, các hoạt động biểu diễn nghệ thuật.

Giáo dục

Hoàn thành tốt các nhiệm vụ học kỳ I và đang tích cực triển khai nhiệm vụ học kỳ II, năm học 2020-2021 trong tình hình diễn biến dịch bệnh Covid – 19 phức tạp.

Công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ tiếp tục được quan tâm thực hiện tốt, chất lượng được nâng cao. Chất lượng giáo dục được giữ vững, có mặt tiến bộ: Tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng tiếp tục giảm; thành tích học sinh giỏi quốc gia với tổng số 81/99 học sinh đạt giải (4 giải Nhất, 21 giải Nhì, 28 giải Ba và 28 Khuyến khích). Ngành tiếp tục phối hợp cùng các địa phương thực hiện nhiều giải pháp tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhất là đảm bảo đủ số phòng học tương ứng với số lớp học, đáp ứng tình hình quy mô học sinh tiếp tục tăng.

Công tác xây dựng và nâng cao chất lượng trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm đầu tư, phấn đấu đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ đề ra. Do sáp nhập, thu gọn đầu mối các đơn vị sự nghiệp công lập nên số tổng số trường đạt chuẩn năm học 2020-2021 so với năm học trước giảm theo. Tính đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh có 636 trường được công nhận trường đạt chuẩn quốc gia đạt 75% (giảm 0.37% so với cùng kỳ năm học trước).

Thực hiện nghiêm túc Quyết định số 1956/QĐ-UBND ngày 07/6/2019 của UBND tỉnh phê duyệt Đề án “Tổ chức, sắp xếp các trường mầm non, phổ thông công lập tỉnh Hải Dương, giai đoạn 2019-2021”.

Tiếp tục hướng dẫn các cơ sở giáo dục triển khai công tác lựa chọn sách giáo khoa chương trình GDPT 2018;

Trước tình hình dịch bệnh Covid – 19 có diễn biến phức tạp, Sở GD&ĐT thực hiện nghiêm túc, hiệu quả sự chỉ đạo của các cấp, phối hợp với ngành Y tế về công tác phòng dịch đối với các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh; chỉ đạo sát sao công tác cập nhật tình hình dịch bệnh ở các địa phương, đơn vị, có giải pháp xử lý kịp thời năn chặn sự lây lan dịch bệnh; đồng thời chủ động xây dựng kế hoạch điều chỉnh thời gian năm học, hướng dẫn tổ chức dạy học, nhất là việc ôn tập cho học sinh lớp 9, 12, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ năm học, chuẩn bị các điều kiện tổ chức thi tuyển sinh THPT và thi tốt nghiệp THPT năm 2021.

4. Giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội

Trong 3 tháng đầu năm, toàn tỉnh tổ chức 09 phiên giao dịch việc làm định kỳ thu hút sự tham gia của 207 doanh nghiệp với 1.375 người lao động, trong đó số người nhận được việc làm sau khi phỏng vấn tại sàn giao dịch là 450 người.

Chăm lo đời sống cho các đối tượng người có công với cách mạng, người nghèo và đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh nhân dịp tết Nguyên đán Tân Sửu.

Triển khai thực hiện tốt trợ cấp khó khăn đối với hộ nghèo nhân dịp Tết nguyên đán Tân Sửu 2021. Chỉ đạo các địa phương thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách giảm nghèo đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy định. Toàn tỉnh đã tổ chức thăm, tặng quà Tết Tân Sửu cho trên 1.091 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em mồ côi trên địa bàn tỉnh với tổng kinh phí 3.256 triệu đồng.

Bảo vệ môi trường

Tháng 03/2021, trên địa bàn tỉnh phát hiện 27 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 22 vụ, số tiền xử phạt là 66,9 triệu đồng. hầu hết các vụ vi phạm là đổ chất thải rắn công nghiệp ra môi trường, đổ chất thải sinh hoạt và vứt khẩu trang không đúng nơi quy định.

Tính chung 3 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 64 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 55 vụ, số tiền phạt 296,9 triệu đồng.

Trật tự an toàn xã hội

Về tai nạn cháy, nổ; Trong tháng xảy ra 01 vụ cháy xe ô tô tải chở bật lửa ga trên địa phận thành phố Chí Linh, vụ cháy không gây thiệt hại về người nhưng ước tính ban đầu thiệt hại về tài sản là 350 triệu đồng, nguyên nhân đang được công an điều tra làm rõ. Tính chung 3 tháng đầu năm nay xảy ra 03 vụ cháy, nổ không bị thương vong về người nhưng thiệt hại ước tính 580 triệu đồng.

Về tai nạn giao thông; tháng 3/2021 trên địa bàn tỉnh xảy ra 5 vụ tai nạn và va chạm giao thông, làm chết 4 người, bị thương 1 người. Tính chung quý I năm 2021, trên địa bàn tỉnh xảy ra 40 vụ tai nạn và va chạm giao thông, làm chết 35 người, bị thương 20 người; so với cùng kỳ năm 2020, số vụ giảm 19 vụ (-32.2%), giảm 16 người chết (-31.4%) và tăng 03 người bị thương (18%). Trong đó chủ yếu là tai nạn giao thông đường bộ, không xảy ra tai nạn giao thông đường sắt và đường thủy nội địa.

Trên các tuyến quốc lộ xảy ra 19 vụ, làm chết 15 người và bị thương 05 người; các tuyến đường tỉnh xảy ra 10 vụ, làm chết 11 người và bị thương 05 người; giao thông nông thôn và đường huyện xảy ra 07 vụ, làm chết 05 người, bị thương 08 người và giao thông đô thị xảy ra 04 vụ, làm chết 04 người, bị thương 02 người./.


Cục Thống kê tỉnh Hải Dương

    Tổng số lượt xem: 490
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)