Báo cáo số 103/BC-UBND ngày 01/12/2008 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình về tình hình thực hiện kế hoạch năm 2008.
I. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT
Năm 2008, mặc dù trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, vừa phải khắc phục hậu quả thiệt hại nặng nề do bão lụt năm 2007 gây ra, vừa bị rét đậm, rét hại kéo dài đầu năm, dịch bệnh gia súc, gia cầm tái phát; đặc biệt là giá vật tư, hàng hóa tăng cao do lạm phát... nhưng nhờ sự quan tâm, giúp đỡ của Chính phủ, các Bộ, ngành TW, sự lãnh đạo, chỉ đạo điều hành tập trung của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh nên nhìn chung, năm 2008 tình hình kinh tế - xã hội (KT-XH) của tỉnh vẫn đạt được những kết quả tiến bộ tương đối toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu cơ bản đạt kế hoạch (KH) đề ra (đạt và vượt KH 12/16 chỉ tiêu, một số chỉ tiêu đã đạt được mục tiêu đại hội đến năm 2010), chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiếp tục đúng hướng, kinh tế của tỉnh vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá; các lĩnh vực văn hoá, xã hội có chuyển biến tích cực; Quốc phòng – An ninh (QP – AN) tiếp tục được củng cố, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; đời sống nhân dân ổn định và từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên do gặp những trở ngại nêu trên nên tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) chưa đạt chỉ tiêu đề ra, SXKD gặp nhiều khó khăn, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa mạnh. Công tác cải cách hành chính (CCHC), tiến độ thực hiện các chương trình, dự án còn chậm, công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn hạn chế. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước; đời sống nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai vẫn còn nhiều khó khăn. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc còn chậm, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, tình trạng vi phạm lâm luật vẫn diễn biến phức tạp.
* Dự ước kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu năm 2008 như sau :
- Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 11,42% (kế hoạch cả năm 12%-12,5%, thực hiện cùng kỳ 11,63%; KH 5 năm tăng bình quân 11-12%/năm).
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 20,25% (kế hoạch cả năm 20-21%, thực hiện cùng kỳ 23,1%; KH 5 năm tăng 20-21%/năm)
- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,26% (kế hoạch cả năm 5 - 5,5%, thực hiện cùng kỳ 2,9%; KH 5 năm tăng bình quân 4-4,5%/năm)
- Sản lượng lương thực 26,1 vạn tấn, đạt 104,7% kế hoạch, tăng 11,19% so cùng kỳ (mục tiêu đến năm 2010 đạt 25,5 - 26 vạn tấn)
- Giá trị các ngành dịch vụ tăng 12,1% (kế hoạch cả năm 12,5 - 13,0%, thực hiện cùng kỳ 12,7%; KH 5 năm tăng 11-12%/năm)
- Cơ cấu kinh tế: Nông - lâm - ngư nghiệp 24,2% (KH 24%); Công nghiệp - xây dựng 36,6% (KH 37%); Dịch vụ 39,2% (KH 39%); (mục tiêu phấn đấu đến 2010 tương ứng: 20% - 40% - 40%)
- Giá trị kim ngạch xuất khẩu: 62,9 triệu USD, đạt 114,4% KH, bằng 107,6% so cùng kỳ (chỉ tiêu cả năm 55 triệu USD; mục tiêu đến 2010: 58 triệu USD)
- Tổng thu ngân sách trên địa bàn: 853 tỷ đồng, đạt 111,9% dự toán (KH cả năm 762 tỷ đồng; mục tiêu đến 2010: 1.000 tỷ đồng)
- Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm 4% so năm 2007; đến cuối năm 2008 còn 19% (kế hoạch cả năm giảm 3,5-4%; mục tiêu KH 5 giảm bình quân 3,5 - 4%/năm)
- Giải quyết việc làm cho 2,8 vạn người, đạt 100% kế hoạch (KH 5 năm giải quyết việc làm bình quân 2,4-2,5 vạn lao động)
- Phổ cập THCS đạt 97,5% số xã, phường (kế hoạch cả năm 97%, mục tiêu đến 2010 đạt 100%)
- Giảm tỷ suất sinh 0,26 0/00 (mục tiêu 0,35 - 0,4 0/00/năm)
- Tỷ lệ các trạm y tế đạt chuẩn quốc gia 48,4% (KH cả năm 46%, mục tiêu đến 2010 đạt 70%) và tỷ lệ trạm y tế xã, phường, thị trấn có bác sĩ đạt: 69,2% (KH cả năm 68,5%, mục tiêu đến 2010 đạt 100%)
- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng vẫn còn 28,5% (KH cả năm 27%, mục tiêu đến 2010 còn 18-20%)
- Tỷ lệ hộ nông thôn dùng nước hợp vệ sinh 68,0 % (chỉ tiêu cả năm: 64%; mục tiêu đến 2010 đạt 70%)
- GDP bình quân đầu người 10,4 triệu đồng/người/năm, tăng so năm 2007: 9,5% (mục tiêu 2010: 700-800USD).
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRÊN CÁC LĨNH VỰC
1. Công tác quy hoạch
Các cấp, các ngành đã thực sự quan tâm đến công tác quy hoạch (QH), tích cực phối hợp với các Viện nghiên cứu, các đơn vị tư vấn trong nước và quốc tế trong việc xây dựng, nâng cao chất lượng công tác QH, đảm bảo tầm nhìn xa, có trọng tâm, trọng điểm nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, nhất là đáp ứng cho việc thu hút các dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh. Nhiều QH quan trọng của tỉnh đã và đang được phê duyệt như: QH tổng thể phát triển KT-XH tỉnh, huyện, thành phố đến năm 2020, QH chi tiết xây dựng 2 bờ sông Nhật Lệ, QH vùng phụ cận sân bay Đồng Hới, QH khoanh vùng cấm, tạm cấm hoạt động khai thác khoáng sản của tỉnh... vµ một số QH chi tiết trên địa bàn tỉnh. Đang tiếp tục xây dựng các QH ngành, lĩnh vực: QH ngành nghề nông thôn đến năm 2020; điều chỉnh QH điện lực 2006 - 2010, có xét đến năm 2015; QH các ngành, điều chỉnh QH các khu công nghiệp tỉnh đến năm 2020...
Tuy vậy, một số QH quan trọng triển khai chậm như: QH tổng thể phát triển Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, điều chỉnh QH chung các trung tâm huyện lỵ như Hoàn Lão, Quán Hàu, Đồng Lê, Quy Đạt,...
2. Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
* Nông nghiệp
Trồng trọt: Diện tích và năng suất các loại cây trồng như lúa, ngô, lạc, cây công nghiệp... đều tăng SCK, cả 2 vụ Đông Xuân và Hè Thu đều được mùa; sản lượng lương thực đạt cao nhất từ trước đến nay: 261.337 tấn, bằng 104,5% KH, tăng 11,2% SCK và vượt sớm so với mục tiêu đại hội đến năm 2010; đặc biệt diện tích trồng mới cao su đạt 320%.
Chăn nuôi: Chương trình chăn nuôi đã đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu đề ra, cả về tổng đàn gia súc, gia cầm và giá trị sản xuất (SX) chiếm tỷ trọng 39,1% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp; chăn nuôi đã phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, nhiều trang trại chăn nuôi xuất hiện. Công tác thú y được chú trọng, đã ngăn chặn, bao vây khống chế kịp thời các ổ dịch bệnh nguy hiểm.
* Lâm nghiệp:
Chương trình xã hội hóa công tác bảo vệ và phát triển rừng, trong đó trồng rừng đã được đẩy mạnh; tạo được chuyển biến tích cực trong SX lâm nghiệp, nhận thức của người dân về lợi ích từ trồng rừng kinh tế được nâng lên nên việc trồng rừng được đầu tư phát triển mạnh, nhất là vùng gò đồi. Công tác quản lý bảo vệ rừng, PCCC rừng đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, chú trọng tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức để người dân nghiêm túc thực hiện ngay ở từng địa bàn cơ sở , tình trạng cháy rừng đã được hạn chế. Đến nay độ che phủ rừng đạt 66,8%, là địa phương có độ che phủ rừng cao của cả nước.
* Thủy sản:
Chương trình phát triển thuỷ sản, cơ bản đã đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. Công tác tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh (SXKD) được chú trọng, cơ cấu sản phẩm đa dạng hơn, đã tập trung vào một số nghề khai thác có thế mạnh với những đối tượng khai thác có giá trị kinh tế cao phục vụ xuất khẩu, sản lượng thủy sản đạt 38.523 tấn, tăng 3,03% SCK (trên mục tiêu đại hội đến 2010 là 39.000 tấn).
* Công tác phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn:
Đã được tập trung chỉ đạo tăng cường, nhất là công tác thông tin, cảnh báo cảnh giới đi đôi kiểm tra đôn đốc thực hiện kiên quyết phương châm 4 tại chỗ, nhờ đó đã giảm thiểu được thiệt hại. Công tác khắc phục hậu quả các đợt rét đậm, rét hại đầu năm, cơn bão số 7 và đợt mưa lớn diện rộng cuối tháng 10 vừa qua được quan tâm chỉ đạo kịp thời, góp phần ổn định sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp còn một số hạn chế: Quá trình đổi mới các hình thức tổ chức SX và chuyển dịch trong cơ cấu ngành còn chậm; đầu tư của các doanh nghiệp vào khu vực nông nghiệp, nông thôn còn ít. Số diện tích đạt giá trị 50 triệu đồng/ha trở lên còn thấp; các vùng chuyên canh có quy mô lớn chậm hình thành; sự gắn kết giữa sản xuất và chế biến chưa đồng bộ. Việc xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế gắn với giải quyết việc làm còn ít. Công tác chỉ đạo Chương trình phát triển chăn nuôi ở một số địa phương, cơ sở yếu, chưa thực sự tạo được bước đột phá. Quản lý, bảo vệ rừng chưa chặt chẽ, tình trạng phá rừng, vận chuyển, buôn bán lâm sản, động vật quý hiếm trái phép vẫn còn xảy ra. Thuỷ sản chưa thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Sản xuất tôm giống trên địa bàn mới đáp ứng được 1/4 nhu cầu; việc kiểm soát con giống, phòng chống dịch bệnh còn yếu. Hoạt động chế biến thuỷ sản gặp nhiều khó khăn, công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản còn bất cập.
3. Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (CN - TTCN)
Tốc độ tăng trưởng khá cao và đạt KH đề ra, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2008 đạt 2.680 tỷ đồng, tăng 20,25% SCK, phần lớn sản xuất của các ngành công nghiệp và sản phẩm chủ yếu đều ổn định và tăng trưởng khá . Một số sản phẩm đã khẳng định được thương hiệu và từng bước có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong và ngoài tỉnh như: bia, xi măng, gạch ceramic... Chương trình phát triển CN-TTCN và NNNT cơ bản đạt KH đề ra. Các ngành nghề cơ khí, gia công sữa chữa, SX VLXD, chế biến nông, lâm, thủy sản, mộc dân dụng, mỹ nghệ có nhiều tiến bộ...
Mặc dù vậy, chất lượng tăng trưởng SXCN còn thiếu vững chắc, do giá cả đầu vào tăng cao, khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay hạn chế, trong lúc sản phẩm đầu ra tiêu thụ chậm; mặt khác, năng lực tài chính của các doanh nghiệp (DN) yếu, quy mô sản xuất nhỏ, thiếu vốn đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất nên sức cạnh tranh kém, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, một số cơ sở sản xuất cầm chừng, sản lượng đạt thấp (như: lắp ráp xe máy, các cơ sở chế biến thuỷ sản đông lạnh…); công nghiệp dân doanh tuy có mức tăng trưởng khá, song quy mô còn nhỏ, sản phẩm còn đơn lẻ, sự hợp tác liên kết liên doanh còn yếu. Một số cụm, điểm làng nghề đã được đầu tư nhưng chính quyền sở tại lúng túng, chậm có phương án khai thác, phát huy hiệu quả.
4. Hoạt động các ngành dịch vụ - du lịch
* Nội thương:
Hoạt động thương mại nội địa vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ đạt 6.042 tỷ đồng, tăng 14,4% (đã loại trừ yếu tố tăng giá); hầu hết các mặt hàng thiết yếu trên thị trường vẫn được đảm bảo nguồn cung ứng đáp ứng nhu cầu SX và tiêu dùng . Mạng lưới dịch vụ thương mại tiếp tục được củng cố và phát triển; các mặt hàng thiết yếu, mặt hàng chính sách phục vụ đồng bào dân tộc, miền núi được cung ứng kịp thời, đầy đủ. Công tác quản lý thị trường, giá cả, chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại được tăng cường, góp phần thực hiện có hiệu quả chủ trương kiềm chế lạm phát của Chính phủ trên địa bàn tỉnh.
* Xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu tiếp tục giữ được mức tăng trưởng khá, đạt 62,9 triệu USD vượt chỉ tiêu đề ra và vượt sớm so mục tiêu đại hội đến năm 2010 . Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là cao su, thuỷ sản, quặng titan, gỗ các loại... thị trường xuất khẩu từng bước được mở rộng, các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu ngày càng tích cực hơn cả về số DN và kim ngạch xuất khẩu. Nhập khẩu: Đạt kim ngạch đề ra . Mặt hàng nhập khẩu là nguyên vật liệu phục vụ sản xuất như nhôm, gỗ, tân dược và một số mặt hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu của người dân.
* Du lịch:
Đã tổ chức thành công Lễ hội Kỷ niệm 5 năm ngày phong Nha - Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là Di sản TNTG, góp phần thu hút khách du lịch trong nước, quốc tế đến với Quảng Bình và tiếp tục quảng bá rộng rãi để phát huy thành công sự kiện này. Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch theo Chương trình phát triển du lịch đã đề ra. Hoạt động kinh doanh phục vụ du lịch có nhiều chuyển biến tích cực, cả về đầu tư cơ sở vật chất hệ thống nhà hàng, khách sạn, cũng như chất lượng phục vụ, an ninh trật tư, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; thái độ phục vụ khách du lịch có nhiều tiến bộ; nhiều nhà đầu tư đã khởi công xây dựng các khu du lịch chất lượng cao tại khu vực: Suối Bang, Nhật Lệ - Quang Phú, Đá Nhảy... Việc đưa sân bay Đồng Hới và cảng biển Hòn La vào hoạt động đã tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch Quảng Bình phát triển.
* Các loại hình dịch vụ khác:
Hoạt động vận tải cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân. Khối lượng vận chuyển hàng hoá, hành khách và doanh thu đều tăng SCK. Lần đầu tiên mở tuyến đường bay Đồng Hới - Hà Nội, một loại hình vận tải mới ở tỉnh và đã mở 2 tuyến vận tải sang Lào đáp ứng phục vụ thuận tiện hơn nhu cầu đi lại và giao lưu trao đổi của nhân dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư các thành phần kinh tế và cho khách du lịch trong và ngoài nước. Các loại hình dịch vụ khác như bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... tiếp tục phát triển với nhiều sản phẩm mới tiện ích đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
* Về tình hình giá cả:
Do khủng hoảng kinh tế Thế giới và nhiều nguyên nhân khác nên giá cả nhiều mặt hàng tăng, nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm, xăng dầu, vật liệu xây dựng tăng cao 3 quý đầu năm. Trong điều kiện khó khăn đó, tỉnh ta đã nghiêm túc triển khai thực hiện có hiệu quả chủ trương, giải pháp của Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ về kiềm chế lạm phát, khắc phục mọi trở ngại, duy trì hoạt động SXKD, thực hiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, cán bộ, nhân dân và doanh nghiệp chia sẽ khó khăn của đất nước, tiết kiệm trong sản xuất, tiêu dùng nhờ đó đã góp phần ổn định tình hình và sang đầu quý 4 thị trường hàng hóa, giá cả đã chuyển biến tích cực, bình ổn dần trở lại. Dự kiến chỉ số biến động giá cả năm trên dưới 22%
Tuy nhiên do chỉ số giá hàng tiêu dùng tăng nhanh, ảnh hưởng đến sức mua và đời sống của nhân dân; kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhưng không vững chắc, các đơn vị tham gia xuất khẩu mang tính tự phát, quy mô nhỏ, cơ cấu sản phẩm còn nghèo, chủ yếu xuất khẩu qua trung gian. Hoạt động dịch vụ du lịch chưa có bước đột phá; sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa hấp dẫn du khách; mạng lưới dịch vụ ở vùng nông thôn chưa thật sự phát triển .
5. Xây dựng cơ bản
Nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển cả vốn trong và ngoài nước tăng khá. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 2.664,8 tỷ đồng, tăng 18,9% so với năm 2007. Công tác quản lý nhà nước về đầu tư XDCB tiếp tục có tiến bộ, trách nhiệm của các địa phương trong việc lập, quản lý, thực hiện dự án được nâng lên. Việc phân bổ vốn đảm bảo cơ cấu và đúng đối tượng, nhất là nguồn vốn hỗ trợ có mục tiêu của Chính phủ, vốn CTMTQG và các dự án lớn; bố trí đảm bảo mức vốn tối thiểu cho các lĩnh vực GD-ĐT và dạy nghề, KHCN và công tác chuẩn bị đầu tư theo hướng dẫn của TW. Đã tập trung vốn cho một số công trình, dự án trọng điểm của tỉnh để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, sớm đưa vào khai thác sử dụng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) nhanh, bền vững. Hoàn thành và đưa vào sử dụng một số công trình trọng điểm không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH trước mắt mà cả về lâu dài như: sân bay Đồng Hới, cảng Hòn La giai đoạn 1, đường 11..., các công trình trọng điểm khác như cầu Quảng Hải, Quốc lộ 12A, thuỷ lợi Rào Đá, hồ sông Thai... tiếp tục được đẩy nhanh tiến độ hoàn thành. Đặc biệt Khu kinh tế Hòn La đã được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ là tiền đề tạo bước đột phá trong phát triển KT-XH của tỉnh ở thời kỳ tới.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, đã tiến hành rà soát cắt giảm các công trình chưa đảm bảo thủ tục, các công trình trụ sở, nhà văn hoá... chưa khởi công xây dựng, đình hoãn hoặc giãn tiến độ thực hiện các dự án chưa thật sự cần thiết; kết quả đã đình hoãn và giãn tiến độ 21 dự án với tổng số tiền 30.290 triệu đồng ; đồng thời, triển khai nhiều giải pháp để đẩy nhanh tiến độ thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Tuy vậy, nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, tiến độ triển khai nhiều dự án còn chậm do vướng mắc khó khăn trong công tác bồi thường GPMB, năng lực một số chủ đầu tư còn yếu và do biến động giá cả nên các chủ đầu tư phải điều chỉnh dự án theo thủ tục quy định cũng làm chậm tiến độ.
6. Tài chính - Tín dụng
* Tài chính: Thu ngân sách đạt 853 tỷ đồng, vượt 11,9% so với dự toán HĐND tỉnh giao . Cơ cấu nguồn thu có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu từ SXKD của các DN địa phương tăng khá; trong 14 khoản giao thu thì 11 khoản thu vượt, 1 khoản thu hoàn thành và chỉ có 2 khoản thu không đạt; hầu hết các huyên, thành phố đều đạt và vượt mức dự toán; một số doanh nghiệp có đóng góp lớn cho ngân sách tỉnh: Công ty CP Bia Hà Nội - Quảng Bình, Nhà máy Xi măng Sông Gianh, Công ty Xăng dầu Quảng Bình... Công tác quản lý, điều hành chi NSNN đã thực hiện theo đúng quy định của Luật NSNN, cơ bản đã đáp ứng các nhiệm vụ phát triển KT, XH và những nhiệm vụ quan trọng, đột xuất khác; thực hiện có hiệu quả chương trình hành động về thực hành tiết kiệm, phòng chống lãng phí; thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên với tổng số tiền 21,33 tỷ đồng để phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát của Chính phủ .
Tuy nhiên, nguồn thu ngân sách từ phát triển SXKD tăng còn chậm và chưa cân đối được nhiệm vụ chi của địa phương. Tình trạng lãng phí trong quản lý sử dụng vốn ngân sách, nợ đọng thuế vẫn còn xảy ra.
* Tín dụng: Trong điều kiện thực hiện các chính sách của Nhà nước về thắt chặt quản lý tài chính tiền tệ, các ngân hàng đã chủ động khắc phục khó khăn, đẩy mạnh huy động vốn bằng nhiều biện pháp như nâng cao chất lượng phục vụ, linh hoạt trong việc áp dụng lãi suất và kỳ hạn, do đó nguồn vốn huy động và cung ứng vốn cho nền kinh tế vẫn giữ vững và tăng trưởng ổn định . Các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, NHPT, NHCSXH đã tập trung giải ngân các hợp đồng tín dụng, cho vay các chương trình KT-XH trọng điểm, cho vay xóa đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh trong chăn nuôi...; Đi đôi nâng cao chất lượng và mở rộng các loại hình dịch vụ, đã góp phần tích cực trong thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát trên địa bàn, bảo đảm an toàn trong hoạt động và ổn định thị trường tiền tệ...
Tuy vậy, việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển còn chưa mạnh; các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng chưa bám sát tình hình thực tế của các DN để cùng chủ động tháo gỡ khó khăn kịp thời trong SXKD, nhất là quan tâm đúng mức việc cho vay đối với các DN sau khi CPH và đối với khu vực kinh tế tập thể, HTX.
7. Hoạt động đối ngoại và công tác xúc tiến đầu tư
* Hoạt động đối ngoại: Đã đẩy mạnh theo hướng tích cực và chủ động hơn. Tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác với 2 tỉnh Khăm Muộn và Savanakhet, Lào và phát triển quan hệ hợp tác với các tỉnh vùng Đông Bắc Thái Lan trên các lĩnh vực kinh tế thương mại, văn hoá xã hội. Hoạt động kinh tế đối ngoại tiếp tục thu được kết quả khá . Các dự án ODA được tập trung chỉ đạo nên tiến độ thực hiện đạt cao hơn năm 2007, nhất là các dự án đang triển khai (Dự án khắc phục khẩn cấp hậu quả thiên tai năm 2005, Dự án đường liên xã Hiền - Xuân - An - Vạn, Dự án Vệ sinh môi trường thành phố (TP) Đồng Hới, dự án Giảm nghèo khu vực miền Trung). Và các dự án mới (dự án Bảo tồn và phát triển tài nguyên thiên nhiên khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng, Dự án phát triển Nông thôn tổng hợp đã khởi động, các dự án nguồn vốn JBIC, Dự án thoát nước và vệ sinh Môi trường đô thị Ba Đồn, Dự án cấp nước sinh hoạt huyện Quảng Trạch...) đang khẩn trương hoàn tất các thủ tục để sớm khởi động dự án. Công tác vận động viện trợ phi chính phủ (NGO) có nhiều tiên bộ .
Tuy nhiên, việc thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên địa bàn còn quá ít, số dự án đã đầu tư triển khai chậm và hoạt động chưa có hiệu quả; tiến độ giải ngân các dự án ODA còn chậm so với yêu cầu, một số chủ đầu tư dự án thiếu chủ động phối hợp với các cấp, các ngành để lồng ghép các nguồn vốn và thúc đẩy tiến độ giải phóng mặt bằng (GPMB), thi công, giải ngân.
* Về xúc tiến đầu tư (XTĐT): Đã tập trung thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường ĐT, KD theo hướng chủ động linh hoạt hơn, mở rộng quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước, nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh, thu hút các dự án đầu tư vào các lĩnh vực tỉnh có lợi thế như: đầu tư cơ sở hạ tầng KT-XH, khai thác khoáng sản, sản xuất VLXD, phát triển năng lượng, chế biến nông, lâm, thủy sản, phát triển du lịch, dịch vụ...; đẩy mạnh việc quảng bá hình ảnh, tiềm năng, cơ hội đầu tư của tỉnh; đẩy mạnh thực hiện CCHC... Nhờ vậy, công tác XTĐT đạt được kết quả khá. Số lượng nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư, khảo sát và đăng ký dự án trên địa bàn tỉnh tăng, nhiều Tập đoàn kinh tế lớn của cả nước và nhà đầu tư nước ngoài đã đến nghiên cứu, tìm hiểu cơ hội đầu tư tại Quảng Bình; nhiều dự án quy mô lớn đã được khởi công xây dựng ...
Mặc dù vậy, do điều kiện vị trí xa các thị trường tiêu thụ, cơ sở hạ tầng KT-XH chưa đồng bộ, các thủ tục đầu tư, nhất là công tác GPMB còn nhiều khó khăn và vướng mắc làm cản trở nên một số DN, nhà đầu tư tuy đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư và được các ngân hàng cho vay vốn đầu tư nhưng vẫn chậm khởi công xây dựng; một số nhà đầu tư đã đăng ký đầu tư nhưng do ảnh hưởng của lạm phát, chủ trương của Chính phủ thắt chặt tín dụng nên đã chững lại; một số dự án đã được quyết định đầu tư nhưng do năng lực nhà đầu tư kém tiến độ thực hiện chậm, kéo dài.
8. Tài nguyên, môi trường
Đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt QH, KH sử dụng đất của tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Công tác quản lý giao đất, cấp giấy CNQSD, cho thuê đất được triển khai tích cực, cơ bản đáp ứng được yêu cầu của các tổ chức, cá nhân và các nhà đầu tư; các công trình được giao và cho thuê đất sử dụng đúng mục đích . Hoàn thành việc đo đạc bản đồ địa chính cho các đơn vị liên quan phục vụ cho việc rà soát QH, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng (CNQSD) đất nông lâm nghiệp trong toàn tỉnh . Công tác quản lý tài nguyên tiếp tục được tăng cường, thực hiện đúng quy định, khắc phục tình trạng khai thác khoáng sản trái phép. Đã chú trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá tác động môi trường và kiểm tra giám sát việc thực hiện đối với các dự án, cơ sở SXKD.
Tuy vậy, công tác lập QHSD đất cấp xã một số nơi triển khai chưa tích cực. Việc cấp giấy CNQSD đất ở đô thị chưa đáp ứng yêu cầu của nhân dân, vẫn còn chậm và phiền hà. Cấp giấy CNQSD đất nông nghiệp sau đồn điền đổi thửa và đất lâm nghiệp chưa hoàn thành do thiếu kinh phí. Công tác QLNN về tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường ở một số cơ sở SX chưa thực hiện nghiêm túc, nên tình trạng vi phạm, ô nhiễm vẫn còn xảy ra nhưng chậm kiểm tra phát hiện và xử lý thiếu kiên quyết.
9. Về quan hệ sản xuất
Công tác đổi mới, sắp xếp DNNN: Đã hoàn thành sắp xếp các đơn vị chuyển đổi theo hình thức sang Công ty TNHH 1 thành viên. Đối với các đơn vị sắp xếp theo Quyết định 342/QĐ-TTg ngày 26/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới và phát triển các nông, lâm, trường quốc doanh tiếp tục thực hiện theo kế hoạch đề ra; cổ phần hoá Xí nghiệp chế biến Nhựa thông thuộc Công ty LCN Long Đại, Công ty LCN Bắc Quảng Bình đã nhượng bán Xí nghiệp Chế biến Gỗ xuất khẩu Ba Đồn cho Công ty TNHH Hải Hậu, tỉnh Bắc Ninh; đã tiến hành sáp nhập Xí nghiệp gỗ nguyên liệu Phú Quý và Nhà máy Chế biến gỗ xuất khẩu Phú Quý thuộc Công ty Cao su Việt Trung; đã phê duyệt Đề án sắp xếp, đổi mới DNNN Công ty Cao su Lệ Ninh, (theo kế hoạch trước mắt cổ phần hoá Xí nghiệp dịch vụ cơ khí).
Đăng ký kinh doanh: Trong 11 tháng đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (ĐKKD) cho 330 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký trên 2.500 tỷ đồng, nâng tổng số DN hiện đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 1.653 DN, với tổng số vốn đăng ký hơn 6.463 tỷ đồng; Hoạt động SXKD của các DN đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện các chương trình KT, XH trọng điểm, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo và tăng nguồn thu cho ngân sách (chiếm 43,4% thu nội địa). 11 tháng đã kiểm tra và thu hồi 32 giấy chứng nhận ĐKKD, trong đó có 14 DN giải thể, 1 DN chuyển đổi loại hình và 17 DN vi phạm pháp luật phải xử lý theo quy định.
Kinh tế hợp tác, hợp tác xã (HTX), kinh tế hộ gia đình: Có bước phát triển mạnh, nhiều mô hình SXKD có hiệu quả như kinh tế trang trại, liên kết hộ trong chăn nuôi lợn, bò, trồng rừng, nuôi trồng, chế biến nông lâm thuỷ sản... góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tuy số lượng DN tăng nhưng chất lượng còn hạn chế, các DN hoạt động chủ yếu trên các lĩnh vực XDCB, dịch vụ thương mại, số doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong các ngành sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản chưa nhiều; công tác hậu kiểm chưa được quan tâm thực hiện thường xuyên, nên nhiều DN đăng ký kinh doanh nhưng không hoạt động mà chưa được xử lý kịp thời. Các HTX, trang trại tăng nhanh nhưng quy mô còn nhỏ, thiếu vốn để đầu tư thâm canh, trình độ quản lý và ứng dụng tiến bộ KHCN còn thấp nên hiệu quả chưa cao...
10. Khoa học và công nghệ
Các đề tài, dự án đã tập trung phục vụ mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các chương trình phát triển KT-XH trọng điểm của tỉnh. Một số đề tài đã được triển khai ứng dụng như điều tra nguồn nước cung cấp Khu kinh tế và Cảng biển Hòn La, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm ghẹ biển... Công tác quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng có nhiều tiến bộ, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về đo lường - chất lượng. Triển khai hướng dẫn các doanh nghiệp tiếp tục xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001: 2000.
Tuy vậy, chất lượng, hiệu quả đề tài dự án chưa cao; số đề án sau nghiệm thu đưa vào sử dụng áp dụng triển khai trong thực tiễn còn ít, chưa có cơ chế khuyến khích đủ mạnh để các DN chủ động huy động vốn cùng với chính sách nhà nước hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ. Việc phối hợp trong công tác QLNN về hoạt động KHCN chưa thực sự gắn kết và hiệu quả, nhất là khi triển khai về địa phương cơ sở để hướng vào phục vụ phát triển SXKD, nhằm nâng cao giá trị hàng hóa. Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, xử lý sản phẩm chưa đạt tiêu chuẩn để phục vụ cho người tiêu dùng thiếu tăng cường đúng mức.
11. Giáo dục đào tạo
Tiếp tục đi dần vào thực chất, trên cơ sở thực hiện cuộc vận động “hai không” do Bộ GD&ĐT phát động, nhờ đó kỷ cương, nề nếp dạy và học được chấn chỉnh và tăng cường; đã thường xuyên chú trọng việc duy trì số lượng học sinh đến lớp, giảm thiểu tình trạng học sinh bỏ học; các tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường được hạn chế; nội dung hướng nghiệp, dạy nghề phổ thông được quan tâm; công tác kiểm tra, đánh giá, thi cử có nhiều cải tiến, đổi mới theo hướng nghiêm túc, khách quan; mục tiêu phổ cập giáo dục tiếp tục được quan tâm chỉ đạo . Đầu tư cơ sở vật chất cho GD-ĐT đã được tăng cường ở các cấp và toàn xã hội; đẩy mạnh thực hiện chương trình KCH trường học, đầu tư mua sắm thiết bị dạy học phục vụ đổi mới giáo dục phổ thông , đội ngũ giáo viên được bổ sung về số lượng, nâng cao về chất lượng...; Nhờ những cố gắng đó nên chất lượng giáo dục - đào tạo đã có bước chuyển biến tích cực cả ở diện rộng và mũi nhọn.
Đào tạo Đại học, Trung cấp chuyên nghiệp, đào tạo nghề có bước phát triển và chuyển biến tích cực theo đúng yêu cầu mục tiêu phục vụ chủ đề của tỉnh năm 2008 là cải thiện mạnh mẽ môi trường ĐT, KD và phát triển nguồn nhân lực. Mạng lưới đào tạo ngày càng phát triển, với 1 trường Đại học đa ngành; 3 trường trung cấp chuyên nghiệp; 5 trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề cấp huyện; ngoài ra còn có các trung tâm tin học, ngoại ngữ... đã và đang đầu tư nâng cao quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh và các địa phương lân cận, phục vụ phát triển KT-XH. Đã hoàn thành việc xây dựng và thông qua bước đầu về Đề án đào tạo nghề toàn tỉnh, xác định công tác đào tạo nghề là nội dung quan trọng hàng đầu, trước mắt trong việc phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Chuẩn bị phê duyệt Đề án thành lập Trường cao đẳng kinh tế kỹ thuật tỉnh. Đến nay, tỷ lệ qua đào tạo cả tỉnh đạt trên 30%, trong đó qua đào tạo nghề đạt 16%.
Tuy đã có bước chuyển biến, song tỷ lệ học sinh bỏ học ở các cấp học một số địa phương còn cao , chất lượng giáo dục đại trà còn thấp, tỷ lệ tốt nghiệp THPT còn thấp so với bình quân toàn quốc (tốt nghiệp THPT lần 1 đạt 61,7%, toàn quốc 75,96%, bổ túc THPT đạt 29,08% so với toàn quốc 42,42%). Giáo dục vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn...
12. Văn hoá, Thể thao và Thông tin, truyền thông
Đã tập trung tuyên truyền thực hiện các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ lớn của đất nước, của dân tộc tạo khí thế sôi nổi thúc đẩy các phong trào yêu nước trong sản xuất và đời sống của nhân dân. Các hoạt động hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh”, đã góp phần tuyên truyền, giáo dục trong các tầng lớp nhân dân. Phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" tiếp tục được đẩy mạnh . Tăng cường công tác QLNN về các hoạt động dịch vụ văn hoá, tập trung ngăn chặn có hiệu quả các vi phạm, đặc biệt là vi phạm trong kinh doanh, dịch vụ quảng cáo và quản lý di tích. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển mạnh, nhiều hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn với nhiều hình thức ngày càng phòng phú, đa dạng. Tiếp tục duy trì và phát triển cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thể dục thể thao theo gương Bác Hồ vĩ đại” .
Công tác quản lý Nhà nước về thông tin, truyền thông đã chú trọng kiểm tra đôn đốc hướng dẫn trong việc xây dựng và quản lý, phát huy hiệu quả cơ sở hạ tầng thông tin, truyền thông trong các cơ quan HCSN. Đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư đa dạng hoá các dịch vụ, phát triển mạng lưới, đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của nhân dân và thông tin liên lạc phục vụ ANQP, PCBL.
Tuy vậy, việc quản lý các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa như băng hình, Internet chưa chặt chẽ. Phong trào xã hội hóa lĩnh vực văn hóa, TDTT triển khai chưa mạnh và thiếu đồng bộ. Công tác QLNN về hoạt động thông tin, truyền thông, báo chí chưa đi vào nền nếp, đúng quy định...
13. Y tế, dân số
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân tiếp tục được đẩy mạnh trên nhiều lĩnh vực; các chương trình y tế, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng chống bệnh xã hội, phòng chống HIV/AIDS triển khai đạt và vượt KH đề ra; công tác khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi tiếp tục được quan tâm. Đã triển khai nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Đã thực hiện xã hội hoá, đầu tư thiết bị máy móc phục vụ công tác khám chữa bệnh. Thái độ phục vụ người bệnh có bước chuyển biến tích cực. Công tác phòng chống dịch được chú trọng, một số dịch bệnh có xảy ra trên địa bàn như: tiêu chảy cấp, sốt xuất huyết... đều được phát hiện sớm và được khoanh vùng dập dịch kịp thời. Đã tổ chức công tác tuyên truyền, giáo dục sức khoẻ, tháng hành động vệ sinh môi trường, vệ sinh ATTP, ngày thế giới phòng chống Lao... Công tác kiểm tra vệ sinh ATTP được chú trọng. Công tác thanh tra, kiểm tra hành nghề y dược được tăng cường. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các hoạt động DS-GĐ và trẻ em theo KH, góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em được tăng cường.
Tuy nhiên chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đội ngũ bác sỹ, cán bộ y tế có trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được nhu cầu. Công tác xã hội hoá y tế chưa mạnh, cơ sở vật chất, trang thiết bị khám chữa bệnh ở tuyến xã còn yếu nên xảy ra tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến huyện và tỉnh; Công tác dân số có lúc hoạt động lúng túng do thay đổi mô hình tổ chức, cán bộ. Chỉ tiêu giảm tỷ suất sinh, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng chưa đạt kế hoạch, tỷ lệ sinh con thứ 3 ở một số địa phương có xu hướng tăng.
14. Lao động, Thương binh và Xã hội
Tích cực thực hiện Chương trình Xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm, đã giải quyết việc làm cho 2,8 vạn lao động, đạt 100% KH (trong đó xuất khẩu lao động 2.100 người); tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2008 còn 19%, giảm 4% so cuối năm 2007 . Các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng; các hoạt động nhân đạo, từ thiện được tăng cường .
Tuy vậy, do thiên tai, dịch bệnh và giá cả tăng cao đã làm ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của nhân dân, nhất là hộ nghèo, thu nhập thấp; chất lượng nguồn lao động còn thấp, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo nghề còn cao . Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật lành nghề vừa ít lại phân bố, sử dụng chưa hợp lý giữa các ngành, lĩnh vực, vùng.
15. Thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo
Cơ sở hạ tầng của vùng đồng bào dân tộc tiếp tục được quan tâm đầu tư và từng bước phát huy hiệu quả; Đã chỉ đạo các ngành, các cấp thực hiện nhiều chính sách đối với đồng bào dân tộc, vùng đặc biệt khó khăn như cho vay vốn lãi suất 0%, hỗ trợ dầu hỏa thắp sáng cho các hộ ở những nơi chưa có điện, nâng học bổng cho học sinh nội trú, cấp sách giáo khoa cho học sinh nghèo... nhờ vậy SX và đời sống của đồng bào dân tộc không ngừng được cải thiện và có mặt chuyển biến hơn so với trước. Hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh nhìn chung phù hợp với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Tuy vậy, tỷ lệ giảm hộ nghèo và nguy cơ tái nghèo vùng đồng bào dân tộc còn cao, trình độ sản xuất của người dân còn lạc hậu; đội ngũ cán bộ chủ chốt của xã, thôn bản chưa đáp ứng được yêu cầu. Không ít chức sắc, chức việc tôn giáo đã tổ chức hành đạo trái pháp luật, vi phạm Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo; một số xứ họ đạo xâm lấn đất mở rộng khuôn viên nhà thờ, dựng tượng trái phép... ảnh hưởng đến an ninh nông thôn; nhưng chính quyền địa phương cơ sở chưa thực sự chủ động, thiếu sự phối hợp đồng bộ với các cấp, các ngành để nắm chắc tình hình và tham mưu giải quyết vụ việc kịp thời, đúng pháp luật.
16. Quốc phòng, an ninh
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận phòng tuyến QP toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng cố và tăng cường, công tác giáo dục QP-AN được đẩy mạnh. Đã tổ chức bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho cán bộ chủ chốt của các sở, ban ngành cấp tỉnh, cấp huyện ở Quân khu và tổ chức giáo dục QP-AN tại tỉnh, các huyện, thành phố và trong các trường học. Tăng cường các hoạt động xây dựng cơ sở ở các địa bàn biên giới. Tổ chức giao quân đạt 100% kế hoạch. Tổ chức diễn tập khu vực phòng thủy huyện Minh Hóa và diễn tập PCLB&TKCHCN tại huyện Tuyên Hóa theo KH chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Quân khu 4 đạt kết quả tốt.
Lực lượng Công an, Bộ đội biên phòng đã thường xuyên nắm bắt tình hình, tổ chức nhiều đợt trấn áp tội phạm có hiệu quả, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới trên 2 tuyến rừng và biển; đẩy mạnh hoạt động phòng, chống tội phạm kinh tế và ma tuý trên các địa bàn trọng điểm; triển khai và thực hiện tốt các KH đảm bảo an toàn cho các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn. Công tác kiểm tra ô nhiễm môi trường, phát hiện và xử lý các vụ phá rừng có nhiều tiến bộ.
Triển khai nghiêm túc và chỉ đạo quyết liệt thực hiện Nghị quyết số 32/2007/NĐ-CP của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách kiềm chế tai nạn giao thông, nhờ đó, tình hình tai nạn giao thông đã giảm so với năm trước cả về số vụ, số người chết, bị thương.
Tuy nhiên, tình trạng vi phạm chủ quyền biên giới, xuất cảnh trái phép vẫn còn xảy ra; tình hình tội phạm trật tự xã hội vẫn diễn biến phức tạp, đáng chú ý số người sử dụng ma túy trái phép có chiều hướng tăng, đặc biệt là trong thanh, thiếu niên. Sự quan tâm của các cấp, các ngành công tác bảo đảm ATGT chưa đồng bộ, nhất là ở cấp xã còn hạn chế; Tai nạn giao thông giảm nhưng vẫn xảy ra một số vụ nghiêm trọng; tình hình khiếu kiện đông người về tranh chấp địa giới hành chính, về đất đai và GPMB, phản ứng triển khai các dự án lớn... còn diễn biến phức tạp, ảnh hưởng an ninh trật tự trên địa bàn nông thôn.
17. Thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo
* Công tác thanh tra có nhiều tiến bộ nhất là thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cấp, các ngành trong QLNN về đất đai, đầu tư và xây dựng, thu chi NS, quản lý tài sản công, thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hiện chủ trương của Chính phủ về kiềm chế lạm phát; thanh tra việc thực thi nhiệm vụ, công vụ của CBCC . Qua thanh tra đã xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm, chấn chỉnh công tác chấp hành chế độ chính sách pháp luật trên các lĩnh vực KT-XH ở các cấp, các ngành, các DN..., góp phần giữ vững trật tự kỷ cương trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
* Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo (KNTC) của công dân đã được chính quyền các cấp, thủ trưởng các ban, ngành quan tâm, được xác định là giải pháp quan trọng nhằm phát huy quyền dân chủ ở cơ sở, giải quyết kịp thời các khiếu kiện của nhân dân . Thanh tra tỉnh tổ chức thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng trong việc thực hiện các quy định về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết KNTC và phòng chống tham nhũng tại 39 đơn vị, địa phương; rà soát thống kê các vụ KN, TC và chỉ đạo thủ trưởng các đơn vị giải quyết dứt điểm các vụ việc KNTC. Việc giải quyết đơn thư KNTC thực hiện đúng trình tự, thủ tục, công khai, dân chủ. Các quyết định giải quyết khiếu nại và kết luận giải quyết tố cáo cơ bản được thực hiện nghiêm túc đúng quy định của pháp luật. Quán triệt và xây dựng chương trình kế hoạch thực hiện kết luận 130 của Bộ Chính trị về công tác giải quyết KNTC.
* Công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN): Đã kiện toàn nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo PCTN tỉnh; chỉ đạo các ngành, địa phương xây dựng và triển khai chương trình hành động PCTN của tỉnh; Triển khai thực hiện việc kê khai minh bạch tài sản, thu nhập theo quy định của Chính phủ; chú trọng tập trung kiểm tra, thanh tra và điều tra xem xét xử lý theo quy định của pháp luật đối với các vụ việc tiêu cực nổi cộm được nhân dân quan tâm.
Tuy vậy, một số vụ việc giải quyết chưa thực hiện đúng trình tự thủ tục pháp luật; chưa thường xuyên kiểm tra, đôn đốc thực hiện các kết luận của các cấp có thẩm quyền, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong giải quyết KN, TC chưa cao nên còn có vụ việc kéo dài. Công tác triển khai chương trình hành động PCTN ở các đơn vị cơ sở chưa mạnh, giải pháp chưa thiết thực. Mặc dù số lượng công dân khiếu kiện và đơn KNTC giảm so với năm 2007, nhưng trong năm 2008 nổi lên một số vụ khiếu kiện đông người và gây rối về an ninh, trật tự ở thôn Trung Thành, xã Ngư thủy Bắc, huyện Lệ Thủy về địa giới hành chính, và ở thôn Đơn Sa, xã Quảng Phúc, thôn Thọ Đơn, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Trạch về xây dựng Nhà máy xi măng.
18. Công tác tư pháp
Công tác rà soát văn bản QPPL do HĐND và UBND tỉnh ban hành qua các thời kỳ và công tác tuyên truyền PBGDPL có những chuyển biến, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Thực hiện Chương trình xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn. Triển khai thực hiện kế hoạch PBGDPL giai đoạn 2007 - 2011 . Thực hiện các giải pháp tích cực trong công tác thi hành án, nhờ đó đã tăng tỷ lệ thi hành án dân sự . Công tác đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, đăng ký, quản lý hộ tịch, cấp phiếu lý lịch tư pháp và hoạt động công chứng đảm bảo đúng quy trình, thủ tục theo quy định . Kiện toàn, tổ chức hoạt động Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh, thành lập Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng cấp tỉnh và đã triển khai đạt kết quả khá tích cực .
Tuy nhiên, công tác kiểm tra rà soát văn bản QPPL do HĐND và UBND tỉnh ban hành tiến hành còn chậm, công tác kiểm tra văn bản QPPL do HĐND, UBND cấp xã ban hành chưa đi vào nề nếp. Công tác tuyên truyền PBGDPL chưa được triển khai thường xuyên, ý thức và trách nhiệm của một số cán bộ lãnh đạo ở các ngành, đơn vị, địa phương chưa cao. Kết quả thi hành án dân sự đạt thấp, nhiều vụ án có điều kiện thi hành nhưng phối hợp giải quyết chưa dứt điểm... Công tác bán đấu giá tài sản còn hạn chế.
19. Công tác xây dựng chính quyền, đẩy mạnh Cải cách hành chính và thi đua khen thưởng
* Xây dựng chính quyền: Đã tăng cường củng cố các tổ chức, từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở. Thực hiện và hoàn thành tốt, kịp thời, đúng quy định về việc sáp nhập, chia tách, sắp xếp lại bộ máy tổ chức các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện theo các Nghị định của Chính phủ, sớm ổn định đi vào hoạt động bước đầu khá đồng bộ. Đã thành lập mới, kiện toàn, thay đổi, bổ sung 26 Ban chỉ đạo, Hội đồng tư vấn liên ngành. Tiến hành giao và quản lý tốt chỉ tiêu biên chế năm 2008 cho các cấp, các ngành. Thực hiện công tác bổ nhiệm, điều động, điều chuyển cán bộ... theo đúng thẩm quyền đúng quy định. Tổ chức công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức theo kế hoạch. Hoàn thành bộ hồ sơ và bản đồ địa giới hành chính tỉnh để đưa vào lưu trữ, quản lý, khai thác sử dụng.
* Cải cách hành chính (CCHC): Đã triển khai thực hiện Kế hoạch CCHC và KH kiểm tra công tác CCHC năm 2008 ở các ngành và địa phương cơ sở. Hoạt động của Trung tâm giao dịch "một cửa" ở các sở, ban, ngành, địa phương tiếp tục được cải tiến, thuận tiện hơn cho công dân và tổ chức. Đã triển khai "một cửa" liên thông hiện đại ở Thành phố Đồng Hới và ở Sở KH&ĐT. Đã tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 05/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao hiệu quả sử dụng thời gian làm việc của CBCCVC trên địa bàn tỉnh.
* Công tác thi đua khen thưởng: Đã có bước chuyển biến tích cực ngày càng đi vào thực chất hơn, phong trào thi đua được triển khai và cụ thể hoá ở các ngành, địa phương gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, ngành; đã tập trung đổi mới hình thức và biện pháp tổ chức thực hiện. Đã triển khai các đợt thi đua lập thành tích kỷ niệm 78 năm ngày thành lập Đảng và đợt thi đua cao điểm lập thành tích chào mừng kỷ niệm 60 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua Ái Quốc (11/6/1948 - 11/6/2008), thi đua lập thành tích hoàn thành vượt mức KH nhà nước năm 2008. Kết quả nhiều tổ chức, cá nhân được Nhà nước, Chính phủ khen tặng các danh hiệu thi đua.
Tuy nhiên một số CBCCVC trách nhiệm và thái độ trong thực thi nhiệm vụ chưa thật sự tôn trọng và tận tụy phục vụ nhân dân; việc triển khai thực hiện KH CCHC năm 2008 và thực hiện cơ chế một cửa liên thông của một số ngành, địa phương còn chậm; thủ tục HC vẫn còn rườm rà, cơ chế "một cửa" hiệu quả chưa cao; chất lượng phong trào thi đua có lúc, có nơi còn nặng hình thức, thiếu cụ thể và việc triển khai, nhân rộng các điển hình tiên tiến chưa mạnh, việc khen thưởng đột xuất chưa kịp thời.
20. Công tác chỉ đạo điều hành của chính quyền các cấp
UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành nâng cao năng lực, trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành theo đúng Quy chế; đồng thời bám sát chương trình công tác và các Nghị quyết của TW, NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và các NQ của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh. Điều hành theo chương trình công tác trọng tâm; đồng thời có chương trình KH công tác cụ thể, xác định rõ các lĩnh vực, các công tác trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo, điều hành. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ giúp đỡ của Chính phủ, các bộ, ngành TW để giải quyết những khó khăn vướng mắc trong phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN của tỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp đi đôi với nâng cao trách nhiệm, phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành. Đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình KT, XH trọng điểm của tỉnh đặc biệt là thực hiện chủ đề năm 2008 về "tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường ĐTKD và phát triển nguồn nhân lực”; Tích cực xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước, đã có nhiều nhà đầu tư đến tìm hiểu và đầu tư trên địa bàn. Triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương của Bộ chính trị, Nghị quyết của Quốc Hội, Chính phủ về mục tiêu và các giải pháp kiềm chế lạm phát. Chỉ đạo thực hiện các NQ của Tỉnh ủy về phát triển KT-XH huyện Minh Hóa và thành phố Đồng Hới. Chú trọng tháo gỡ khó khăn trong SXKD của các thành phần kinh tế, tập trung chỉ đạo công tác PCLB, phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, chú trọng khắc phục hậu quả, sớm ổn định SX, đời sống nhân dân vùng bị thiệt hại. Thường xuyên tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh SX, tăng cường quản lý thị trường giá cả, chống đầu cơ buôn lậu, gian lận thương mại; đẩy mạnh thực hành tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách, thực hiện kịp thời các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với SX và đời sống.
Tuy vậy, trong công tác chỉ đạo điều hành vẫn còn một số thiếu sót, tồn tại: Năng lực điều hành, trách nhiệm tập thể và cá nhân của lãnh đạo một số sở, ban ngành, địa phương còn hạn chế. Chỉ đạo điều hành ở một số địa phương có lúc còn chưa kiên quyết, thiếu đồng bộ nên hiệu quả chưa cao; chất lượng cán bộ và bộ máy chính quyền ở cơ sở còn yếu, lúng túng và thiếu kỷ cương nhất là việc nắm và chủ động xử lý một số sự việc xảy ra ở địa bàn. Tư duy tầm nhận thức và phong cách làm việc của không ít CBCC chưa đáp ứng yêu cầu ở thời kỳ phát triển mới; tư tưởng ỷ lại, trông chờ cấp trên, né tránh sợ trách nhiệm của một bộ phận CBCC nhà nước đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước các cấp trong thực hiện các mục tiêu, chương trình KT, XH trọng điểm của tỉnh. Một số nội dung chương trình công tác trọng tâm, thông báo kết luận và văn bản chỉ đạo, đôn đốc của UBND tỉnh triển khai chậm, thiếu nghiêm túc nhưng chưa xử lý cán bộ kịp thời.
* Nguyên nhân đạt được kết quả
Trước hết là biết phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tranh thủ sự giúp đỡ của bộ, ngành TW... để tập trung thực hiện hoàn thành kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2008 trong hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn.
Kiên quyết chỉ đạo việc chuyển dịch có cấu kinh tế theo hướng tăng công nghiệp và dịch vụ trong đó xác định phát triển công nghiệp là hướng trọng tâm. Tập trung chỉ đạo các chương trình phát triển KT-XH, mà trước hết là các chương trình KT-XH trọng điểm của tỉnh.
Tập trung chỉ đạo đồng bộ các giải pháp để thực hiện chủ đề của năm 2008; chú trọng cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc trong SXKD, đặc biệt là tháo gỡ cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Đi đôi quan tâm phát triển nguồn nhân lực, trong đó coi trọng và tăng cường công tác đào tạo nghề.
Phát huy vai trò người đứng đầu, trách nhiệm, năng lực của các cấp, các ngành, xử lý kịp thời những khó khăn, phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Chú trọng phát triển kinh tế đi đôi với phát triển VH, XH, thực hiện các chính sách hỗ trợ của nhà nước, kịp thời chăm lo đời sống nhân dân các vùng sâu, vùng xa, vùng có khó khăn.
* Nguyên nhân tồn tại
Xuất phát điển kinh tế của tỉnh thấp, hạ tầng đầu tư chưa đồng bộ, các địa phương ở vùng miền núi, bãi ngang còn nhiều khó khăn.
Ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt là giá cả tăng mạnh do lạm phát đã tác động toàn diện trên các mặt KT-XH trong tỉnh.
Chỉ đạo của một số địa phương, các cơ quan quản lý nhà nước chưa quyết liệt, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức chưa cao.
Tư tưởng bao cấp, trong chờ, ỷ lại vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi./.
Website Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Bình