I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Tình hình thế giới
Trong 4 tháng đầu năm 2010, nền kinh tế thế giới đã và đang có những bước phục hồi vững chắc hơn so với kỳ vọng, đặc biệt phải kể đến những dấu hiệu lạc quan từ các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản cũng như sự đi lên mạnh hơn dự báo ban đầu của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Điều đó cho thấy chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ các nước đã phát huy tác dụng tích cực. Mặc dù vậy, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, kinh tế thế giới vẫn chưa thoát ra khỏi khủng hoảng và vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Tại châu Âu, cơn bão khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và nguy cơ tương tự với một số nước thành viên đã khiến cho kinh tế EU phục hồi không như mong muốn, thậm chí IMF mới đây trong khi nâng dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới lên 4,1% trong năm 2010 lại hạ dự báo chỉ số này ở khu vực đồng Euro còn 1,5% (thấp hơn 0,1% so với dự báo tháng 1/2010). Không những vậy, cuộc khủng hoảng này còn khiến cho thị trường ngoại tệ, vàng, và dầu thô (vốn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau) diễn biến hết sức phức tạp, gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
2. Tình hình trong nước
Cùng với đà phục hồi của nền kinh tế thế giới, kinh tế nước ta đã có những dấu hiệu tăng trưởng khá từ cuối năm 2009. Tính tới hết quý I/2010, tốc độ tăng GDP của nước ta đạt kết quả khá khả quan, tăng 5,83% so với cùng kỳ năm 2009. Như vậy, so với mức tăng trưởng GDP quý I/2009 ở mức 3,1% thì GDP quý I/2010 đã tăng đáng kể và cũng cao hơn GDP quý II/2009 (4,46%), nhưng thấp hơn tăng trưởng GDP quý III/2009 (6,04%), quý IV/2009 (6,9%). Theo quy luật nhiều năm qua, quý đầu năm thường có tốc độ tăng GDP thấp hơn so với cuối năm, do đó chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng GDP năm 2010 đạt 6,5% là rất khả quan. Đóng góp nhiều nhất vào mức tăng GDP của quý đầu năm 2010 là khu vực dịch vụ (tăng 6,64%); tiếp theo là công nghiệp và xây dựng (5,65%) và nông, lâm, ngư nghiệp (3,45%).
Mặc dù vậy, cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, kinh tế nước ta cũng sẽ chịu nhiều tác động từ những khó khăn chung của kinh tế toàn cầu. Các diễn biến phức tạp của thị trường hàng hóa thế giới, đặc biệt là thị trường ngoại tệ, vàng, dầu thô, nguyên liệu sản xuất công nghiệp… sẽ có tác động lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh và thị trường hàng hóa trong nước; thêm vào đó là những khó khăn nội tại của nền kinh tế, đòi hỏi trong thời gian tới cần có sự nỗ lực trong công tác điều hành kinh tế vĩ mô, cũng như sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng của các cơ quan quản lý nhà nước nhằm tháo gỡ kịp thời những vấn đề phát sinh, đảm bảo được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong năm 2010.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 4 VÀ 4 THÁNG ĐẦU NĂM 2010
1. Tình hình phát triển ngành du lịch
Tháng 4/2010 hoạt động du lịch đã sôi động ngay từ ngày đầu tháng do thời gian này là tháng khởi động chuẩn bị bước vào mùa nghỉ hè trên cả nước. Nhiều hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch đã được tổ chức ở nhiều nơi như: Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội chợ nổi Cái Bè, Lễ hội Phủ Giầy, Lễ hội truyền thống Hoa Lư, Festival Bắc Ninh,…
Một số chính sách tích cực nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước như: giá phòng khách sạn cao cấp trên địa bàn Hà Nội đã giảm so với cùng kỳ năm ngoái, một số chặng bay nội địa đã được Vietnam Airlines áp dụng chương trình khuyến mại giảm giá vé….
Cũng trong tháng 4/2010, Hà Nội đã tổ chức sự kiện quan trọng đón nhận Bằng công nhận hai di sản Ca Trù và Quan Họ của UNESCO, đây là sự kiện tăng cường quảng bá hình ảnh du lịch văn hoá của Việt Nam. Những hoạt động này góp phần thu hút một lượng du khách lớn trong và ngoài nước đến tham quan.
Với dịp nghỉ lễ Giỗ tổ Hùng Vương và 30/4-1/5 kéo dài, góp phần làm sôi động thị trường Tour du lịch trong và ngoài nước ngay từ đầu tháng 4. Trung bình giá Tour tăng từ 20 - 30% một phần do giá xăng dầu, phương tiện vận chuyển và một số dịch vụ liên quan tăng. Đối với các Tour du lịch đi Hạ Long, Sapa, Cửa Lò, Nha Trang, Đà Lạt, Phan Thiết,….số lượng khách du lịch trong nước và quốc tế đăng ký tăng gấp đôi ngày thường, đến giữa tháng 4 hầu như các Tour này đã bị "cháy". Nhiều Tour chất lượng cao đi Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Malaysia cũng đã bị "cháy" cụ thể vé máy bay đi các nước trên hầu như đã kín hết chỗ trong dịp này.
Trong dịp nghỉ lễ, số lượng khách du lịch Việt Nam đi du lịch nước ngoài khá lớn, đặc biệt là ở hai thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Công tác tổ chức đón khách quốc tế cũng như việc đưa khách Việt Nam đi du lịch trong nước, nước ngoài được thực hiện tốt với sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan nhà nước và nhân dân.Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 4 ước đạt khoảng 420 nghìn lượt khách, tăng 37% so với cùng kỳ năm trước, lượng khách du lịch quốc tế trong 4 tháng đầu năm khoảng 1,7 triệu lượt khách, tăng 29% so với cùng kỳ năm ngoái.
Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 4 tháng đầu năm chủ yếu từ một số thị trường như: Trung Quốc tăng 40%, Hàn Quốc tăng 30%, Nhật Bản tăng 15%, Đài Loan tăng 25%, Úc tăng 24%, Campuchia tăng 40%, Pháp tăng 15%, Thái Lan tăng 40%, Malaysia tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái.
Xét theo phương tiện đi lại, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam bằng đường hàng không tăng 30%, đường bộ tăng 15%. Xét theo mục đích chuyến đi của khách du lịch, khách du lịch theo mục đích nghỉ ngơi tăng 40%, khách du lịch theo công việc giảm 40%, khách đi du lịch thăm thân nhân tăng 4%.
(Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ)
Trong dịp này công suất sử dụng phòng đạt mức cao trên 70%, nhiều khách sạn cao cấp xếp hạng 4-5 sao tại các trung tâm du lịch như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Nha Trang... đạt công suất 80-90%.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
2.1. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 4 năm 2010 đạt 5,7 tỷ USD, tăng 1,9% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 2,65 tỷ USD.
4 tháng đầu năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 20,16 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 9,5 tỷ USD, tăng 44,2%.
Xuất khẩu của một số mặt hàng chủ yếu so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt 2,9 triệu tấn, giảm 47,2% về lượng và 9,3% về kim ngạch; than đá 6,8 triệu tấn, giảm 11,7% về lượng và tăng 27,6% về kim ngạch; dệt may 3044 triệu USD, tăng 19%; da giày 1356 triệu USD, tăng 5,7%; sản phẩm gỗ 1007 triệu USD, tăng 31,6%; linh kiện điện tử 985 triệu USD, tăng 39,1%; thuỷ sản 1275 triệu USD, tăng 20,3%; gạo 2093 nghìn tấn, giảm 15,8% về lượng và giảm 3% về kim ngạch; cà phê 475 ngàn tấn, giảm 16,1% về lượng và 22,7% về kim ngạch, sắn và sản phẩm sắn giảm 52,4% về lượng và 12,7% về kim ngạch ... Như vậy, đến hết tháng 4/2010, ước tính đã có khoảng 6 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD là dệt may, dầu thô, giày dép, thủy sản, gạo, gỗ và sản phẩm gỗ.
Kinh tế thế giới phục hồi sau khủng hoảng làm giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu được cải thiện đã góp phần vào sự tăng trưởng xuất khẩu của 4 tháng đầu năm: giá hạt điều tăng 16,3%, chè các loại tăng 5,5%, hạt tiêu tăng 28,7%, gạo tăng 15,2%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 83,4%, than đá tăng 44,9%, dầu thô tăng 72,1%, cao su tăng 96,5%. Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 1,45 tỷ USD.
Các thị trường xuất khẩu chủ yếu trong 4 tháng đầu năm là Mỹ (chiếm tỷ trọng ước đạt 20%), EU (16%), ASEAN (17,5%), Nhật Bản (13%) và Trung Quốc (10%).
2.2. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 4 năm 2010 ước đạt 6,95 tỷ USD, tăng 3% so với tháng trước. Nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 2,95 tỷ USD.
4 tháng đầu năm 2010, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 24,8 tỷ USD, tăng 35,6% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt gần 10,25 tỷ USD, tăng 55,6%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 4 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm 2009 như sau: xăng dầu 3493 nghìn tấn, giảm 23,2% về lượng và tăng 19,7% về kim ngạch; thép các loại 2554 nghìn tấn, tăng 18,1% về lượng và tăng 29,2% về kim ngạch; phân bón 1123 nghìn tấn, giảm 30,8% về lượng và giảm 32,4% về kim ngạch; giấy các loại 287 nghìn tấn, tăng 8,7% về lượng và tăng 34,6% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 693 nghìn tấn, tăng 7,6% về lượng nhưng tăng tới 55,5% về kim ngạch, máy móc thiết bị 4010 triệu USD, tăng 14,8%, máy tính và linh kiện 1357 triệu USD, tăng 43,8%...
Cũng như xuất khẩu, giá cả nhiều mặt hàng trên thị trường tăng mạnh so với cùng kỳ là một trong những nguyên nhân khiến kim ngạch nhập khẩu tăng cao. Giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu so với cùng kỳ năm trước như: giá xăng dầu các loại tăng 55,8%, khí đốt hóa lỏng tăng 50,8%, chất dẻo nguyên liệu tăng 45,5%, sợi các loại tăng 34,3%, phôi thép tăng 19,7%, kim loại thường tăng 56%... Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này khiến kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng hơn 1,8 tỷ USD.
Các thị trường nhập khẩu chủ yếu 4 tháng đầu năm 2009 là Trung Quốc (tỷ trọng ước đạt 27%), ASEAN (20%), Hàn Quốc (12,5%), Nhật Bản (12,5%) và EU (8,5%).
Giá trị nhập siêu 4 tháng đầu năm 2010 ước đạt 4,65 tỷ USD, chiếm khoảng 23,1% kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, nhập siêu từ Trung Quốc chiếm khoảng 75% tổng nhập siêu của cả nước.
2.3. Đánh giá chung về xuất nhập khẩu hàng hóa
- Xuất nhập khẩu trong khu vực FDI tăng trưởng mạnh, kim ngạch xuất khẩu 4 tháng đầu năm của các doanh nghiệp FDI (không kể dầu thô) chiếm 47% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu 4 tháng đầu năm của các doanh nghiệp FDI chiếm 41,3% tổng kim ngạch nhập khẩu.
- Kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng công nghiệp phục hồi và có dấu hiệu tăng trưởng mạnh như: dây điện và dây cáp điện, máy móc thiết bị phụ tùng, máy tính linh kiện điện tử, hóa chất, hàng dệt may, sắt thép các loại...
- Giá cả nhiều mặt hàng 4 tháng đầu năm 2010 có xu hướng tăng góp phần làm tăng cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu.
- Trái ngược với diễn biến của năm 2009, lượng xuất khẩu các mặt hàng nông sản 4 tháng đầu năm 2010 giảm hoặc chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng 4 mặt hàng gạo, cà phê, than đá, dầu thô, lượng xuất khẩu giảm đã làm cho kim ngạch giảm 1,3 tỷ USD.
- Nhập siêu vẫn chủ yếu từ các thị trường ở khu vực Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Còn đối với nền kinh tế phát triển khác như Mỹ, Úc và EU, Việt Nam lại đạt được mức thặng dư khá cao.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Dự kiến tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 4/2010 đạt khoảng 124.897 tỷ đồng, tăng 1,9% so với tháng 3/2010. Như vậy sau 4 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hoá cả nước ước đạt 493.517 tỷ đồng, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong các thành phần kinh tế tham gia thị trường, thành phần kinh tế cá thể vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 52,74%, tiếp đó là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước với tỷ trọng tương ứng là 33,78% và 9,49%. Giá trị đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,00%, trong khi khu vực kinh tế tập thể chỉ là 0,99%.
Xét theo ngành kinh doanh thì kinh doanh thương nghiệp đạt 98.179 tỷ đồng, tăng 1,7%; khách sạn, nhà hàng đạt 13.918 tỷ đồng, tăng 3,2%; dịch vụ đạt 11.450 tỷ đồng, tăng 1,3%; đặc biệt doanh thu ngành du lịch đạt 5.127 tỷ đồng, tăng 10,1%. (Giá trị so sánh với tháng 3/2010).
(Theo số liệu của Tổng cục Thống kê)
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Do không còn chịu ảnh hưởng từ đợt tăng giá dịp Tết Nguyên đán, tháng 3/2010, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chỉ tăng nhẹ ở mức 0,75%. Tiếp tục chiều hướng đó, trong những ngày đầu quý II, hầu hết các nhóm hàng hóa trên thị trường không có biến động đáng kể.
Dự báo chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2010 chỉ tăng nhẹ, so với tháng 3/2010, CPI tháng 4/2010 tăng khoảng 0,14%.
Trong tháng 4/2010, có hai nhóm hàng giảm nhẹ so với tháng trước gồm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,63%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,06%. Ngoại trừ nhóm hàng nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng có CPI tăng khá mạnh là 2,51%, các nhóm hàng còn lại đều chỉ tăng nhẹ, dao động từ 0,12% đến 0,46%.
Mặc dù CPI tháng 4 chỉ tăng nhẹ so với tháng 3, tuy nhiên cũng đã đưa CPI 4 tháng đầu năm 2010 tăng 8,69% so với cùng kỳ năm 2009. Do vậy, trong những tháng tiếp theo, để đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng và đặc biệt là mục tiêu kìm lạm phát dưới 7%, đòi hỏi cần tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp điều hành giá cả hợp lý, góp phần bình ổn thị trường.
(Theo số liệu của Tổng cục thống kê)
3.3. Tình hình cung – cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
3.3.1. Xăng dầu
Giá dầu thô tháng 4/2010 tiếp tục có những diễn biến phức tạp do tác động từ nhiều yếu tố. Hồi đầu tháng, giá dầu thô trên thị trường thế giới liên tiếp tăng và đạt kỉ lục 86,73 USD với giá dầu giao tháng 5 tại thị trường New York và giá dầu Brent tại London đạt 85,88 USD, mức cao nhất trong 18 tháng qua nhờ những thông tin tốt từ sự hồi phục của nền kinh tế Mỹ. Mặc dù vậy, tình từ hồi giữa tháng, giá dầu thô liên tiếp sụt giảm về mức 82,25 USD/thùng do lo ngại cầu tiêu thụ yếu, cũng như hoạt động hàng không ngưng trệ vì núi lửa châu Âu khiến nhu cầu nhiên liệu máy bay giảm mạnh. Tính tới hết ngày 20/4/2010, giá dầu thô ngọt nhẹ giao tháng 5 tại New York đóng cửa ở mức 83,45USD/thùng, dầu Brent tại London giao tháng 6 đạt 84,80 USD/thùng. Theo các chuyên gia phân tích, với điều kiện của kinh tế thế giới hiện tại và viễn cảnh lạc quan của thị trường, giá dầu sẽ tiếp tục dao động trong biên độ 70 đến 80 USD thêm nhiều tháng nữa.
Về công tác điều hành thị trường trong nước, nhằm giảm sức ép tăng đối với giá bán lẻ xăng dầu, Bộ Tài chính vừa ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng, theo đó thuế nhập khẩu xăng giảm 3%, thuế nhập khẩu các mặt hàng dầu hỏa, diezel giảm 5%, kể từ ngày 21/4. Ngoài ra, trong tháng 4, thực hiện chỉ đạo về kiềm chế lạm phát và bình ổn giá một số mặt hàng thiết yếu, trong đó có xăng dầu, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu chưa được phép điều chỉnh tăng giá bán lẻ xăng dầu, do vậy giá xăng dầu các loại vẫn được duy trì ở mức: xăng A92 16.990 đồng/lít, xăng A95 17.490 đồng/lít, diasel 0,25S 14.850 đồng/lít, diasel 0,5S 14.900 đồng/lít, mazut 3,5S 13.300 đồng/lít, mazut 0,3S 13.600 đồng/lít và dầu hỏa 15.500 đồng/lít.
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Hải quan, lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 4/2010 ước thực hiện đạt 900 nghìn tấn, giảm 3,3% so với tháng 3/2010. Tính cho cả 4 tháng đầu năm 2010, lượng xăng dầu các loại nhập khẩu của nước ta ước thực hiện đạt 3493 nghìn tấn, giảm 23,2% so với cùng kỳ năm 2009 và đạt 30,1% kế hoạch năm 2010. Lượng xuất khẩu dầu thô tháng 4/2010 ước thực hiện đạt 650 nghìn tấn, bằng 73,4% so với tháng 3,4 tháng đầu năm 2010 ước đạt 2888 nghìn tấn, giảm 47,2 % so với cùng kỳ năm 2009, và đạt 31,7% kế hoạch năm 2010.
3.3.2. Sắt thép
Thị trường sắt thép trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2010 có nhiều biến động, đặc biệt là về giá cả. Kinh tế thế giới hồi phục mạnh mẽ từ nửa cuối 2009 và đầu 2010 đã thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ thép, cùng với sự khan hiếm nguồn nguyên liệu luyện kim đã làm giá nguyên liệu và sản phẩm thép thế giới tăng cao trong thời gian qua (tăng từ 50-100% so với cùng kỳ 2009, riêng trong 3 tháng đầu năm 2010 giá đã tăng từ 20 - 30%). Cụ thể, từ ngày 1/4, nhà cung cấp quặng sắt lớn nhất thế giới là Australia đã tuyên bố sẽ tăng giá quặng từ 40% - 50% (từ hơn 80 USD lên 140 - 150 USD/tấn) so với năm 2009. Đồng thời, giá than mỡ nhập khẩu cũng tăng hơn 80%, giá gang luyện thép cũng tăng cao. Theo dự báo, sang quý II/2010, giá nguyên liệu thép trên thế giới tiếp tục tăng do tác động của chi phí đầu vào và nhu cầu sử dụng thép có xu hướng tăng mạnh trở lại.
Tại thị trường trong nước:
Thị trường thép trong nước tháng 4/2010 nóng từng ngày, giá thép trong nước tại các cửa hàng vật liệu xây dựng thay đổi từng ngày, thậm chí trong ngày. Sau 6 đợt điều chỉnh tăng giá thép từ tháng 3, từ đầu tháng 4 tới nay, các công ty thép đã tăng giá bán 2 lần với mức 500.000 đồng/tấn và 100.000 đồng/tấn. Một mặt, do kinh tế phục hồi và hiện đang bước vào thời kỳ cao điểm của mùa xây dựng, nên nhu cầu thép trong nước tăng mạnh; mặt khác, do tác động của giá nguyên liệu thép thế giới liên tục tăng, khiến cho chi phí sản xuất của các doanh nghiệp tăng lên.Tuy nhiên, ngoài những lí do trên, có thể nói, giá thép tăng nhanh và sự “méo mó” của thị trường thép trong nước còn bởi đã xuất hiện hiện tượng “găm” hàng chờ tăng giá của nhiều doanh nghiệp kinh doanh thép, cũng như hiện tượng “tát nước theo mưa” gây ra nhiều thiệt hại cho người tiêu dùng.
Hiện giá thép cuộn của Tổng công ty thép Việt Nam (VNSteel) ở khu vực phía Nam tại các nhà máy lên 13,77 triệu đồng/tấn, thép cây lên 13,87 triệu đồng/tấn, thép thanh định hình cũng lên đến 14,12 triệu đồng/tấn (chưa bao gồm VAT), tăng khoảng 500.000 đồng/tấn so với cuối tháng 3. Giá thép các loại như Thép Miền Nam, Pomina, VinaKyoel được các đại lý bán lẻ thông báo khoảng 15,2 triệu đồng/tấn.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng Cục hải quan, sản lượng thép nhập khẩu tháng 4 ước đạt 800 nghìn tấn với trị giá 510 nghìn USD, tăng 19,2% so với tháng 3/2010; tính cả 4 tháng đầu năm ước đạt 2554 nghìn tấn với trị giá 1629 nghìn USD, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2009.
3.3.3. Xi măng
Xi măng cũng là mặt hàng vật liệu xây dựng có biến động giá cả trong thời gian qua, tuy nhiên giá xi măng chỉ tăng nhẹ, mặc dù đã bước vào cao điểm mùa xây dựng. Tính từ đầu tháng 4 tới nay, giá xi măng tăng khoảng 5%, tương đương 50.000 - 70.000 đồng/tấn so với tháng 3.
Trong quý I, tổng sản lượng sản xuất xi măng của toàn ngành ước khoảng 10 triệu tấn (bằng khoảng 20% kế hoạch năm), trong đó của Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam 3,4 triệu tấn. Sang đến quý II/2010, do có thêm một số dây chuyền sản xuất xi măng sẽ đi vào hoạt động, ước tính lượng xi măng sản xuất sẽ đạt khoảng 12,5 triệu tấn, tăng 8,7% so với quý I/2010. Năm 2010 ước tính cung vượt cầu khoảng 5 triệu tấn (mặc dù các nhà máy vẫn chưa hoạt động hết công suất); bên cạnh đó lượng xi măng và clinker tồn kho của năm 2009 còn khá lớn, do đó giá cả trên thị trường xi măng năm 2010 sẽ không có biến động mạnh. Hiện, tại thị trường phía Bắc, giá các loại xi măng tăng lên mức từ 890.000 đến 1.120.000 đồng/tấn, giá bán xi măng ở miền Nam cao hơn ở miền Bắc do sự bất cân đối cung - cầu về vùng miền.
3.3.4. Phân bón
Trong tháng 4, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 180 nghìn tấn với trị giá 55 triệu USD (trong đó phân ure là 35 nghìn tấn và trị giá 10 triệu USD), giảm 7,7% so với tháng 3/2010; tính cả 4 tháng đầu 2010, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 1123 nghìn tấn với trị giá 348 triệu USD (trong đó phân ure ước đạt 340 nghìn tấn, trị giá 106 triệu USD), giảm 30,5% so với cùng kỳ năm 2009 và đạt 31,2% kế hoạch năm 2010. Cũng trong tháng 4/2010, sẽ có thêm khoảng 85.000 tấn ure từ sản xuất trong nước. Như vậy, để chuẩn bị cho vụ hè thu, nước ta sẽ có khoảng 661.000 tấn ure, 128.000 tấn DAP, 190.000 tấn kali, 250.000 tấn super lân, 100.000 tấn lân nung chảy, 1.300.000 tấn NPK, 30.000 tấn phân vi sinh, phân hữu cơ...
Với lượng phân bón khá lớn như vậy được dự báo sẽ đủ cung cấp cho vụ lúa hè thu, song theo các chuyên gia, nhiều khả năng giá phân bón vẫn tăng bởi do tác động của nhiều yếu tố như tăng giá xăng dầu, điện, than.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2010
1. Về phát triển ngành du lịch
- Tăng cường quảng bá xúc tiến du lịch, Việt Nam là một điểm đến an toàn thân thiện đối với bạn bè quốc tế cần đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: CNN, BBC, Discovery,....
- Hiện tại, Thái Lan đang rơi vào khủng hoảng chính trị, đây là cơ hội lớn cho Việt Nam để đón khách du lịch quốc tế đến khu vực Đông Nam Á. Như vậy, để thu hút được khách du lịch trong thời gian tới Việt Nam cần thực hiện nhiều chương trình khuyến mại giảm giá đối với các Tour du lịch, vấn đề này cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan như: vận tải hàng không, hàng hải, khách sạn nhà hàng,....
- Xu hướng khách du lịch bằng đường biển đến Việt Nam ngày càng tăng, khách du lịch bằng đường biển thường là khách có mức chi tiêu cao, do đó cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đặc biệt đối với các đối tượng khách du lịch này về visa, thời gian lưu trú trên bờ, khoảng cách được phép đi sâu vào nội địa,.....
- Cải cách các chính sách về xuất nhập cảnh, thủ tục xe ô tô du lịch qua biên giới cần thông thoáng hơn nữa để thúc đẩy phát triển mạnh khách du lịch thông qua con đường này.
2. Các giải pháp kiến nghị để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu
Bên cạnh việc khẩn trương triển khai các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu được chỉ đạo tại Công văn số 2600/TTg-KTTH của Thủ tướng Chính phủ ngày 30 tháng 12 năm 2009 về việc đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu và Nghị quyết số 18/NQ-CP của Chính phủ ngày 06 tháng 4 năm 2010 về những giải pháp đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010, cần tập trung thực hiện thêm một số giải pháp sau đây:
- Đẩy mạnh kiểm tra việc nhập khẩu các nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn hoặc tăng mạnh trong thời gian gần đây mà trong nước đã sản xuất được và có dấu hiệu dư thừa như sắt thép các loại, phân bón, một số loại máy móc thiết bị phụ tùng. Việc kiểm tra nên tập trung vào các vấn đề như gian lận thương mại, gian lận thuế và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
- Với các quốc gia Việt Nam có thâm hụt lớn trong quan hệ thương mại như Trung Quốc, Đài Loan và 1 số quốc gia ở Châu Á khác, cần có giải pháp riêng để hạn chế nhập khẩu tùy thuộc vào đặc trưng trong thương mại buôn bán giữa Việt Nam và quốc gia đó.
- Rà soát các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã ký kết và cẩn trọng trong việc đẩy mạnh đàm phán ký kết các Hiệp định mới. Các Hiệp định thương mại quốc tế một mặt tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho hàng Việt Nam, mặt khác cũng gây nguy cơ nhập siêu nếu không đàm phán chặt chẽ.
- Chất lượng còn yếu kém của các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu như vận tải, bảo hiểm, logistic ở Việt Nam hiện nay đang gây hạn chế cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Đây là vấn đề cần được tập trung cải thiện trong thời gian trước mắt.
- Bên cạnh những giải pháp ngắn và trung hạn nêu trên, những giải pháp dài hạn hơn như phát triển nguồn nhân lực (có chính sách phát triển nguồn nhân lực trong những ngành cụ thể, có thế mạnh), phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ... cần được tập trung triển khai ngay trên thực tế.
3. Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
3.1.1.Nâng cao hiệu quả điều hành vĩ mô thị trường
- Xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các Bộ, ngành trong việc cung cấp, tổng hợp, xử lý thông tin về thị trường, ngành hàng.
- Theo dõi sát sao diễn biến của thị trường thế giới cũng như thị trường trong nước để có các chính sách chỉ đạo, điều hành kịp thời, nhằm cân đối cung – cầu hàng hóa, bình ổn giá các mặt hàng trọng yếu như xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, các nguyên vật liệu sản xuất, nhằm ngăn ngừa nguy cơ tăng giá hàng hóa.
- Tăng cường công tác kiểm tra thị trường nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hiện tượng niêm yết không đúng giá bán, găm hàng, kìm hàng, hiện tượng “tát nước theo mưa” gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
3.1.2. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách
- Rà soát và hoàn thiện Quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại, trong đó ưu tiên chú trọng chính sách phát triển các loại hình thương mại hiện đại, đặc biệt là thương mại điện tử.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến lĩnh vực thương mại, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điểu kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn đảm bảo tạo ra hành lang pháp lý đủ mạnh và hiệu quả, nâng cao năng lực quản lý, điều hành vĩ mô thị trường của Nhà nước.
3.1.3. Thực hiện linh hoạt các giải pháp khuyến khích tiêu dùng nội địa
- Thực hiện các chính sách hỗ trợ hợp lý cho các doanh nghiệp nhằm hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm hướng về người tiêu dùng trong nước. Ngoài ra, cần tiếp tục thực hiện và nhân rộng chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, kết hợp với các chương trình giảm giá, khuyến mại hợp lý nhằm kích cầu tiêu dùng nội địa.
- Đẩy mạnh chương trình xây dựng thương hiệu quốc gia, tăng cường tổ chức các hội chợ, triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao.
- Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, một mặt đáp ứng nhu cầu hàng hóa của nhân dân, mặt khác cũng kích thích được tiêu dùng hàng hóa sản xuất trong nước.
3.2. Đối với các mặt hàng trọng yếu
3.2.1. Xăng dầu
- Tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ hệ thống phân phối xăng dầu tại các khu vực nhằm đảm bảo bình ổn thị trường cung – cầu, giá cả.
- Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Tài chính tăng cường giám sát, đảm bảo việc điều chỉnh giá xăng dầu và điều tiết Quỹ bình ổn giá theo đúng quy định của Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu.
- Tổng công ty xăng dầu Việt Nam và các đơn vị được phép nhập khẩu xăng dầu cần theo dõi sát sao diễn biến của thị trường dầu thô, xăng, dầu hỏa thế giới nhằm xây dựng chiến lược nhập khẩu linh hoạt, góp phần ổn định giá xăng dầu trong nước.
3.2.2. Sắt thép
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ thị trường nhằm phát hiện, xử lý nghiêm và kịp thời các hiện tượng đầu cơ tích trữ, gian lận thương mại, không để giá thép tăng đột biến, gây méo mó thị trường làm tổn hại đến quyền lợi của người tiêu dùng.
- Rà soát các dự án thép hiện đang bị chậm tiến độ, tháo gỡ các khó khăn nhằm đẩy nhanh các dự án đã được phê duyệt nhằm đảm bảo nguồn cung; có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư sản xuất phôi thép nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, từ đó chủ động được trong giá bán.
- Đề xuất Chính phủ có các giải pháp hữu hiệu về tài chính (đáp ứng nhu cầu về vốn, về ngoại tệ, về tỷ giá…) để các công ty thép tiếp tục triển khai các dự án đầu tư, có đủ vốn và ngoại tệ trong sản xuất và kinh doanh. Ngoài ra, còn giúp các doanh nghiệp giảm rủi ro về tỷ giá trong nhập khẩu nguyên liệu sản xuất, góp phần bình ổn giá bán thép thành phẩm.
3.3.3. Xi măng
- Kiểm soát chặt chẽ hệ thống phân phối, đảm bảo cung ứng đủ, đúng đối tượng, đúng giá bán.
- Điều tiết tốt lượng clinker và xi măng giữa hai miền Nam – Bắc, đảm bảo cân bằng cung – cầu ở các khu vực, không để xảy ra tình trạng sốt giá cục bộ.
3.3.4. Phân bón
-Theo dõi chặt chẽ giá dầu thế giới, dự báo khả năng tác động tới giá phân bón, để có biện pháp điều hành kịp thời.
- Đảm bảo sản xuất kết hợp với nhập khẩu hợp lý nhằm đảm bảo cân đối cung – cầu. Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng giữa các vùng, miền được thông suốt.
- Tiếp tục rà soát, kiện toàn hệ thống cung ứng, phân phối phân bón tại các địa phương, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm./.
File đính kèm: BaocaoKTDVT4.10.pdf
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư