Báo cáo của Vụ Kinh tế nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư 25/5/2011
1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào chăm sóc lúa đông xuân ở các địa phương phía Bắc và thu hoạch lúa đông xuân, xuống giống lúa hè thu ở các địa phương phía Nam.
Tính đến trung tuần tháng Năm, các địa phương phía Bắc đã kết thúc gieo trồng lúa đông xuân, diện tích gieo trồng ước tính toàn vùng đạt 1149,8 nghìn ha, bằng 100,2% vụ đông xuân năm 2010. Từ nửa cuối tháng Tư trở đi, thời tiết nóng dần kết hợp với mưa đã tạo thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây lúa, nhất là đối với trà lúa trong giai đoạn làm đòng, trổ bông. Sâu bệnh trên cây lúa phát sinh rải rác ở các địa phương nhưng mức độ ảnh hưởng đến cây trồng không lớn. Tính đến giữa tháng Năm, toàn miền Bắc có 68,5 nghìn ha lúa bị nhiễm sâu bệnh, chủ yếu là bệnh khô vằn (gần 55 nghìn ha) và bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá (hơn 10,5 nghìn ha). Các địa phương cần tích cực phun thuốc phòng trừ sâu bệnh để ngăn chặn sự lây lan trên diện rộng, đồng thời theo dõi sát diễn biến của dịch bệnh để kịp thời có biện pháp phòng trừ hiệu quả nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng của dịch bệnh đến kết quả sản xuất. Theo đánh giá ban đầu của các địa phương phía Bắc, nếu tình hình sâu bệnh không diễn biến phức tạp, năng suất lúa đông xuân toàn miền Bắc ước 58,6 tạ/ha, bằng 98,5% so vụ đông xuân năm trước.
Tính đến 15/5, các địa phương phía Nam thu hoạch 1.825,7 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 94,1% diện tích gieo cấy và bằng 95,1% cùng kỳ năm trước; Theo báo cáo ước tính, năng suất lúa đông xuân của các tỉnh phía Nam đạt 64,5 tạ/ha, bằng 100,9% so cùng kỳ năm trước, sản lượng đạt 12,53 triệu tấn. Các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch xong lúa đông xuân, năng suất ước tính đạt 66,9 tạ/ha, bằng 101,9%, sản lượng đạt 10,5 triệu tấn, tăng 219 nghìn tấn (+ 2,1%) so cùng kỳ
Cùng với việc thu hoạch lúa đông xuân, các địa phương phía Nam đang tập trung gieo sạ lúa hè thu. Tính đến trung tuần tháng Năm, diện tích lúa hè thu gieo sạ đạt 1199,2 nghìn ha, bằng 95,3% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1123,5 nghìn ha, tăng 0,6% so cùng kỳ năm 2010.
Tính đến trung tuần tháng Năm, diện tích gieo trồng ngô cả nước đạt 709,4 nghìn ha, bằng 100,4% cùng kỳ năm trước; khoai lang 99,8 nghìn ha, bằng 97,5%; lạc 176,5 nghìn ha, bằng 99,3%; đậu tương 132,1 nghìn ha, bằng 93,7%; rau đậu các loại 532,0 nghìn ha, bằng 104,6%.
b. Chăn nuôi
Theo kết quả điều tra, tại thời điểm 01/4/2011 đàn lợn cả nước hiện có 26,3 triệu con, giảm 3,8% so cùng kỳ năm trước (- 1 triệu con). Đàn trâu, bò ước tính đều giảm nhẹ so cùng kỳ. Đàn gia cầm: Theo kết quả điều tra, tại thời điểm 1/4/2011 đàn gia cầm cả nước tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước (+16.3 triệu con), trong đó đàn gà tăng 5,3% (+10,7 triệu con).
2. Lâm nghiệp
Trong tháng các địa phương thuộc khu vực Bắc bộ và Trung bộ đang tích cực triển khai thực hiện công tác trồng rừng tập trung, do thời tiết đã có mưa, lượng mưa tương đối lớn nên rất thuận lợi cho công tác lâm sinh, đảm bảo tiến độ trồng rừng theo kế hoạch, những diện tích rừng đã trồng phát triển tốt. Khu vực Tây Nguyên và Nam bộ vẫn còn hạn hán, mặt khác về thời vụ trồng rừng cũng chậm hơn nên hiện đang tập trung chăm sóc cây giống, xử lý thực bì, cuốc hố… chuẩn bị cho vụ trồng rừng từ tháng 6.
Tình hình khai thác lâm sản cũng có thuận lợi, giá một số loại lâm sản chủ yếu khá cao như gỗ nguyên liệu giấy có nơi tăng trên 10% nên nhiều chủ rừng đã tăng sản lượng khai thác gỗ rừng trồng. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu tháng 5 đạt được như sau: Diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 12 nghìn ha; Số cây trồng phân tán 13,2 triệu cây; Sản lượng gỗ các loại khai thác 346 nghìn m3; Sản lượng củi khai thác 2,58 triệu ste.
Tính chung 5 tháng đầu năm diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 45,1 nghìn ha, so cùng kỳ năm 2010 chỉ bằng 91,85% (do những tháng đầu năm tình hình khô hạn kéo dài nên đã ảnh hưởng đến tiến độ trồng rừng chung); số cây trồng phân tán 90,7 triệu cây, tăng 1,45%; sản lượng gỗ khai thác 1 656,5 nghìn m3, tăng 11,85%.
Tình hình thiệt hại rừng
Các địa phương Bắc bộ và Trung bộ đã có mưa nên nguy cơ cháy rừng đã giảm so với những tháng đầu năm. Khu vực Tây Nguyên và Nam bộ vẫn còn đang khô hạn và nắng nóng, một số tỉnh còn nguy cơ cháy rừng cao. Trong kỳ diện tích rừng bị thiệt hại là 240,7 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy 148,1 ha, diện tích rừng bị phá 92,1 ha. Tính chung 5 tháng đầu năm diện tích rừng thiệt hại 354,9 ha, bằng10,4% so cùng kỳ năm 2010. Trong đó diện tích rừng bị cháy 200,4 ha (bằng 6,49%), một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy tương đối lớn như Bắc Giang 38,5 ha, Kon Tum 158,3 ha…; diện tích rừng bị chặt phá 154,5 ha bằng 47,1%.
3. Thủy sản
Tổng sản lượng thuỷ sản tháng 5 ước đạt 493 nghìn tấn, tăng 3,9%, trong đó sản lượng cá đạt 406 nghìn tấn, tăng 4%; sản lượng tôm đạt 34,5 nghìn tấn, tăng 4,5%.
a. Nuôi trồng thuỷ sản
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước đạt 284 nghìn tấn, tăng 5,9% so cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng cá đạt 247 nghìn tấn, tăng 5,2%; sản lượng tôm đạt 25,5 nghìn tấn, tăng 5,4%.
Do khan hiếm nguồn nguyên liệu chế biến, giá cá tra nguyên liệu liên tục tăng cao trong thời gian qua, đạt tới 29.000đ/kg vào trung tuần tháng 5, người nuôi có có lãi đến 8.000đ/kg, là mức cao kỷ lục so với trước đó. Tuy nhiên diện tích nuôi cá tra chỉ tăng chút ít so với thời điềm cuối năm 2010 vì hiện tại người nuôi cũng như doanh nghiệp xuất khẩu đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức như thiếu vốn, chi phí đầu vào tăng cao, cùng với những quy định ngày càng chặt chẽ của các thị trường nhập khẩu.
Mặc dù nuôi tôm được kiểm soát chặt chẽ đảm bảo chất lượng con giống và thời điểm thả nuôi nhưng tình trạng tôm nuôi bị dịch vẫn lan rộng ở nhiều địa phương, nguyên nhân chủ yếu là do thời tiết nắng nóng cùng mưa đầu mùa làm cho nhiệt độ và độ mặn thay đổi. Một số tỉnh bị dịch bệnh nhiều như: Sóc trăng thiệt hại 17 nghìn ha, chiếm 61% diện tích tích thả nuôi; Trà Vinh gần 6 nghìn ha, chiếm 30%; Long An gần 2 nghìn ha, chiếm 48% diện tích thả nuôi; Phú Yên 414 ha, chiếm 27%...
b. Khai thác thuỷ sản
Sản lượng thủy sản khai thác đạt 209 nghìn tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó khai thác biển đạt 193,4 nghìn tấn, tăng 1,4%
Thời gian này đang vào mùa cao điểm đánh bắt thủy sản, thời tiết thuận lợi, các loài hải sản như cá cơm, cá nục, cá trác, cá hố, cá động, cá ngừ, cá bạc má,… xuất hiện nhiều trên các ngư trường nhưng giá xăng dầu tăng cao nên một số tàu đánh bắt xa bờ không có hiệu quả tạm ngưng hoạt động (chủ yếu ở nghề cào đơn và vây ánh sáng), thêm vào đó lệnh cấm biển của Trung Quốc từ 6/5-1/8/2011 gây tâm lý e ngại cho ngư dân khi ra khơi xa đánh bắt.
Hiện nay các địa phương đang tích cực thực hiện đánh dấu tàu cá để nhận dạng theo tuyến đánh bắt lộng và khơi theo quy định tại Thông tư số 48/2010/TT-BNNPTN.
Tính chung 5 tháng đầu năm, tổng sản lượng thuỷ sản các loại đạt 1990,4 nghìn tấn, tăng 3,3%. Trong đó nuôi trồng thủy sản đạt 960,6 nghìn tấn, tăng 5,4%; khai thác thủy sản đạt 1029,8 nghìn tấn, tăng 1,4%, khai thác hải sản (biển) đạt 959,2 nghìn tấn, tăng 1,5%. Sản lượng cá ngừ đại dương khai thác khoảng 7300 tấn, tăng 1,8%.
4. Giá cả nông sản, vật tư trong nước
- Lương thực: giá lúa mua buôn tại Đồng bằng sông Cửu Long từ 5900-7000đ/kg tùy loại (daso động không nhiều so với tháng 4). Cụ thể: lúa IR50404 có giá 5900-6100đ/kg (giảm 300-500đ/kg), lúa Jasmine có giá 6900-7000đ/kg (đứng giá), lúa CLC VNĐ95-20 có giá 6200- 6300đ/kg (tăng 200đ/kg) kéo theo giá gạo dao động không lớn hoặc đứng giá. Gạo Jasmine có giá 13000-14000đ/kg (đứng giá), gạo CLC 11000đ/kg (đứng giá), gạo tẻ thường 10.000-11.000đ/kg (tăng 500đ/kg).
- Rau quả các loại: Giá bán lẻ tại các chợ như sau: cải xanh 7000đ/kg (tăng 1000đ/kg), xà lách 8000đ/kg (tăng 2000đ/kg), cà tím 6000đ/kg (đứng giá), cà chua 6000đ/kg (giảm giá). Nhìn chung giá cả các loại rau quả ổn định, một số loại giảm mạnh do bắt đầu vào vụ, sự thuận lợi của thời tiết, nguồn cung dồi dào.
- Giá cả các mặt hàng thực phẩm tăng giảm tùy loại: giá lợn hơi 54000-55000đ/kg (tăng 5000đ/kg so với tháng 4), thịt lợn đùi 90000đ/kg (tăng 10.000đ/kg so với tháng trước), thịt ba chỉ 85000đ/kg (tăng 8000đ/kg); gà nguyên con làm sẵn 105.000đ/kg (giảm 5000đ/kg); thịt bò 150.000đ/kg (tăng 15000đ/kg). Giá các loại thủy hải sản nhìn chung ổn định: cá diêu hồng 35000đ/kg (đứng giá), tôm càng xanh 220.000đ/kg (tăng 20.000đ/kg)
- Vật tư nông nghiệp: nhìn chung ổn định. Urê của Trung Quốc có giá 9100đ/kg (giảm 100đ/kg); Urê Phú Mỹ có giá 9300đ/kg (giảm 100đ/kg). Phân DAP của Philipin có giá 15800/đkg (tăng 200đ/kg), DAP Trung Quốc 14600đ/kg (giảm 400đ/kg)
5. Thiên tai, dịch bệnh
a. Tình hình thiên tai: tình hình thiên tai trong tháng không có diễn biến bất thường
b. Dịch bệnh trên gia súc gia cầm
- Tình hình dịch cúm gia cầm: Hiện cả nước còn 2 tỉnh là Vĩnh Long và Lạng Sơn có ổ dịch chưa qua 21 ngày. Như vậy so với tháng trước, số tỉnh có ổ dịch giảm từ 6 tỉnh xuống còn 2 tỉnh, cúm gia cầm hiện đã được kiểm soát và tình hình được cải thiện,.
- Dịch LMLM: Hiện nay trên toàn quốc còn 2 tỉnh là Đắc Lắc và Quảng Ninh có ổ dịch LMLM chưa qua 21 ngày. So với tháng trước cả nước có 20 tỉnh, dịch LMLM đã giảm về số lượng ổ dịch.
- Dịch tai xanh trên lợn:tình hình diễn biến còn rất phức tạp. Hiện cả nước có 6 tỉnh còn ổ dịch chưa qua 21 ngày là Nghệ An, Quảng Trị (19 ngày), Hà Tĩnh (18 ngày), Thái Bình, Bắc Ninh và Hải Dương.
Về công tác phòng chống dịch: Lãnh đạo Bộ, Cục Thú y đã thị sát và chỉ đạo trực tiếp công tác phòng chống dịch tại các địa phương./.
Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư