Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 23 tháng 7 năm 2012.
I. BỐI CẢNH CHUNG
Tháng 7, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục “bức tranh u ám”: 15 ngân hàng lớn nhất thế giới bị hạ bậc tín nhiệm; xăng, dầu liên tục phá đáy; dòng tiền đang chảy ra khỏi các quỹ đầu tư chứng khoán thị trường mới nổi; các hoạt động kinh tế tại châu Âu cũng như Trung Quốc đồng loạt sụt giảm, trong khi đà phục hồi của nền kinh tế Mỹ vốn dĩ không vững chắc, nay đang ngày càng trở nên trì trệ, thậm chí có chiều hướng xấu đi, tháng 7, tăng trưởng sản xuất của Mỹ ở mức thấp nhất kể từ tháng 12/2010.
Trong nước, tăng trưởng kinh tế sáu tháng đầu năm nay đạt mức thấp so với các năm trước là do nhiều ngành, lĩnh vực gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, giải ngân đầu tư xây dựng cơ bản chậm. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được triển vọng hồi phục ổn định và phát triển khả quan, đặc biệt là trên thị trường tài chính tiền tệ. Chính phủ ban hành Nghị quyết 13/NQ-CP nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, trong đó tập trung vào hoạt động sản xuất. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian tới, trước những cơ hội ngày càng rõ nét hơn về đà tăng trưởng mạnh nhu cầu tiêu dùng hàng hóa trên thế giới, kinh tế Việt Nam vẫn rất cần tập trung mạnh hơn "hướng về xuất khẩu".
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN 7 THÁNG NĂM 2012
1. Du lịch
Trong tháng 7/2012, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng 11,6% so với tháng trước (đạt 466 nghìn lượt khách), tuy nhiên chỉ bằng 88,2% so với cùng kỳ năm 2011. Trong đó, khách đi theo mục đích du lịch và nghỉ ngơi chiếm 59,7%, theo công việc 17,6%, thăm thân nhân 17,4% và theo mục đích khác 5,4%.
7 tháng đầu năm 2012, số lượt khách quốc tế đến Việt Nam, ước đạt khoảng 3,83 triệu lượt, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2011. Hầu hết thị trường khách quốc tế đến Việt Nam 7 tháng đầu năm đều tăng trưởng so với cùng kỳ năm ngoái: dẫn đầu là tăng trưởng của số lượng khách đến từ Hàn Quốc (tăng 37,9%), Malaisia (tăng 24%), Thái Lan (tăng 22,7%), Nhật Bản (tăng 21,4%), Đài Loan (tăng 16,4%), ,...., khách Úc và Cămpuchia đều giảm so với nửa đầu năm trước (khách Úc giảm 5,1%, khách Campuchia giảm 21,5%), khách từ Hoa Kỳ cũng giảm chút ít (0,3%); trong đó khách đi theo mục đích du lịch và nghỉ ngơi chiếm 59,4%, theo công việc 17,3%, thăm thân nhân 17,7% và theo mục đích khác 5,6%.
Tiếp nối đà tăng trưởng của năm 2011, thị trường khách du lịch nội địa tiếp tục chuyển biến mạnh mẽ trong 7 tháng đầu năm 2012. Số lượt khách du lịch nội địa 7 tháng ước đạt 20 triệu lượt tăng khoảng 8% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu 7 tháng đầu năm của ngành du lịch ước đạt khoảng 88.000 tỷ đồng, tăng khoảng 26% so với cùng kỳ năm 2011.
Đánh giá chung: Trong các tháng đầu năm, các đơn vị trong ngành du lịch và các địa phương đã có nhiều tích cực trong việc tổ chức các sự kiện nhằm thu hút khách du lịch, mà xương sống là các hoạt động nằm trong chương trình tổ chức Năm du lịch quốc gia Duyên hải Bắc Trung Bộ - Huế 2012 với hàng loạt các sự kiện tập trung vào các tháng 1, 2,4 với Lễ hội đầu xuân và Fesstival Huế 2012; Lễ hội bắn pháo hoa quốc tế Đà Nẵng 2012; sự kiện lễ công bố vịnh Hạ Long được công nhận là kỳ quan thiên nhiên thế giới mới... Bên cạnh đó, do tình hình suy giảm kinh tế, các công ty lữ hành đã phối hợp với các khách sạn, cáchãng hàng không để giảm giá nhiều tour nhằm kích cầu du lịch. Đây là những yếu tố được cho là góp phần quan trọng trong việc duy trì được mức tăng trưởng của ngành du lịch trong các tháng đầu năm.
2. Xuất nhập khẩu
a. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 7 năm 2012 đạt 9,6 tỷ USD, giảm 2,9%so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 5,25 tỷ USD.
7 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt hơn 62,9 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt hơn 34,3 tỷ USD, tăng 41,1% so với cùng kỳ năm trước và chiếm tỷ trọng 54,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 7 tháng đầu năm 2012 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt hơn 5,4 triệu tấn, tăng 12,1% về lượng và tăng 10,9% về kim ngạch; than đá ước đạt gần 8,2 triệu tấn, giảm 18,9% về lượng và giảm 25,3% về kim ngạch; dệt may đạt hơn 8,2 tỷ USD, tăng 8,9%; da giày hơn 4,2 tỷ USD, tăng 16%; gỗ và sản phẩm gỗ hơn 2,5 tỷ USD, tăng 21,2%; điện thoại các loại và linh kiện hơn 6,2 tỷ USD, tăng 151,6%; linh kiện điện tử gần 4 tỷ USD, tăng 81,3%; thuỷ sản gần 3,4 tỷ USD, tăng 6,6%; cao su 488 nghìn tấn, tăng 32,2% về lượng và giảm 9,5% về kim ngạch; gạo 4,6 triệu tấn, giảm 2,1% về lượng và giảm 9,3% về kim ngạch; cà phê 1178 nghìn tấn, tăng 26,9% về lượng và tăng 21,2% về kim ngạch...
Giá cả của hầu hết các mặt hàng nông sản giảm so với cùng kỳ: gạo giảm 7,4%; cao su giảm 31,6%; cà phê giảm 4,6%; hạt điều giảm 13,8%; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 15,4%.
Về thị trường xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2012, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 17,8% và chiếm tỷ trọng 17,4% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 23,9% và chiếm tỷ trọng 17,4%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 26,1% và chiếm tỷ trọng 14,9%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 39,6% và chiếm tỷ trọng 12,1%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 21,9% và chiếm tỷ trọng 11,1%.
b. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 7 năm 2012 ước đạt 9,5 tỷ USD, giảm 0,3%so với tháng trước, trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 5,05 tỷ USD.
7 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 63 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 32,9 tỷ USD, tăng 25,3%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 7 tháng đầu năm 2012 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 5664 nghìn tấn, giảm 14,1% về lượng và giảm 8,7% về kim ngạch; sắt thép các loại 4389 nghìn tấn, tăng 1,9% về lượng và giảm 3,6% về kim ngạch; phân bón 1799 nghìn tấn, giảm 18,8% về lượng và giảm 10,1% về kim ngạch; giấy các loại 680 nghìn tấn, tăng 12,8% về lượng và tăng 7,7% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 1457 nghìn tấn, tăng 2,8% về lượng và giảm 2,3% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt hơn 9 tỷ USD, tăng 5%; máy tính và linh kiện hơn 6,7 tỷ USD, tăng 92,3%; nguyên phụ liệu dệt may gần 1,8 tỷ USD, tăng 1,6%...
7 tháng đầu năm 2012, nhập khẩu từ Châu Á chiếm 79,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 15,6%, tỷ trọng ước đạt 24,3%), ASEAN (tỷ trọng 19%), Hàn Quốc (tăng 20,7%, chiếm tỷ trọng 13,6%), Nhật Bản (tăng 12,1%, chiếm tỷ trọng 10,1%) và EU (tăng 14,9%, chiếm tỷ trọng hơn 7,6%).
7 tháng đầu năm 2012, cả nước nhập siêu 58 triệu USD, bằng 0,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam vẫn nhập siêu chủ yếu với các nước như Trung Quốc (ước đạt gần 8,3 tỷ USD), ASEAN (2,6 tỷ USD), Hàn Quốc (hơn 5,7 tỷ USD), Đài Loan (3,8 tỷ USD).
c. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 7 tháng đầu năm 2012:
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2012 tiếp tục duy trì ở mức cao (19% so với cùng kỳ 2011) và cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu (7,3%):
+ Các mặt hàng công nghiệp tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đặc biệt mặt hàng điện thoại và linh kiện tăng 151,6%, máy vi tính và linh kiện 81,3% đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng xuất khẩu.
+ Năm 2011, giá cả xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt mức cao kỷ lục. 7 tháng đầu năm 2012 giá cả hầu hết nông sản xuất khẩu giảm hoặc không tăng so với cùng kỳ năm 2011 và so với giá bình quân cả năm 2011. 7 tháng đầu năm 2012, nhóm hàng nông lâm thủy hải sản chỉ tăng gần 1 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2011.
- Khu vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong 3 năm liên tục và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2012 của cả nước tăng gần 10,1 tỷ USD, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng 10 tỷ USD.
- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 7 tháng của khu vực FDI(25,3%) cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chung của cả nước, do các mặt hàng chủ lực của khu vực này chủ yếu là gia công, lắp ráp, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nhập khẩu của khu vực này tăng gần hơn 6,6 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2011, trong khi nhập khẩu của cả nước tăng 4,3 tỷ USD.
- 7 tháng đầu năm 2012 nhập siêu của cả nước ước đạt 58 triệu USD, bằng 0,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; trong đó khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu 1415 triệu USD.
- Việc giảm nhập siêu là một tín hiệu mừng nhưng mặt khác cho thấy nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước hiện tại đang giảm sút. Nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đang gặp nhiều khó khăn để phát triển sản xuất kinh doanh.
3. Thị trường trong nước
a. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ
Theo Tổng cục Thống kê, tháng 7, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 189,2 nghìn tỷ đồng, tăng 0,12% so tháng 6. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ cả nước 7 tháng ước 1.327,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,74% so cùng kỳ 2011. Trong đó, kinh doanh thương nghiệp đạt 1.027,1 nghìn tỷ đồng, tăng 18,2% so 7 tháng 2011 và chiếm 77,4% cả nước. Kinh doanh khách sạn, nhà hàng ước 155,3 nghìn tỷ đồng, tăng 19,3% cùng kỳ 2011, chiếm 11,7% cả nước. Du lịch và dịch vụ đạt lần lượt 13,7 nghìn tỷ và 131,4 nghìn tỷ, tăng 26,6% và 21,7% so với 7 tháng 2011, chiếm lần lượt 1% và 9,9% tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ cả nước.
Nếu phân theo loại hình kinh tế, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ của khu vực kinh tế cá thể chiếm tới 48,3% cả nước, tiếp đến là khu vực tư nhân với tỷ lệ 35,6%. Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7 tháng qua chỉ chiếm 2,7% tổng cả nước.
b. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 giảm mạnh, với tốc độ giảm 0,29%. Diễn biến này đã kéo đà tăng lạm phát trong 7 tháng đầu năm xuống mức tăng 2,2% so với tháng 12/2011.
c. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
Thị trường xăng dầu thế giới, tại New York chốt phiên giao dịch ngày 16 tháng 7, giá dầu ngọt nhẹ giao tháng 8/2012 tăng 1,33 USD lên 88,43 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent vượt qua ngưỡng 104 USD/thùng xác lập chuỗi 4 ngày tăng giá với bước tăng 1,38 USD/thùng, lên ngưỡng 104,75 USD/thùng. Các hợp đồng dầu Brent giao tháng 9 tăng 1,30 USD, ở ngưỡng 104,67 USD tăng lên mức cao nhất kể từ cuối tháng 5 năm 2012. Dầu thô Mỹ tăng 40 cent, lên ngưỡng 88,83 USD/thùng sau khi tăng 1,33 USD.
Giá xăng dầu tăng nhẹ trong hai tuần đầu tháng 7, tuy nhiên theo dự báo giá dầu thế giới có xu hướng giảm nhẹ sau khi Quỹ tiền tệ quốc tế hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu và lên tiếng cảnh báo triển vọng kinh tế thế giới có thể tồi tệ hơn nếu các nước Châu Âu không vượt qua khủng hoảng nợ công.
Doanh số bán lẻ tháng 6 của Mỹ giảm tháng thứ 3 liên tiếp, chuỗi giảm dài nhất kể từ năm 2008 do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Giá dầu giảm khoảng 25% so với mức đỉnh trong năm 2012 với lý do tăng trưởng kinh tế chậm và nhu cầu nhiên liệu không nhiều, nhưng thị trường xăng dầu vẫn đang tìm kiếm những đợt sóng tăng mới.
Tại thị trường trong nước, kể từ ngày 2/7 đến nay giá bán lẻ xăng dầu được áp dụngmức giá: Xăng RON 95 là 21.100 đồng/lít, giảm 600đồng/lít; xăng Ron 92 là 20.600 đồng lít, giảm 600 đồng/lít; dầu diesel 0,05S là 19.900 đồng/lít, giảm 200 đồng/lít; dầu diesel 0,25S là 19.850 đồng/lít, giảm 200 đồng/lít; dầu hỏa là 19.850 đồng /lít, giảm 200 đồng/lít; dầu madut là 17.950 đồng/lít, giảm 300đồng/lít.
Theo Thông tư số 103/2012/TT-BTC ngày 22/6/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng thuộc Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế suất thuế nhập khẩu các loại dầu từ RON 90 đến RON 97 đều tăng từ 7% lên 10%, mức tăng cụ thể như Bảng dưới đây:
Loại Hàng
|
Giá hiện tại
|
Mức tăng/giảm
|
Thuế hiện tại
|
Mức tăng
|
Xăng RON 95 KC
|
21.100
|
-600
|
12%
|
+2%
|
Xăng RON 92 KC
|
20.600
|
-600
|
12%
|
+2%
|
Diesel 0,05S
|
19.900
|
-200
|
10%
|
+2%
|
Diesel 0,25S
|
19.850
|
-200
|
10%
|
+2%
|
Dầu hỏa
|
19.850
|
-200
|
12%
|
+2%
|
FO 3%
|
17.950
|
-300
|
12%
|
+2%
|
FO 3,5%
|
17.650
|
-300
|
12%
|
+2%
|
TheoTổng cục Thống kê, ước nhập khẩu xăng dầu 6 tháng đầu 2012 đạt 4.800 nghìn tấn, tương đương 4.752 triệu USD, bằng 78,9% so với cùng kỳ năm 2011. Lượng dầu thô xuất khẩu 6 tháng ước đạt 4.175 nghìn tấn, tương đương 3.836 triệu USD và bằng 106,7% so với cùng kỳ năm 2011.
b) Sắt thép
Trên thị trường thế giới, giá thép cuộn cán nóng đã giảm từ mức 650 USD/tấn CFR xuống 600 USD/tấn, do ảnh hưởng của giá thép chào hàng giá rẻ của Nga. Một số Nhà máy thép ở Châu Âu đã hạ giá chào hàng xuống 550 USD/tấn FOB sang thị trường trung đông. Các nhà cung cấp thép phế của Mỹ không những không chấp nhận đàm phán giá mà còn giảm khối lượng cung ứng, Trung Quốc đang chào thép cuộn cán nóng với giá 595 – 600 USD/tấn sang Hàn Quốc, giảm 20 USD/tấn so với giá chào giữa tháng 6, trong khi nhu cầu thép cuộn cán nóng tại Hàn Quốc đang ảm đạm.
Tại thị trường trong nước, giá thép ổn định so với tháng trước, theo Tổng công ty Thép Việt Nam giá bán tại các tỉnh miền Bắc từ 16,15- 16,40 triệu đồng/tấn (Gang thép Thái Nguyên), miền Nam từ 16,32-17,14 triệu đồng/tấn (Thép miền Nam, Vinakyoei), trên thực tế một số nhà sản xuất thép phía Bắc đã giảm 100.000 – 200.000đồng/tấn tại nhà máy nhưng sức mua vẫn thấp, do ngành xây dựng đang bước vào mùa mưa bão và ngành bất động sản ảm đạm. Giá bán lẻ tại các địa phương có xu hướng giảm từ 200.000 – 400.000đồng/tấn để đẩy mạnh tiêu thụ, nhưng thị trường thép vẫn khá trầm lắng.
Theo số liệu của Hiệp hội Thép, thép tồn kho hiện là 370.000 tấn,phôi thép là 480.000 tấn. Lượng thép công nghiệp tồn kho tuy có giảm nhưng mức giảm ít chủ yếu do các doanh nghiệp không còn nhập hàng về mà đang cố gắng đẩy lượng hàng tồn kho ra thị trường bằng cách giảm giá. Một trong những nguyên nhân khiến các doanh nghiệp thép đua nhau giảm giá là do giá nguyên liệu đầu vào như phôi, thép phế nhập về giảm 15-20 USD/tấn.
c) Xi măng
Sản xuất và tiêu thụ: Theo Bộ Xây dựng, tình hình sản xuất và tiêu thụ xi măng tháng 7/2012 giảm nhẹ nhưng vẫn tăng đáng kể so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất tháng 7 ước đạt 4,40 triệu tấn, 7 tháng đầu năm ước đạt 23,90 triệu tấn, giảm 4,8 triệu tấn so với cùng kỳ 2011.Tiêu thụ tháng 7 ước đạt 4,40 triệu tấn, 7 tháng ước đạt 23,90 triệu tấn, giảm 1,08 tấn (-4,3%) so với cùng kỳ.
Tồn kho của ngành xi măng đang ở mức cao với 3,5 triệu tấn, trong khi sức tiêu thụ 6 tháng đầu năm giảm gần 10% so với cùng kỳ năm 2011, chỉ đạt 19 triệu tấn.
Mặc dù lãi suất các Ngân hàng đã giảm, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tiếp cận được nguồn vốn này do độ trễ từ chính sách đến áp dụng thực tiễn, nên nhiều doanh nghiệp đã phải giảm công suất khai thác hoặc tạm dừng để tránh thua lỗ thêm như dây chuyền của Nhà máy xi măng Hoàng Thạch, một số nhà máy xi măng thuộc Tập đoàn Sông Đà...việc dừng sản xuất hoặc giảm công suất khai thác đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sản xuất và làm giảm khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp.
Theo Quy hoạch đã được duyệt, năm 2012 toàn ngành xi măng có công suất thiết kế khoảng 70 triệu tấn, sản lượng dự kiến đạt từ 60 đến 62 triệu tấn, trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ nội địa năm 2012 dự kiến chỉ đạt khoảng 47 - 48 triệu tấn, phấn đấu xuất khẩu 7 - 8 triệu tấn, thì vẫn còn tới 6 triệu tấn xi măng dư thừa.
d) Phân bón
Giá phân bón thế giới nằm trong xu hướng giảm, giá Urê tiếp tục giảm mạnh tại hầu khắp các thị trường. Giá Urê hạt trong tại Nga là 465 - 477 đô/tấn fob, Trung Quốc: 480 - 485 đô/tấn fob, Mỹ: 546 – 623 đô/tấn cfr, Baltic: 425 - 440 đô/tấn fob, mức giảm trung bình trên các thị trường khoảng15 – 20 USD/tấn.Giá phân Kali tại khu vực Vancouver hiện đang dao động từ 460-490 USD/tấn FOB, giảm 15 USD/tấn; tại Israel: 440-490 USD/tấn FOB; tại Brazil: 525-540 USD/tấn CIF, không tăng so với giá cuối tháng 6/2012.
Tại thị trường trong nước, giá phân bón khá ổn định do nông dân cả ba miền bước vào vụ thu hoạch lúa đông xuân đồng thời chuẩn bị xuống mạ cho vụ hè thu nên nhu cầu sử dụng phân bón đang trong thời kỳ thấp điểm. Tại các tỉnh phía Bắc, giá Urê phổ biến ở mức 11.500 – 12.000đ/kg; phân Supe Lân Lâm Thao 3.500 - 4.000 đ/kg; NPK5-10-3 Lâm Thao có giá phổ biến4.500 – 5.000đ/kg; Kali 12.000-12.500đ/kg (ổ định); DAP là 14.500-16.000đ/kg. Tại các tỉnh phía nam Urê Phú Mỹ có giá 11.600 -12.000đồng/kg; Urê Trung Quốc có giá 10.800 – 11.000đồng/kg.
Dự kiến, bước vào quý III/2012, thị trường phân bón trong nước sẽ giảm nhẹ với giá bán phân bón có thể giảm từ 300-500 đồng/kg nhờ nguồn cung của Nhà máy đạm Ninh Bình công suất 560.000 tấn/năm và Nhà máy Đạm Cà Mau công suất 800.000 tấn/năm chính thức đi vào sản xuất thương mại. Vào tháng 7, tháng 8 hàng năm cũng là thời kỳ thấp điểm về nhu cầu phân bón nên được dự báo giá phân bón sẽ ổn định và không thể tăng đột biến.
II. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CÁC THÁNG CUỐI NĂM 2012
1. Du lịch
- Tích cực triển khai, phổ biến và thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030 và triển khai quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030, đồng thời xây dựng một loạt các quy hoạch phát triển bền vững, đặc biệt là bảy vùng du lịch trọng điểm làm cơ sở cho thu hút đầu tư, quảng bá du lịch của cả nước nới chung, của các vùng, địa phương nói riêng.
- Tập trung thực hiện thành công các chương trình, hoạt động của năm du lịch Quốc Gia duyên hải Bắc Trung Bộ - Huế 2012 với chủ đề "Du lịch di sản".
-Tiếp tục đột phá vào vấn đề tăng cường quản lý điểm đến thông qua việc kiểm soát chất lượng dịch vụ và quản lý môi trường du lịch. Đây cũng chính là một trong những điểm yếu, hạn chế đã tồn tại từ nhiều năm trước, nhưng chưa được khắc phục triệt để.
- Đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, xúc tiến ở trong nước và nước ngoài, các hoạt động về nghiệp vụ theo yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra của ngành.
-Ngành du lịch cần có các chiến dịch nhằm thay đổi khái niệm, nhận thức về du lịch cộng đồng trong xã hội. Đó là phát triển du lịch mang lại nguồn lợi cho cộng đồng, phát triển kinh tế địa phương với khái niệm phát triển du lịch có trách nhiệm hay du lịch bền vững, như các nước Ấn Độ, Kenya đã thực hiện rất thành công. Người dân bản địa không làm du lịch, mà chỉ tham gia, trong khi đóng góp kinh tế chính là các doanh nghiệp khai thác du lịch tại địa bàn, với việc đóng 10% doanh thu, lợi nhuận cho địa phương.
- Triển khải có hiệu quả chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (ESRT) giai đoạn 2011 – 2015 do EU tài trợ, đây là điều kiện thuận lợi về tài chính để triển khai các chương trình phát triển du lịch trọng điểm.
2. Xuất nhập khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu
Để tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã đạt được trong năm 2011, phấn đấu đạt mức tăng trưởng xuất khẩu 13%, cần chú trọng các giải pháp sau:
- Chú trọng nâng cao chất lượng để tăng giá trị với nhóm hàng sản xuất truyền thống (đặc biệt là nông, lâm, thủy sản) không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng. Mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, có đóng góp quan trọng thực hiện kế hoạch xuất khẩu, giải quyết việc làm, ổn định xã hội.
- Nâng cao chất lượng xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng không hạn chế về khả năng sản xuất, dùng nhiều nguyên liệu trong nước. Tăng nguồn kinh phí cho chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.
- Khai thác chiều sâu, chiều rộng thị trường truyền thống cùng với thị trường có chung biên giới. Ðẩy mạnh công tác thông tin, dự báo với thị trường ngoài nước, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
- Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
- Chất lượng còn yếu kém của các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu như vận tải, bảo hiểm, logistic ở Việt Nam hiện nay đang gây hạn chế cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Đây là vấn đề cần được tập trung cải thiện trong thời gian trước mắt.
Kiểm soát nhập khẩu
- Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
- Bộ Công Thương chủ trì xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, phát triển công nghiệp phụ trợ, tăng cường sử dụng máy móc vật tư, thiết bị sản xuất trong nước theo chỉ đạo của Chính phủ.
- Xác định mức độ ưu tiên tiếp cận ngoại tệ đối với các nhóm mặt hàng không thiết yếu, hàng không khuyến khích nhập khẩu, hàng trong nước sản xuất được, đưa ra quy định, nguyên tắc khi cho vay nhập khẩu.
- Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.
- Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
- Tăng cường công tác hậu kiểm về chất lượng, an toàn vệ sinh đối với sản phẩm nhập khẩu và lưu thông theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn; thực hiện các biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và tạo hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu, kiểm soát việc nhập nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu...
- Rà soát các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã ký kết và cẩn trọng trong việc đẩy mạnh đàm phán ký kết các Hiệp định mới. Các Hiệp định thương mại quốc tế một mặt tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho hàng Việt Nam, mặt khác cũng gây nguy cơ nhập siêu nếu không đàm phán chặt chẽ.
- Tiếp tục nhấn mạnh nhóm biện pháp thông tin tuyên truyền, nhất là chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, coi đây là một kênh gián tiếp nhằm tăng tỷ lệ sử dụng hàng Việt Nam, qua đó giảm tỷ lệ hàng nhập khẩu.
3. Thị trường trong nước
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 03/01/2012 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012.
-Thắt chặt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, xử lý kịp thời, đặc biệt tại các điểm nóng, vùng giáp biên, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo, đặc biệt là đối với các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, xi măng, sắt thép, dược phẩm.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu…
- Nhanh chóng có giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA nhằm gia tăng tiêu thụ hàng tồn kho của các doanh nghiệp sản xuất, nhanh chóng đưa công trình vào hoàn thành, khai thác, sử dụng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
- Thực hiện hỗ trợ nhanh và kịp thời vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước; Nghiên cứu giải pháp khuyến khích tiêu thụ, kích cầu tiêu dùng để tăng cường tiêu thụ sản phẩm, giảm tồn kho nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất./.
File đính kèm: BC TMDV 7 thang.pdf
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư