Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 22 tháng 11 năm 2011
I. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 11 NĂM 2011
1. Tình hình phát triển các ngành dịch vụ
1.1. Dịch vụ du lịch
Trong 11 tháng đầu năm 2011 nhiều sự kiện văn hoá lễ hội đã diễn ra trên khắp các địa phương trong cả nước. Đầu tiên là lễ đón bằng của UNESCO công nhận Hội Gióng ở đền Phù Đổng là di sản văn hóa phi vật thể được tổ chức tại Gia Lâm, Hà Nội; tiếp đến là một loạt các hoạt động khác như: lễ hội đua bè tre trên hồ Ea Tam, hội chùa Hương, hội đền Trần, lễ hội Yên Tử, Cửa Ông, lễ hội pháo Hoa tại Đà Nẵng,…
Với sự kiện du lịch Việt Nam lọt vào top 13 tour du lịch châu Á tốt nhất trong năm 2011 và 50 tour du lịch tốt nhất thế giới nên đi trong đời (lựa chọn của tạp chí du lịch danh tiếng của Hiệp hội Địa lý quốc gia Mỹ - National Geographic). Nhiều khách du lịch quốc tế, đặc biệt là các tầu du lịch nước ngoài đã chọn Việt Nam là điểm đến như: tàu du lịch quốc tế Ocean Princess, Amazara Quest, Seabourn Prise, EUROPA, Costa Classica,....Khách quốc tế đến nước ta mười một tháng năm 2011 ước tính đạt 5.263,6 nghìn lượt người, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 3.158,5 nghìn lượt người, tăng 10,7%; đến vì công việc 884,5 nghìn lượt người, giảm 5,2%; thăm thân nhân đạt 879,9 nghìn lượt người, tăng 70,1%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không là 4.399,1 nghìn lượt người, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2010; đến bằng đường biển 34 nghìn lượt người, giảm 26%; đến bằng đường bộ 830,5 nghìn lượt người, giảm 3,2%.Trong mười một tháng năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam từ hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Trung Quốc đạt 1.168,1 nghìn lượt người, tăng 40,2%; Hàn Quốc 471,6 nghìn lượt người, tăng 4,7%; Nhật Bản 414,2 nghìn lượt người, tăng 3,9%; Hoa Kỳ 397,4 nghìn lượt người, tăng 0,5%; Cam-pu-chia 375,21 nghìn lượt người, tăng 60,5%; Đài Loan 325,3 nghìn lượt người, tăng 6,1%; Ôx-trây-li-a 259,1 nghìn lượt người, tăng 3,1%;Ma-lai-xi-a 205,3 nghìn lượt người, tăng 9,4%; Pháp 186 nghìn lượt người, tăng 2%.
Số thuê bao điện thoại phát triển mới mười một tháng năm 2011 đạt 10,1 triệu thuê bao, giảm 26,5% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm 50,2 nghìn thuê bao cố định, giảm 63,8% và khoảng 10 triệu thuê bao di động, giảm 26,8%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 11/2011 ước tính đạt 131,5 triệu thuê bao, tăng 3,6% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,6 triệu thuê bao cố định, tăng 0,2% và 115,9 triệu thuê bao di động, tăng 4,2%.
Thực hiện 11 tháng đầu năm: Khối lượng vận chuyển hành khách toàn ngành ước đạt 2.448,2 triệu lượt khách, tăng 10% và 106,4 tỷ lượt khách.km, tăng 9,66% so với cùng kỳ năm 2010. Khối lượng vận chuyển hàng hoá ước đạt 760 triệu tấn, tăng 9,75% và 220 tỷ tấn.km, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm trước.
- Dịch vụ vận tải hàng không
Thực hiện 11 tháng đầu năm: Ước khối lượng vận chuyển hành khách đạt 14 triệu lượt khách, tăng 0,15% và 24 tỷ lượt khách.km, tăng 8%. Vận chuyển hàng hóa ước đạt 180 nghìn tấn, tăng 11,7% và 374,2 triệu tấn.Km, tăng 0,88% so với cùng kỳ năm 2010.
- Dịch vụ vận tải hàng hải
Thực hiện 11 tháng đầu năm: Khối lượng vận chuyển hàng hoá ước đạt 52,9 triệu tấn, tăng 7,29% và 148,6 tỷ tấn.km, giảm 2,9% so với năm 2010.
- Dịch vụ vận tải đường sắt
Thực hiện 11 tháng đầu năm: Khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 11 triệu lượt khách, tăng 6,29% và 4,24 tỷ lượt khách.km, tăng 11,16% so với cùng kỳ năm ngoái. Khối lượng vận chuyển hàng hoá đạt 6,91 triệu tấn, giảm 2,6% và 3,86 tỷ tấn.km, tăng 10,19% so với năm 2010.
2. Về xuất, nhập khẩu
2.1. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 11 năm 2011 đạt 8,6 tỷ USD, tăng 2,5%so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 4,8 tỷ USD.
11 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt gần 87,2 tỷ USD, tăng 34,7% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt hơn 42,6 tỷ USD, tăng 39,2% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 11 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt 7632 nghìn tấn, tăng 5,1% về lượng và tăng 50,9% về kim ngạch; than đá ước đạt hơn 15,1 triệu tấn, giảm 12,3% về lượng và tăng 2,9% về kim ngạch; dệt may đạt hơn 12,8 tỷ USD, tăng 28%; da giày 5,7 tỷ USD, tăng 25,8%; cao su 691 nghìn tấn, tăng 1,5% về lượng và tăng 39,2% về kim ngạch; gỗ và sản phẩm gỗ 3520 triệu USD, tăng 14,3%; linh kiện điện tử 3778 triệu USD, tăng 17,1%; thuỷ sản 5541 triệu USD, tăng 23,1%; gạo 6783 nghìn tấn, tăng 6,2% về lượng và 15,9% về kim ngạch; cà phê 1079 nghìn tấn, tăng 2,4% về lượng và tăng 52,8% về kim ngạch; sắn và sản phẩm sắn 2454 nghìn tấn, tăng 58,5% về lượng và tăng 82,3% về kim ngạch...
Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu được cải thiện đã góp phần vào tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu 11 tháng năm 2011 so với cùng kỳ: giá hạt điều tăng 45,9%, cà phê tăng 49,3%, chè các loại tăng 3,4%, hạt tiêu tăng 65,8%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 15%, than đá tăng 17,3%, dầu thô tăng 43,6%, cao su tăng 37,2%. Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 4,9 tỷ USD.
Về thị trường xuất khẩu, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 19,2% và chiếm tỷ trọng 17,6%; xuất khẩu vào EU tăng 48,7% và chiếm tỷ trọng 17%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 30,6% và chiếm tỷ trọng 14,1%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 38,2% và chiếm tỷ trọng 11%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 51,7% và chiếm tỷ trọng hơn 11%.
2.2. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 11 năm 2011 ước đạt 9,3 tỷ USD, tăng 1,7% so với tháng trước; trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 4,6 tỷ USD.
11 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt gần 96,1 tỷ USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt gần 43,5 tỷ USD, tăng 30,8%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 11 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu hơn 10 triệu tấn, tăng 14,2% về lượng và tăng 67,6% về kim ngạch; sắt thép các loại 6590 nghìn tấn, giảm 18,9% về lượng và tăng 3,6% về kim ngạch; phân bón 3881 nghìn tấn, tăng 26,8% về lượng và tăng 54% về kim ngạch; giấy các loại 932 nghìn tấn, tăng 1,6% về lượng và tăng 15,5% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 2281 nghìn tấn, tăng 5,1% về lượng và tăng 26,4% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt hơn 13,7 tỷ USD, tăng 12,2%; máy tính và linh kiện 6506 triệu USD, tăng 39,5%; vải các loại 6135 triệu USD, tăng 27%; nguyên phụ liệu dệt may 2709 triệu USD, tăng 13,5%...
Cũng như xuất khẩu, giá nhập khẩu bình quân của hầu hết các mặt hàng đều tăng là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến mức tăng của kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước như: giá xăng dầu các loại tăng 46,7%, khí đốt hóa lỏng tăng 23,2%, chất dẻo nguyên liệu tăng 20,3%, sợi các loại tăng 28,5%, sắt thép các loại tăng 27,8%, phân bón các loại tăng 21,5%, lúa mỳ tăng 33,4%... Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này khiến kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng hơn 6,9 tỷ USD.
11 tháng đầu năm 2011, nhập khẩu từ Châu Á chiếm 79,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 21,2%, tỷ trọng ước đạt 22,6%), ASEAN (tăng 35,1%, tỷ trọng hơn 20,3%), Hàn Quốc (tăng 33,5%, chiếm tỷ trọng 12,2%), Nhật Bản (tăng 15,4%, chiếm tỷ trọng gần 9,8%) và EU (tăng 13,4%, chiếm tỷ trọng hơn 6,8%).
Ước nhập siêu 11 tháng đầu năm 2011 là hơn 8,9 tỷ USD, chiếm hơn 10,2% kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) nhập siêu 862 triệu USD.
11 tháng đầu năm 2011, Việt Nam vẫn nhập siêu chủ yếu với các nước như Trung Quốc (ước đạt hơn 12,1tỷ USD), ASEAN (hơn 7,2 tỷ USD), Hàn Quốc (7,3tỷ USD), Đài Loan (hơn 6,1 tỷ USD).
Tóm lại, trong 11 tháng đầu năm 2011, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu đã góp phần làm giảm dần tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu. Nguyên nhân chủ yếu làm kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là do hầu hết giá cả các mặt hàng xuất khẩu đều tăng, trong đó giá nông sản và dầu thô tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, xuất khẩu vàng và xuất khẩu điện thoại cũng đóng góp lớn vào mức tăng kim ngạch xuất khẩu.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 11/2011 ước đạt khoảng 176.378 tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng 10/2011. Tính cả 11 tháng đầu năm 2011, tổng mức bán lẻ cả nước ước đạt 1.814.006 tỷ đồng, tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2010.
(Theo số liệu của Tổng cục Thống kê)
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Theo Tổng Cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2011 tăng0,39% so với tháng 10/2011.
Trong tháng 10, có 03 nhóm giảm giá nhẹ gồm: nhóm dịch vụ bưu chính viễn thông giảm 0,01%; nhóm giao thông giảm 0,01%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,02%. Nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng cao nhất với 0,65%, nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,61%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,61%, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,56% (trong đó lương thực tăng cao với 3,25%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,43%, riêng thực phẩm giảm 0,26%), nhóm giáo dục tăng thấp với 0,08%. Chỉ số giá các nhóm hàng hóa còn lại tăng dao động từ 0,12% – 0,25%.
Như vậy, tính cả 11 tháng đầu năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng của cả nước đã tăng 17,5% so với tháng 12/2010.
(Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê)
3.3. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
Thị trường thế giới:
Từ cuối tháng 10 tới đầu tháng 11/2011, giá dầu thô thế giới giữ được nhịp tăng khá ổn định. Từ đầu tháng 11 đến nay (22/11/2011), giá dầu có tăng giảm nhưng nhịp tăng giảm ổn định với xu hướng tăng. Dầu WTI thị trường New York hiện ở mức xấp xỉ 97 USD/thùng, dầu Brent thị trường London hiện ở mức xấp xỉ 107 USD/thùng. Nguyên nhân chính do hoạt động sản xuất của Trung Quốc phục hồi và đồng USD giảm giá so với các đồng tiền chủ chốt khác khiến giá dầu (được tính bằng USD) trở nên hấp dẫn hơn.
Thị trường trong nước:
Giá dầu trong nước vẫn giữ nguyên sau lần tăng giá vào ngày 10/10/2011 của hai mặt hàng dầu Diezel và dầu hỏa.
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục hải quan, lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 11 ước đạt 850 nghìn tấn, tăng 10,5% so với tháng 10, với trị giá ước khoảng 806 triệu USD; tính cả 11 tháng đầu năm 2011, ước đạt 10.004 nghìn tấn, trị giá ước khoảng 9.222 triệu USD, tăng 14,2% về lượng so với cùng kỳ năm ngoái.
b) Sắt thép
Giá thép và phôi thép trên thị trường thế giới đồng loạt tăng trong tuần đầu tháng 11 nhờ nhu cầu được cải thiện.Giá phôi Biển Đen, FOB, dao động từ 550 - 560 USD/tấn, tăng 20 USD so với cuối tháng 10. Giá thép phế liệu tại Thổ Nhĩ Kỳ - một trong những quốc gia tiêu thụ nguyên liệu sản xuất thép dài nhiều nhất thế giới – tăng 15 USD lên 390 – 400 USD/tấn.
Ngược lại giá thế giới, giá thép trong nước đi xuống trong bối cảnh nhu cầu thị trường thấp do chính sách cắt giảm đầu tư của Chính phủ. Lượng thép tồn kho hiện ước khoảng 400.000 tấn thép xây dựng và 500.000 tấn phôi thép. Giá thép cuộn xây dựng trên thị trường hiện ở mức từ 17,8 triệu/tấn – 18 triệu/tấn.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, sản lượng thép nhập khẩu thực hiện tháng 10/2011 đạt 609 nghìn tấn, ước tháng 11/2011 đạt 620 nghìn tấn, tăng 1,8% về lượng so với tháng 10/2011 và đạt trị giá 635 triệu USD; tính cả 11 tháng đầu năm ước đạt 6.590 nghìn tấn, giảm 18.9% về lượng so với cùng kỳ năm 2010.
c) Phân bón
Thị trường phân bón trong nước nửa đầu tháng 11 diễn biến ở mức khá chậm. Giá các loại phân bón nhìn chung ở mức ổn định. Lượng hàng tiêu thụ không cao bởi nhu cầu trong nước đang ở mức thấp. Tuy nhiên, trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần chủ động nguồn hàng để đảm bảo lượng hàng tiêu thụ cho nông nghiệp trong nước trong thời gian tới khi vụ Đông Xuân sắp đến.
Theo số liệu sơ bộ, trong tháng 11/2011, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 400 nghìn tấn với trị giá 167 triệu USD (trong đó lượng ure nhập khẩu đạt 170 nghìn tấn, trị giá 72 triệu USD), giảm 11,5 % so với tháng 10/2011. Tính cả 11 tháng đầu năm 2011, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 3.881 nghìn tấn với trị giá 1.603 triệu USD (trong đó ure đạt 1.067 nghìn tấn, trị giá 414 triệu USD), tăng 26,8% so với cùng kỳ năm 2010.
d) Xi măng
Thị trường xi măng trong nước nửa đầu tháng 11 tiếp tục diễn biến chậm. Nhu cầu tiêu thụ xi măng tiếp tục ở mức thấp do nhiều công trình xây dựng thiếu vốn phải ngừng thi công, trong khi mùa mưa vẫn tiếp tục ở các tỉnh miền Trung và miền Nam. Về giá cả, giá tại các nhà máy và giá bán lẻ xi măng vẫn tiếp tục ổn định.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2011
1. Về phát triển ngành dịch vụ
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ nhằm đạt hiệu quả điều hành cao nhất.
- Phát huy thế mạnh của khu vực dịch vụ nhằm giải quyết vấn đề lao động, mở rộng tối đa cơ hội việc làm, đặc biệt là đối với những lĩnh vực dịch vụ có nhiều tiềm năng phát triển.
- Tiếp tục cổ phần hóa và tái cơ cấu các doanh nghiệp Nhà nước không hoạt động trong các thị trường mang tính độc quyền tự nhiên hoặc lĩnh vực liên quan đến quốc phòng, an ninh hoặc dịch vụ công thuần túy.
- Tiếp tục rà soát hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến khu vực dịch vụ nhằm bảo đảm tránh chồng chéo và phù hợp với các hiệp định quốc tế về dịch vụ
- Tăng nhu cầu dịch vụ nội địa: Chính phủ có thể đóng vai trò then chốt trong việc kích cầu nội địa đối với các dịch vụ trung gian bằng cách đặt hàng các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân. Việc áp dụng thuê mua dịch vụ từ các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vào hoạt động mua sắm chính phủ có thể là một động lực mạnh mẽ để kích thích nhu cầu nội địa cho lĩnh vực dịch vụ.
- Tăng cường phát triển dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ: Cung cấp dịch vụ cho du khách nước ngoài đến Việt Nam; cung cấp dịch vụ cho các phương tiện nước ngoài tạm thời quá cảnh qua Việt Nam; thúc đẩy việc cung cấp các dịch vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Tạo cơ chế, chính sách cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ làm ăn thua lỗ do tác động của việc giá các yếu tố đầu vào tăng cao như: giảm thuế VAT, kéo dài thời hạn nộp thuế,...
- Hỗ trợ, giảm lãi suất đồng thời dãn nợ gốc của các khoản vay trung và dài hạn; cơ cấu lại thời gian trả nợ của những dự án kinh doanh dịch vụ có tổng mức đầu tư lớn.
- Xem xét giảm mức thuế thu nhập cá nhân đối loại hình lao động đặc biệt làm việc trong môi trường nguy hiểm, độc hại ít người muốn làm trong lĩnh vực dịch vụ ví dụ như thuyền viên trên các tàu viễn dương,....
2. Về xuất, nhập khẩu
- Tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu đã nêu tại Nghị quyết số 02/NQ-CP, Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
- Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ thông qua các chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, tập trung vào các ngành dệt may, da giày, điện tử, cơ khí.
- Phát triển các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm cơ khí, linh kiện điện tử...
- Rà soát cơ cấu đầu tư, xây dựng những chính sách nhằm khuyến khích đầu tư sản xuất hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa thay thế nhập khẩu, hạn chế đầu tư vào khu vực phi sản xuất.
- Tăng cường công tác hậu kiểm về chất lượng, an toàn vệ sinh đối với sản phẩm nhập khẩu và lưu thông theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn; thực hiện các biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và tạo hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu, kiểm soát việc nhập nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu...
3. Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 11/NQ-CP về 06 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội những tháng cuối năm 2011.
- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thông qua khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước.
- Chỉ đạo các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, dự trữ hàng chuẩn bị cho dịp Tết Nguyên đán, thực hiện chương trình «Bình ổn vào dịp Tết Nguyên đán» trên nguyên tắc doanh nghiệp và nhà nước cùng làm, doanh nghiệp không bị lỗ, trong khi phát triển được thương mại trong nước, đảm bảo ổn định cung cầu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm của người dân, không để giá cả tăng đột biến vào các dịp cao điểm.
- Tập trung kiềm chế tốc độ tăng giá của các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là lương thực, thực phẩm, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
-Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo, đặc biệt là đối với các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, xi măng, sắt thép, dược phẩm.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu…
- Rà soát các dự án đầu tư phát triển sản xuất các mặt hàng thiết yếu, đảm bảo phát hiện và giải quyết ngay những khó khăn, vướng mắc, sớm hoàn thành theo tiến độ để đưa vào vận hành, tạo nguồn cung đáp ứng đủ cho nhu cầu của thị trường.
3.2. Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
- Bộ Công Thương phối hợp với các đơn vị liên quan kiểm tra, giám sát đảm bảo cân đối cung cầu xăng dầu trong nước.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc dùng thử xăng sinh học E5 trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt ở vùng nông thôn.
b) Sắt thép
- Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước, khuyến khích các công ty ngoài quốc doanh bố trí thời gian sản xuất phù hợp để tiết kiệm chi phí sử dụng điện, xây dựng hệ thống phân phối hiệu quả, giảm các tầng nấc trung gian nhằm hạ giá thành sản phẩm.
- Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thép
- Xây dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế thép rẻ kém chất lượng thâm nhập thị trường trong nước.
c. Phân bón
- Các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị nguồn hàng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu, tránh tăng giá đột biến, đặc biệt khi bước vào cao điểm mùa vụ cuối năm.
- Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt.
d) Xi măng
- Đảm bảo việc phân phối giữa các vùng, miền thông suốt, đảm bảo nguồn cung cho thị trường trong nước, bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần tích cực tìm kiếm thị trường xuất khẩu./.
File đính kèm: BC Kinhte Dichvu T11.11.pdf
Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư