Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 19 tháng 4 năm 2012
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Tình hình thế giới
Kinh tế thế giới từ đầu năm 2012 đến nay nhìn chung đã cho thấy sự phục hồi vững chắc và triển vọng lạc quan, không chỉ ở các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản... mà còn xuất hiện thêm những nhân tố mới được xem là những "con hổ" mới trong nền kinh tế toàn cầu, điển hình như sự nổi lên của Myanma thời gian gần đây nhờ những cải cách mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế của Chính phủ và mở cửa nhanh chóng của nền kinh tế. Triển vọng lạc quan này càng được củng cố thêm qua chỉ số niềm tin vào triển vọng kinh tế thế giới trong 12 tháng tới tăng lên mức cao nhất trong vòng 4 quý vừa qua.
2. Tình hình trong nước
Diễn biến kinh tế trong những tháng đầu năm 2012 cho thấy Chính phủ đã đạt được một số kết quả khả quan trong ổn định kinh tế vĩ mô. Chính sách thắt chặt tiền tệ đã kéo giảm lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái, góp phần cải thiện dự trữ ngoại hối…Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn còn phải đối mặt với thách thức từ những khó khăn và dấu hiệu đình trệ trong sản xuất kinh doanh ở nhiều lĩnh vực. Nhiều ngành có tỷ trọng đóng góp trong tổng giá trị sản xuất cao chỉ đạt mức tăng trưởng âm, chỉ số tồn kho tăng tới 39,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi và phát triển khả quan của kinh tế - xã hội đã giúp cho Việt Nam được chọn trong top 3 thị trường có tăng trưởng cao nhất khu vực Châu Á – TBD. Có nhiều ý kiến chuyên gia nhận định rằng, nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng nhanh từ giữa quý 2/2012 và sẽ hoàn thành được các mục tiêu đã đề ra trong năm 2012, thông qua những biện pháp, giải pháp mạnh của Chính phủ. Trong đó, các biện pháp huy động các nguồn lực tài chính đang và sẽ được tập trung triển khai mạnh, gồm:
+ Tập trung tiền từ mọi nguồn để cho vay sản xuất.
+ Giải phóng đầu ra cho hàng hóa; đặc biệt là cho xuất khẩu.
+ Khôi phục các thị trường vốn và tài sản.
NHNN đã quyết định tiếp tục giảm trần lãi suất huy động thêm 1%, từ 13%/năm xuống còn 12%/năm. Ở thời điểm hiện nay, với đầy đủ các yếu tố hỗ trợ cho việc giảm lãi suất huy động và cho vay thì quyết định trên là hoàn toàn phù hợp và cần thiết để hỗ trợ cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trong các lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế giúp cho sự phục hồi của nền kinh tế.
Xuất khẩu sẽ tiếp tục khởi sắc trước nhu cầu đang tăng của kinh tế thế giới đang phục hồi khá mạnh mẽ tuy còn có những khó khăn, trắc trở. Việt Nam vẫn đang có lợi thế cạnh tranh cao trong các mặt hàng xuất khẩu, vì các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là các mặt hàng thiết yếu cho cả sản xuất và tiêu dùng tại các thị trường. Xuất khẩu của Việt Nam hiện cũng đang cần có thêm sự thúc đẩy, hỗ trợ của Nhà nước và của các Bộ, Ngành về kinh tế đối ngoại, cũng như đối nội; ví dụ như Ngoại giao, Tài chính, Ngân hàng …
Thị trường trong nước: Do sức mua yếu, nguồn cung hàng hóa dồi dào, ngoài giá gạo khởi sắc hơn, giá xăng dầu tăng từ tháng 3/2012 - là những yếu tố lớn làm tăng giá thì những yếu tố làm giảm hoặc làm tăng giá ít vẫn tồn tại. Đó là: Giá xăng dầu tăng nhưng lượng tiêu thụ lại giảm; giá thịt lợn vẫn giảm thấp do tác động tai hại của chất tạo siêu nạc; các khoản chi phí đầu vào cho sản xuất cũng giảm về lượng vì bị đình trệ hoặc cầm chừng và giá thì ổn định, thậm chí còn giảm...
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 2, THÁNG 3, VÀ 4 THÁNG NĂM 2012
1. Phát triển các ngành dịch vụ
Tình hình thực hiện 3 tháng đầu năm 2012
Trong 3 tháng đầu năm 2012 , mặc dù chịu tác động đáng kể của việc giá cả một số mặt hàng thiết yếu đầu vào cho sản xuất, kinh doanh tăng cao như, xăng dầu, gas,v.v. khu vực dịch vụ Việt Nam tiếp tục phát triển, toàn ngành dịch vụ tập trung đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, bình ổn thị trường, bảo đảm nhu cầu đi lại của người dân; các doanh nghiệp kinh doanh thương mại đã chủ động các phương án chuẩn bị tốt nguồn hàng, bảo đảm đáp ứng đủ nhu cầu, nhất là các hàng hóa thiết yếu phục vụ tiêu dùng của nhân dân trước, trong và sau Tết Nguyên đán. Các hoạt động du lịch diễn ra sôi nổi, lượng khách du lịch quốc tế và tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước.
Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ trong quý I/2012 ước đạt trên 5% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó một số lĩnh vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá như: dịch vụ thương mại bán buôn, bán lẻ, dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ vận tải biển, dịch vụ du lịch.
Xuất khẩu dịch vụ quý I/2012 ước đạt khoảng 2,5 tỷ USD, tăng trên 12% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó một số dịch vụ có giá trị xuất khẩu lớn như: du lịch, viễn thông, vận tải, ngân hàng,...
Tình hình thực hiện tháng 4 và 04 tháng đầu năm 2012
Tháng 4/2012 là tháng đầu tiên chịu ảnh hưởng đáng kể của việc tăng giá xăng dầu, gas vào dịp cuối tháng 3/2012, các lĩnh vực dịch vụ có yếu tố đầu vào là xăng dầu chịu ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp của việc tăng giá xăng dầu như: vận tải, du lịch, thương mại bán lẻ,v.v.... mặt khác dịch vụ phân phối bán lẻ, du lịch chịu ảnh hưởng đáng kể của các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về chất tạo nạc trong thịt lợn, chất độc trong cá chim,v.v... đây là những tác động xấu tới người tiêu dùng nói chung và khách du lịch nói riêng.
Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ trong 4 tháng đầu năm 2012 ước đạt 5,3-5,5% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó một số lĩnh vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá như: dịch vụ vận tải, dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ du lịch.
Xuất khẩu dịch vụ 4 tháng đầu năm 2012 ước đạt khoảng 4 tỷ USD, tăng trên 20% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó một số dịch vụ có giá trị xuất khẩu lớn như: du lịch, viễn thông, vận tải, ngân hàng,...
(Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ)
Tuy nhiên, trong 4 tháng đầu năm 2012, thiệt hại do tai nạn giao thông tăng đáng kể làm ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực dịch vụ, đặc biệt là lĩnh vực du lịch.
1.2. Tình hình phát triển một số lĩnh vực dịch vụ.
a. Du lịch:
Tình hình thực hiện 2 tháng đầu năm 2012
Lượng khách du lịch quốc tế Khách quốc tế đến nước ta đạt 1.311,8 nghìn lượt người, tăng 27,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 779 nghìn lượt người, tăng 27,2%; đến vì công việc 223,7 nghìn lượt người, tăng 39,4%; thăm thân nhân đạt 234,2 nghìn lượt người, tăng 19,3%.
Trong hai tháng đầu năm nay, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 290,1 nghìn lượt người, tăng 51,5%; Hàn Quốc 141,8 nghìn lượt người, tăng 38,4%; Nhật Bản 108,3 nghìn lượt người, tăng 16,9%; Hoa Kỳ 97,9 nghìn lượt người, tăng 1,5%; Đài Loan 88,1 nghìn lượt người, tăng 40,5%; Cam-pu-chia 61,7 nghìn lượt người, tăng 32,1%; Pháp 47,6 nghìn lượt người, tăng 18,8%; Ma-lai-xi-a 46,1 nghìn lượt người, tăng 31,9%; Nga39,1 nghìn lượt người, tăng 55,1.
Tình hình thực hiện 3 tháng đầu năm 2012
Quý I năm 2012, các tour du lịch tham dự lễ hội diễn ra sôi động, nhất là các lễ hội lớn ở miền Bắc. Với loại hình du lịch này, các tour được thiết kế thường kéo dài 1 ngày, một vài tour 2 ngày phù hợp với thời gian và mức chi phí của du khách. Vì vậy, từ 450 nghìn tới hơn 1 triệu đồng, du khách có thể lựa chọn được điểm lễ và thời gian khởi hành tour; kết hợp với tham quan thắng cảnh. Phổ biến là các tour như Chùa Hương (1 ngày), đền Trần – Phủ Giầy (1 ngày), Yên Tử (1 ngày), Yên Tử - Hạ Long – Cửa Ông (2 ngày), Bái Đính – Tràng An (1 ngày), Tây Thiên (1 ngày), Lạng Sơn – Đền Mẫu (1 ngày).
Sau nhiều năm sụt giảm, mảng du lịch tàu biển đang dần ổn định và hứa hẹn sẽ tăng trưởng trong năm 2012. Chỉ trong Quý I này, nhiều tàu khách du lịch quốc tế đã đến Việt Nam như: tàu biển du lịch AIDA DIVA (quốc tịch Ý) đến từ Brunei mang theo 2.038 khách du lịch và 596 thủy thủ đoàn, nhân viên phục vụ đã cập cảng SITV Phú Mỹ (huyện Tân Thành), tàu biển quốc tế Columbus (Đức) với 550 du khách và thuyền viên chủ yếu mang quốc tịch Đức đến Việt Nam theo hải trình Đà Nẵng - Hải Phòng, Tàu biển Costa Classica và tàu biển SuperStar chở hơn 4.000 du khách và thuyền viên theo hải trình tham quan Hạ Long trong ngày... Ngoài ra, tàu biển Costa Classica sẽ liên tục đến Hạ Long vào các ngày 13, 17, 21 và 29/2 và tàu SuperStar Aquarius thuộc đội tàu biển cao cấp của hãng Star Cruises, có 07 chuyến tàu sắp cập cảng Chân Mây (Thừa Thiên-Huế) và cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), trong thời gian từ ngày 14/2 đến 5/3.
Khách quốc tế đến nước ta trong Quý I đạt 1873,7 nghìn lượt người, tăng 24,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1112,6 nghìn lượt người, tăng 24,5%; đến vì công việc 319,5 nghìn lượt người, tăng 28,2%; thăm thân nhân đạt 334,5 nghìn lượt người, tăng 23,2%.
Trong ba tháng đầu năm, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 391,6 nghìn lượt người, tăng 36%; Hàn Quốc 206,3 nghìn lượt người, tăng 43,3%; Nhật Bản 159,2 nghìn lượt người, tăng 16,9%; Hoa Kỳ 134,8 nghìn lượt người, tăng 0,9%; Đài Loan 118,6 nghìn lượt người, tăng 33,7%; Cam-pu-chia 90,6 nghìn lượt người, tăng 18,1%; Pháp 72 nghìn lượt người, tăng 14,9%; Ma-lai-xi-a 70,2 nghìn lượt người, tăng 32%; Nga 56,2 nghìn lượt người, tăng 45,4%.
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong quý I/2011 chủ yếu vẫn bằng đường hàng không, tăng hơn 26,8%, đường bộ tăng 11,4%, đường biển tăng 33,7% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo mục đích chuyến đi, trong 3 tháng đầu năm số lượng khách du lịch đi theo mục đích thăm thân nhân tăng 23,2% so với cùng kỳ năm ngoái do đây là thời gian trùng với Tết nguyên đán nên bà con Việt kiều về quê ăn Tết khá đông, tiếp đến là khách đi du lịch nghỉ ngơi tăng khoảng 24,5%, khách đi theo mục đích công việc tăng khoảng 28,2%, khách đi với mục đích khác tăng khoảng 17,8%.
Tình hình thực hiện tháng 4 và 04 tháng đầu năm 2012
Kết thúc mùa du lịch lễ hội của 3 tháng đầu năm, hoạt động du lịch của tháng 4 đã sội động ngay từ ngày đầu tháng do thời gian này là tháng khởi động chuẩn bị bước vào mùa nghỉ hè trên cả nước. Trong những năm gần đây, dịp nghỉ lễ 30/4 – 1/5 luôn thu hút được một lượng lớn khách du lịch trong nước và quốc tế do dịp nghỉ lễ dài và các địa phương có nhiều chương trình hấp dẫn dành cho khách du lịch vào thời gian này.
Trong tháng 4 này, có nhiều sự kiện du lịch lớn được tổ chức như khai mạc năm du lịch quốc gia duyên hải Bắc Trung Bộ và Festival Huế 2012 tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Liên hoan Ẩm thực tỉnh và thành phố ven biển lần 1 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, lễ hội bắn pháo hoa tại Đà Nẵng vào dịp 30/4,v.v...
Trong mùa du lịch năm nay, một số chính chính sách tích cực được triển khai nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước như: giá phòng khách sạn cao cấp tại các trung tâm du lịch có giảm so với cùng kỳ năm ngoái đối với những tour du lịch có số lượng khách lớn, một số chặng bay nội địa và quốc tế đã được Vietnam arilines áp dụng chương trình khuyến mại giảm giá vé và tích thưởng điểm bay,…
Do dịp nghỉ lễ 30-4/01-5 kéo dài, trung bình giá Tour tăng từ 20 - 30% một phần do giá xăng dầu, phương tiện vận chuyển và một số dịch vụ liên quan tăng. Đối với các Tour du lịch đi Hạ Long, Sapa, Cửa Lò, Nha Trang, Đà Lạt, Phan Thiết,….số lượng khách du lịch trong nước và quốc tế đăng ký tăng gấp đôi ngày thường, đến giữa tháng 4 một số Tour đến các trọng điểm du lịch đã bị "cháy". Một số Tour chất lượng cao đi Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Malaysia cũng đã bị "cháy" cụ thể vé máy bay đi các nước trên hầu như đã kín hết chỗ trong dịp này.
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 4 ước đạt khoảng 565 nghìn lượt khách, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong 4 tháng đầu năm, lượng khách du lịch quốc tế đạt khoảng 2,4 triệu lượt khách, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 4 năm 2012 chủ yếu từ một số thị trường truyền thống và đều có mức tăng so với cùng kỳ năm ngoái: Trung Quốc (tăng 34%), Hàn Quốc (tăng 40%), Nhật Bản (tăng 11%), Đài Loan (tăng 30%), Campuchia (tăng 11%).
Xét về phương tiện đi lại, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam bằng đường hàng không tăng 24%, đường bộ tăng 10%, đường biển tăng 32% so với cùng kỳ năm trước. Xét về mục đích chuyến đi, khách du lịch theo mục đích nghỉ ngơi tăng 23%, khách đi theo mục đích công việc tăng khoảng 27%, khách đi du lịch thăm thân nhân tăng 22%.
(Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ)
b. Bưu chính viễn thông.
Tình hình thực hiện 2 tháng đầu năm 2012
Số thuê bao điện thoại phát triển mới hai tháng đầu năm đạt 1,94 triệu thuê bao, tăng 34,1% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: 4,9 nghìn thuê bao cố định, bằng 24,6% cùng kỳ và hơn 1,93 triệu thuê bao di động, tăng 35,6%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 02/2012 đạt 134,2 triệu thuê bao, tăng 3,6% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,3 triệu thuê bao cố định, giảm 1,4% và 119 triệu thuê bao di động, tăng 4,3%.
Số thuê bao internet trên cả nước tính đến cuối tháng Hai năm 2012 đạt 4,3 triệu thuê bao, tăng 18,2% so với cùng thời điểm năm trước. Số người sử dụng internet tại thời điểm cuối tháng Hai năm 2012 đạt 32,6 triệu người, tăng 18,4% so với cùng thời điểm năm 2011.Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông hai tháng đầu năm nay đạt 22,1 nghìn tỷ đồng, tăng 21,4% so với cùng kỳ năm 2011.
Tình hình thực hiện 3 tháng đầu năm 2012
Số thuê bao điện thoại phát triển mới ba tháng đầu năm đạt 2,6 triệu thuê bao, tăng 35,3% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: 7,6 nghìn thuê bao cố định, bằng 35,4% cùng kỳ và 2,5 triệu thuê bao di động, tăng 36,4%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng Ba năm 2012 đạt 134 triệu thuê bao, tăng 3% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm: 15,3 triệu thuê bao cố định, giảm 1,6% và 118,7 triệu thuê bao di động, tăng 3,6%.
Tính đến cuối tháng Ba năm nay, số thuê bao internet trên cả nước đạt 4,2 triệu thuê bao, tăng 17,5% so với cùng thời điểm năm trước; số người sử dụng internet đạt 32,1 triệu người, tăng 15,3%. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông ba tháng đầu năm đạt 32,6 nghìn tỷ đồng, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm 2011.
Tình hình thực hiện tháng 4 và 04 tháng đầu năm 2012
Số thuê bao điện thoại phát triển mới bốn tháng đầu năm ước tính đạt 3,3 triệu thuê bao, tăng3% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: 10,2 nghìn thuê bao cố định, bằng 38% cùng kỳ và 3,2 triệu thuê bao di động, tăng 3%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng Tư năm 2012 đạt 134,6 triệu thuê bao, bằng 77,2% so với cùng thời điểm năm trước.
Tính đến cuối tháng Tư năm nay, số thuê bao internet trên cả nước ước đạt 4,2 triệu thuê bao, tăng 10,2% so với cùng thời điểm năm trước; số người sử dụng internet đạt 32,5 triệu người, tăng 10,9%. Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông bốn tháng đầu năm đạt 40,3 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2011.
(Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ)
c. Vận tải:
Tình hình thực hiện 3 tháng đầu năm 2012
Khối lượng vận tải hàng hoá dự kiến đạt 154,66 triệu tấn, khối lượng luân chuyển đạt khoảng 35.249 triệu T.Km; sản lượng vận tải hành khách dự kiến đạt 578,17 triệu lượt hành khách, khối lượng luân chuyển đạt 24.416,64 triệu HK.Km. So với cùng kỳ năm 2011 đạt 108% về vận chuyển hàng hoá 107,5% về luân chuyển hàng hoá 108,5% về vận chuyển hành khách và 108% về luân chuyển hành khách.
Tình hình thực hiện tháng 4 và 04 tháng đầu năm 2012
Trong 4 tháng đầu năm 2012, khối lượng vận tải hàng hoá dự kiến đạt 237,8 triệu tấn, khối lượng luân chuyển đạt khoảng 54.572 triệu T.Km; sản lượng vận tải hành khách dự kiến đạt 895,8 triệu lượt hành khách, khối lượng luân chuyển đạt 37.295,3 triệu HK.Km. So với cùng kỳ năm 2011 đạt 105% về vận chuyển hàng hoá 103% về luân chuyển hàng hoá 109% về vận chuyển hành khách và 110% về luân chuyển hành khách.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
2.1. Xuất nhập khẩu 2 tháng đầu năm và tháng 3 năm 2012
a. Xuất nhập khẩu 2 tháng đầu năm 2012
Xuất khẩu tháng 2 năm 2012 đạt 8,3 tỷ USD, tăng 17%so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 4,7 tỷ USD.
2 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 15,373 tỷ USD, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt gần 8,69 tỷ USD, tăng 51% so với cùng kỳ năm trước.
Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu hầu như không biến động so với cùng kỳ năm 2011, trừ một số mặt hàng xuất khẩu giá giảm mạnh như: giá than đá giảm 29%, giá cao su giảm 36,7%, sắn và sản phẩm từ sắn giảm 6,3%. Tính riêng yếu tố giảm giá của các mặt hàng này làm cho kim ngạch xuất khẩu giảm 154 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu tháng 2 năm 2012 đạt 8,58 tỷ USD, tăng 23,9% so với tháng trước do tháng 1 kim ngạch nhập khẩu bị ảnh hưởng bởi Tết Nguyên đán; trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4,52 tỷ USD.
2 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 15,47 tỷ USD, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt hơn 8,1 tỷ USD, tăng 35,4%.
Giá nhập khẩu bình quân của hầu hết các mặt hàng tăng nhẹ. Giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước như: giá phân bón tăng 15,6%, linh kiện xe máy tăng 12,7%, giấy các loại tăng 2,1%, sắt thép 1,5%, linh kiện, phụ tùng ô tô tăng 4,6%. Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này khiến kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng 86 triệu USD.
Nhập siêu 2 tháng đầu năm 2012 là 100 triệu USD, chiếm hơn 0.65% kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất siêu 550 triệu USD.
Đây là mức xuất siêu tương đối thấp so với cùng kỳ hàng năm bởi 2 tháng đầu năm 2011, tỷ lệ nhập siêu trên kim ngạch xuất khẩu là 16,2%. Trong 2 tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng tháng gần như tương đương nhau, trong khi năm trước thường chênh lệch giữa nhập và xuất trung bình thường trên 1 tỷ USD/tháng. Điều này cho thấy, nhập khẩu trong 2 tháng đầu năm có xu hướng giảm thể hiện nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước cũng có xu hướng giảm.
b. Xuất nhập khẩu tháng 3 năm 2012
Xuất khẩu tháng 3 năm 2012 đạt 9,48 tỷ USD, tăng 14,7%so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 5,05 tỷ USD.
3 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 24,8 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 13,7 tỷ USD, tăng 44,3% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch nhập khẩu tháng 3 năm 2012 đạt 9,055 tỷ USD, tăng 4,7% so với tháng trước, trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 4,685 tỷ USD.
3 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt gần 24,58 tỷ USD, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 12,8 tỷ USD, tăng 24%.
3 tháng đầu năm, lần đầu tiên xuất hiện tình trạng xuất siêu hơn 224 triệu USD. Nguyên nhân do kim ngạch xuất khẩu tháng 3 đã có sự tăng đột biến so với tháng 2: gần 1,2 tỷ USD. Một số mặt hàng có kim ngạch tăng mạnh so với tháng 2 gồm: thủy sản tăng hơn 120 triệu USD, sắn và các sản phẩm từ sắn 60 triệu USD, xăng dầu các loại 290 triệu USD, gỗ và sản phẩm gỗ 100 triệu USD, dệt may 160 triệu USD, máy tính và linh kiện điện tử 200 triệu USD. Trong khi đó, nhập khẩu lại chỉ tăng 500 triệu USD so với tháng 2. Một số mặt hàng chủ yếu có lượng nhập khẩu giảm: xăng dầu 2020 nghìn tấn, giảm 32,1% về lượng và giảm 19,7% về kim ngạch, phân bón 618 nghìn tấn, giảm 27,4% về lượng và giảm 13,4% về kim ngạch, máy móc thiết bị đạt gần 3,4 tỷ USD, giảm 1,4%, vải các loại hơn 1,3 tỷ USD, giảm 11,1%.
Việc xuất siêu là mục tiêu phấn đấu của xuất khẩu trong thời gian tới, tuy nhiên tại thời điểm hiện nay, việc nhập khẩu giảm hơn so với xuất khẩu cho thấy nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước đang giảm sút. Nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đang gặp nhiều khó khăn trong phát triển sản xuất kinh doanh.
2.2. Xuất nhập khẩu tháng 4 và 4 tháng
a. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 4 năm 2012 đạt 8,6 tỷ USD, giảm 9,3%so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 4,6 tỷ USD.
4 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt hơn 33,4 tỷ USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt gần 18,3 tỷ USD, tăng 44% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 4 tháng đầu năm 2012 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt 2416 nghìn tấn, giảm 14,7% về lượng và giảm 3,1% về kim ngạch; than đá ước đạt 4387 nghìn tấn, giảm 5,5% về lượng và giảm 12,2% về kim ngạch; dệt may đạt hơn 4,4 tỷ USD, tăng 14,7%; da giày gần 2 tỷ USD, tăng 9,3%; cao su 263 nghìn tấn, tăng 32,8% về lượng và giảm 8,2% về kim ngạch; gỗ và sản phẩm gỗ 1378 triệu USD, tăng 20,6%; linh kiện điện tử hơn 2,1 tỷ USD, tăng 98,6%; thuỷ sản 1,8 tỷ USD, tăng 13,3%; gạo 1957 nghìn tấn, giảm 28,1% về lượng và 27,8% về kim ngạch; cà phê 650 nghìn tấn, giảm 7,1% về lượng và giảm 7,8% về kim ngạch; sắn và sản phẩm sắn 1860 nghìn tấn, tăng 31% về lượng và tăng 13,3% về kim ngạch...
Lượng xuất khẩu của nhiều mặt hàng chủ yếu đã giảm so với tháng 3 năm 2012 như: thủy sản giảm 40 triệu USD, cà phê giảm 100 triệu USD, dầu thô giảm 35 triệu USD, gỗ và sản phẩm gỗ giảm 70 triệu USD, dệt may giảm 86 triệu USD, máy móc giảm 90 triệu USD, máy tính và linh kiện 140 triệu USD, điện thoại các loại giảm 63 triệuUSD... khiến cho kim ngạch giảm mạnh so với tháng 3.
Về thị trường xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2012, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 17,5% và chiếm tỷ trọng 17% so với kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 20,2% và chiếm tỷ trọng 17,1%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 16,7% và chiếm tỷ trọng 14,7%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 51,3% và chiếm tỷ trọng 12,6%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 24,6% và chiếm tỷ trọng hơn 11,3%.
b. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 4 năm 2012 ước đạt 9 tỷ USD, xấp xỉ tháng trước, trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 4,65 tỷ USD.
4 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt gần 33,58 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt gần 17,5 tỷ USD, tăng 25,9%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 4 tháng đầu năm 2012 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 2744 nghìn tấn, giảm 33,6% về lượng và giảm 21,9% về kim ngạch; sắt thép các loại 2503 nghìn tấn, tăng 5,7% về lượng và tăng 2,9% về kim ngạch; phân bón 838 nghìn tấn, giảm 35,1% về lượng và giảm 22,4% về kim ngạch; giấy các loại 368 nghìn tấn, tăng 7,6% về lượng và tăng 7,1% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 831 nghìn tấn, tăng 3% về lượng và giảm 1,5% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt hơn 4,6 tỷ USD, giảm 0,8%; máy tính và linh kiện gần 3,5 tỷ USD, tăng 98,7%; vải các loại gần 2 tỷ USD, giảm 6,7%; nguyên phụ liệu dệt may 945 triệu USD, tăng 2,7%...
Giá nhập khẩu bình quân của hầu hết các mặt hàng tăng nhẹ. Giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước như: giá phân bón tăng 19,6%, xăng dầu tăng 11,6%, khí đốt hóa lỏng tăng 13,3%. Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này khiến kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng 179 triệu USD.
4 tháng đầu năm 2012, nhập khẩu từ Châu Á chiếm 80,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 11,1%, tỷ trọng ước đạt 23,5%), ASEAN (giảm 1,2%, tỷ trọng gần 19,7%), Hàn Quốc (tăng 13,4%, chiếm tỷ trọng 13,4%), Nhật Bản (tăng 11,1%, chiếm tỷ trọng gần 10,4%) và EU (tăng 13,3%, chiếm tỷ trọng gần 7,2%).
Sau tháng 3 có mức xuất siêu đột biến 400 triệu USD làm cho 3 tháng đầu năm có mức xuất siêu hơn 224 triệu USD, xuất nhập khẩu tháng 4 đã quay lại chu kỳ thông thường (kim ngạch nhập khẩu cao hơn xuất khẩu). Như vậy, ước nhập siêu 4 tháng đầu năm 2012 là 176 triệu USD, bằng 0,52% kim ngạch xuất khẩu.
Việt Nam vẫn nhập siêu chủ yếu với các thị trường Châu Á như Trung Quốc (ước đạt gần 4 tỷ USD), ASEAN (gần 1,7 tỷ USD), Hàn Quốc (hơn 2,8 tỷ USD), Đài Loan (gần 2,2 tỷ USD).
c. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2012:
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2012 tiếp tục duy trì ở mức cao (22,1% so với cùng kỳ 2011) và cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu (4,4%):
+ Các mặt hàng công nghiệp tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Các mặt hàng có kim ngạch lớn như dệt may, da giày, gỗ và sản phẩm gỗ đạt tốc độ tăng trưởng 10-20%; đặc biệt mặt hàng điện thoại và linh kiện tăng gần 154%, máy vi tính và linh kiện 98,6% đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng xuất khẩu.
+ Năm 2011, giá cả xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt mức cao kỷ lục. 4 tháng đầu năm 2012 giá cả hầu hết nông sản xuất khẩu giảm hoặc không tăng so với cùng kỳ năm 2011 và so với giá bình quân cả năm 2011. Ngoài ra, lượng gạo và cà phê xuất khẩu giảm cũng làm kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này giảm thêm. Tính chung cả Quý I/2012, kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng nông sản chính giảm khoảng 560 triệu so với cùng kỳ năm 2011.
- Khu vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong 3 năm liên tục và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2012 của cả nước tăng 6 tỷ USD, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng 5,6 tỷ USD. Nếu tính cả dầu thô, kim ngạch của khu vực FDI tăng 5,5 tỷ USD. Như vậy, xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước chỉ tăng 500 so với cùng kỳ năm 2011.
- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu trong quý I của khu vực FDI(25,9%) cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chung của cả nước, do các mặt hàng chủ lực của khu vực này chủ yếu là gia công, lắp ráp, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nhập khẩu của khu vực này tăng 3,6 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2011, trong khi nhập khẩu của cả nước tăng 1,4 tỷ USD.
- 4 tháng đầu năm 2012 nhập siêu của cả nước ước đạt 176 triệu USD, bằng 0,52% tổng kim ngạch xuất khẩu; trong đó khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu 844 triệu USD; khu vực trong nước nhập siêu 1020 triệu USD.
- Việc giảm nhập siêu là một tín hiệu mừng nhưng mặt khác cho thấy nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước hiện tại đang giảm sút. Nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đang gặp nhiều khó khăn để phát triển sản xuất kinh doanh.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng hai tháng đầu năm năm 2012 ước tính đạt 380,3 nghìn tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 03/2012 ước đạt khoảng 189.055 tỷ đồng, tăng 1,18% so với tháng 02/2012 và tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2011. Tháng 4 ước đạt 192.432 tỷ đồng, tăng 1,79% so với tháng 3 và tăng 21,6% so với cùng kỳ năm 2011.
Tháng 4, trong các thành phần kinh tế tham gia thị trường, thành phần kinh tế cá thể vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 48,3%, tiếp đó là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước với tỷ trọng tương ứng là 35,8% và 11,6%. Giá trị đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,1%, trong khi khu vực kinh tế tập thể chiếm 1,2%.
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Theo Tổng cục Thống kê, Chỉ số giá tiêu dùng tháng Hai năm 2012 tăng 1,37% so với tháng trước, trong đó các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng cao hơn mức tăng chung là: Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,47%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,11% (Lương thực giảm 0,41%; thực phẩm tăng 2,73%). Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn 1% hoặc giảm gồm: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,86%; may mặc, mũ nón, giáy dép tăng 0,55%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,52%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,41%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,29%; giao thông tăng 0,23%; giáo dục tăng 0,07%; bưu chính viễn thông giảm 0,16%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Ba năm 2012 tăng nhẹ ở mức 0,16% so với tháng trước. Đặc biệt chỉ số giá lương thực và thực phẩm đã giảm mạnh, trong đó lương thực giảm 1,21%; thực phẩm giảm 1,25%. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có chỉ số giá tăng cao nhất với 2,31%; nhóm giáo dục tăng 1,11%; giao thông tăng 1,08%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn nhiều hoặc giảm gồm: Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,55%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,48%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,41%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,36%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,16%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,83%; bưu chính viễn thông giảm 0,02%.
Theo dự báo của Vụ Kinh tế dịch vụ, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2012 tăng sẽ tăng thấp, khoảng từ 0,23 – 0,28%. Các nhóm hàng có tốc độ tăng giá cao dự kiến là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống; giao thông; nhà ở, điện, nước, vật liệu xây dựng.
3.3. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu tháng 2 và tháng 3/2012 .
a) Xăng dầu
Tháng 2, so với cùng kỳ tháng 01/2012 giá bình quân của hai loại dầu diễn biến khác nhau, trong khi dầu WTI là 98,88 $/thùng thấp hơn 2,43 $/thùng (2,40%); thì dầu Brent là 116,06$/thùng cao hơn 3,76 $/thùng (3,35%). Lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 02/2012 ước đạt 750 nghìn tấn, với trị giá khoảng 725 triệu USD; tăng 31% so với tháng 01/2012.
Tháng 3, giá dầu thô trên thị trường thế giới tiếp tục duy trì ở mức cao. Giá dầu WTI bình quân là 106,42 đôla mỗi thùng tăng 5,04% so với cùng kỳ. Dầu Brent đạt 124,45 đôla mỗi thùng, tăng 12,15 đôla, tương đương 10,82%. Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục hải quan, lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 3/2012 ước đạt 720 nghìn tấn, với trị giá khoảng 730 triệu USD; giảm 1,2% so với tháng 02/2012. Tính chung cả quý, đã nhập 2.020 nghìn tấn, tương đương với 68% so với cùng kỳ.
Giá xăng dầu trong nước cũng được điều chỉnh. Giá bán lẻ các mặt hàng xăng A92 tăng 2.100 đồng một lít, lên 22.900 đồng. Các mặt hàng dầu hỏa, diesel, mazut cũng tăng giá 600 - 2.000 đồng/lít.
b) Sắt thép
Sản lượng thép các loại nhập khẩu thực hiện tháng 02/2012 đạt 700 nghìn tấn trị giá 540 triệu USD; tăng 37% so với tháng 1/2012; trong đó phôi thép nhập khẩu đạt 40 nghìn tấn, trị giá 26 triệu USD, tăng 29% so với tháng trước.
Tháng 3, do thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu phục hồi, sức tiêu thụ thép trong nước dao động ít, sản xuất sắt, thép giảm 15,8%. Sản lượng thép các loại nhập khẩu thực hiện tháng 3/2012 đạt 600 nghìn tấn trị giá 490 triệu USD; giảm 14% so với tháng 2/2012; trong đó phôi thép nhập khẩu đạt 50 nghìn tấn, trị giá 34 triệu USD, tăng 35% so với tháng trước.
c) Xi măng
Tháng 2 sản lượng xi măng toàn ngành sản xuất ước đạt 2,72 triệu tấn, 2 tháng đầu năm đạt 4,92 triệu tấn bằng 8,9% kế hoạch năm, tiêu thụ 2 tháng đầu năm ước đạt 4,64 triệu tấn, bằng 8,4% kế hoạch năm. Ước nhập khẩu tháng 2 đạt 40 nghìn tấn clinker và xuất khẩu khoảng 200 nghìn tấn xi măng và clinker.
Tháng 3, sản lượng xi măng toàn ngành ước đạt 3 triệu tấn, tăng 10% so với tháng 2, tiêu thụ ước đạt 2,9 triệu tấn, tăng nhẹ so với tháng trước.
Theo Bộ Xây dựng, sản xuất xi măng đang dần vượt nhu cầu tiêu thụ trong nước, đòi hỏi ngành Xi măng phải tăng cường tìm kiếm và mở rộng thị trường, trong đó có thị trường quốc tế. Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu xi măng, các doanh nghiệp đã tăng cường tìm kiếm thị trường ở nước ngoài, hợp lý hoá trong khâu vận chuyển, khắc phục những hạn chế về hoạt động bốc xếp hay logistics để tăng cường xuất khẩu sản phẩm xi măng. Tính đến cuối tháng 2/2012, ngành xi măng đã xuất khẩu được 226.000 tấn xi măng và clinker, tăng 326% so với cùng kỳ năm 2011.
Năm 2011 toàn ngành đã xuất khẩu được trên 5,5 triệu tấn sản phẩm xi măng (chủ yếu là klinker) sang các thị trường như Trung Quốc, Bangladesh, Indonesia, một số nước châu Phi và trong khu vực ASEAN.
d) Phân bón
Tháng 02/2012, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 280 nghìn tấn với trị giá 115 triệu USD; trong đó phân ure là 40 nghìn tấn và trị giá 16 triệu USD.
Nguồn cung tháng 3 các loại phân bón trên thị trường rất dồi dào, trong khi đó sức tiêu thụ các loại phân bón có xu hướng giảm mạnh, do nhiều địa phương ở ĐBSCL đã bước vào thu hoạch lúa đông xuân 2011-2012. Dự báo, giá nhiều loại phân bón còn giảm trong thời gian tới. Hiện nay ở miền Bắc đã vào vụ Đông Xuân nhưng nhu cầu về phân bón rất ít, trong khi đó ở miền Nam đang trong thời kỳ thu hoạch lúa của vụ Đông Xuân. Do nhu cầu phân bón ở thị trường trong nước đang ở mức thấp nên hoạt động mua bán của mặt hàng này qua đường biên giới với Trung Quốc rất chậm, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón trong nước hiện nay chủ yếu tập trung tiêu thụ lượng hàng tồn kho của mình nhằm thu hồi vốn. Dự kiến trong thời gian tới nhu cầu phân bón của thị trường trong nước không đáng kể và giá của các mặt hàng phân bón nói chung vẫn có xu hướng yếu đi.
Hiện giá nhiều loại phân bón như: DAP, Urê, NPK... giảm thêm 15.000-20.000 đồng/bao 50kg. Như vậy, trong 3 tháng qua, giá nhiều loại phân Urê và DAP đã giảm tổng cộng khoảng 100.000-150.000 đồng/bao 50kg
Tháng 3/2012, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 240 nghìn tấn với trị giá 108 triệu USD; trong đó phân ure là 25 nghìn tấn và trị giá 10 triệu USD.
3.4. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu tháng 4/2012 .
a) Xăng dầu
Trong nửa đầu tháng 4/2012, giá dầu thô tiếp tục tăng sau đó giảm nhẹ. Theo đó, giá xăng dầu thành phẩm tại thị trường Singapore diễn biến theo xu hướng của giá dầu thô, nhưng mức giảm thấp hơn, xăng RON 92 là 0,11%, dầu hỏa 0,9%, dầu FO 1,16%.
Giá dầu kỳ hạn thay đổi ít sau khi sụt giảm nhiều nhất trong hai tuần vào hôm 18/4. Bộ Năng lượng Hoa Kỳ cho biết, các nguồn cung cấp của nước này đã tăng 3,9 triệu thùng vào tuần trước. Dự báo của Bloomberg là 1,8 triệu thùng. Giá cũng giảm sau khi phó Thủ tướng Iraq về vấn đề năng lượng cho biết eo biển Hormuz không thể đóng cửa và không có tình trạng thiếu dầu.
Dầu thô giao tháng 5 ở mức 102.76 USD/thùng, tăng 9 cent trên sàn giao dịch buôn bán New York. Giá dầu đã giảm 1,5% hôm qua xuống mức 102,67 USD, mức thấp nhất kể từ 10/4. Hợp đồng giao tháng 6 được giao dịch nhiều nhất tăng 7 cent lên mức 103,19 USD/thùng (19/4).
Trong phiên giao dịch ngày 19/4, giá dầu brent giao tháng 6 tăng 0,4% lên mức 118,40 USD/thùng tại sàn giao dịch ICE, London. Chênh lệch giá giữa loại dầu brent của Châu Âu và dầu WTI của Hoa Kỳ ở mức 15,16 USD so với mức 14,85 USD ngày hôm qua.
Lượng xăng dầu nhập khẩu trong quý I chỉ đạt trên 1,65 triệu m3/tấn, giảm khoảng 42% so với cùng kỳ năm ngoái và chỉ bằng 16% hạn mức tối thiểu của năm nay, trong đó, lượng dầu diesel và dầu FO nhập khẩu giảm trên 50% so với cùng kỳ năm truớc.
Lượng xăng nhập trong ba tháng đầu năm đạt trên 650.000m3, giảm 26% so với cùng kỳ; nhiên liệu bay nhập khẩu giảm 23%. Trong khi đó, lượng xăng dầu nhập khẩu để tái xuất lại đạt mức 860.000m3/tấn, tăng 18,6% so với cùng kỳ. Theo ước tính của một cơ quan thuộc Bộ Công thương, đến hết tháng 4, tổng lượng xăng dầu các loại nhập khẩu sẽ chỉ ở mức trên 2,3 triệu m3/tấn, giảm trên 40% so với cùng kỳ năm 2011.
b) Sắt thép
Hết quý I/2012, nguyên liệu chính của ngành vật liệu xây dựng như thép, xi măng, gạch đều ế ẩm. Sức tiêu thụ giảm, lượng tồn kho đến mức báo động, nên nhiều doanh nghiệp sản xuất cầm chừng hoặc giảm công suất của các nhà máy. Lượng tồn kho của thép tăng 59,1% so với cùng kỳ năm trước.
Lượng thép sản xuất các loại trong quý I ước đạt khoảng 1,469 triệu tấn, tăng 4,8 % so với cùng kỳ. Nhập khẩu thép các loại và sản phẩm từ thép cũng tăng tương ứng là 7,7% và 24,8%.
Dự kiến lượng tiêu thụ tháng 4 ước dao động trong khoảng 420.000- 450.000 tấn. Giá bán thép hiện không có biến động nhiều do thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu phục hồi, nhu cầu xâu dựng chưa nhiều, cộng với tồn kho cao. Tuy nhiên, dự báo sang đầu tháng 5 giá thép có thể sẽ tăng nhẹ do tác động của việc nới tín dụng bất động sản và hạ sãi suất huy động làm thị trường bất động sản ấm dần lên.
c) Xi măng
Số liệu thống kê cho thấy, lượng xi măng sản xuất của toàn ngành trong quý I/2012 là 12,1 triệu tấn, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước, trong khi lượng xi măng tiêu thụ chỉ đạt 10 triệu tấn, giảm 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Gần 2 triệu tấn sản phẩm tồn kho trong 3 tháng đầu năm 2012 là con số báo động, bởi chỉ số tồn kho bình thường của ngành xi măng là dưới 10%.
Theo dự báo của Bộ Xây dựng, lượng xi măng trong năm 2012 sẽ dư thừa vào khoảng 8 - 10 triệu tấn.
Giá nguyên liệu đầu vào là than, dầu, điện tăng và phí vận chuyển cũng tăng lên do tác động của giá xăng dầu tăng đột biến tới 2100 đồng/lít hồi đầu tháng 3 đã làm cho chi phí sản xuất của ngành xi măng tăng cao. Tuy nhiên, do lượng hàng tồn đọng đang ngày một lớn như hiện nay, ngành xi măng đến nay chưa thể tăng giá để bù lỗ cho sản xuất.
d) Phân bón
Thị trường phân bón trong nước thời gian qua đã có phần chuyển biến, giá phân Urea tăng dẫn tới có sự cải thiện cho giá bán DAP và Kali.Bên cạnh đó, việc tăng giá xăng dầu ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất cũng như vận chuyển phân bón các loại cùng với giá phân bón trên thị trường thế giới cũng tăng 5-7 USD/tấn sẽ ảnh hướng kéo giá phân bón trong nước nhích lên.
Nhập khẩu phân bón 3 tháng đầu năm 2012 cũng giảm hơn 13%, trong đó, nhập khẩu phân ure giảm mạnh gần 65% do nhà máy Đạm Cà Mau đã chính thức đưa ra thị trường sản phẩm đầu tiên vào cuối tháng 1 vừa qua.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2012
1. Về phát triển ngành du lịch
1.1 Bối cảnh thực hiện kế hoạch 2012
Trong năm 2012, bối cảnh thế giới thay đổi rất nhanh và rất khó lường. Kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, tình hình chính trị bất ổn tại khu vực Trung Đông, tiềm ẩn nhiều nhân tố đe dọa sự ổn định và tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Tình hình này sẽ tác động tiêu cực vào nền kinh tế nước ta.
Ở trong nước, tình hình giá cả một số mặt hàng cho sản xuất như xăng, dầu, gas,.. tăng cao kéo theo các mặt hàng thiết yếu khác cũng tăng theo, dịch bệnh diễn biến phức tạp xảy ra ở nhiều địa phương trong cả nước, các thông tin gây tác động xấu đến tâm lý người tiêu dùng như thịt lợn siêu nạc, chất độc trong cá chim,v.v. . Đây là những khó khăn, thách thức rất lớn đối phát triển dịch vụ với nước ta.
Mặt khác trong năm 2012, khu vực dịch vụ cần tiếp tục thực hiện tốt các chủ trương theo tinh thần Kết luận số 02 của Bộ Chính trị, Kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ III, Nghị quyết 11 của Chính phủ phù hợp với tình hình trong nước và thế giới Nghị quyết số 01/NQ-CHÍNH PHỦ ngày 03/01/2012 của chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2012; góp phần tạo sự chủ động để ổn định vững chắc hơn kinh tế vĩ mô để tạo tiền đề cho những năm sau, tranh thủ những điều kiện thuận lợi của kinh tế thế giới, phát huy nội lực.
Với mục tiêu tổng quát của năm 2012 là: Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Có thể nói rằng, năm 2012 là năm bản lề để hoàn thành các mục tiêu của những năm tiếp theo đối với khu vực dịch vụ.
1.2 Giải pháp phát triển dịch vụ
a) Hoàn thiện và triển khaiChương trình hành động thực hiện Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020 tập trung vào việc hướng dẫn các đơn vị liên quan triển khai thực hiện CTHĐ của Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020.
b) Nâng cao nhận thức về khu vực dịch vụ: xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và bước đầu triển khai Chương trình nâng cao nhận thức về khu vực dịch vụ (bao gồm các chiến dịch truyền thông, vận động xã hội, các hoạt động nâng cao nhận thức trong các cơ quan liên quan, các địa phương và các hiệp hội ngành nghề);
c) Hoàn thiện khung khổ pháp luật, chính sách phát triển khu vực dịch vụ:
- Rà soát hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến dịch vụ nhằm bảo đảm tránh chồng chéo và phù hợp với các hiệp định quốc tế về dịch vụ.
- Xây dựng và thông qua hoặc điều chỉnh Chiến lược, quy hoạch phát triển các lĩnh vực dịch vụ quan trọng
- Triển khai xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chí phân loại và tiêu chuẩn dịch vụ.
d) Nâng cao vai trò của nhà nước trong quản lý phát triển dịch vụ song hành cùng việc tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về dịch vụ đáp ứng với nhu cầu thực tiễn trong thời gian tới.
e) Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của khu vực dịch vụ năng động, hiện đại
- Hình thành và tổ chức hiệu quả thị trường lao động; giải quyết tốt vấn đề sử dụng lao động từ quan niệm, chế độ, quyền lợi…
- Phát triển mạng lưới dịch vụ giáo dục đào tạo rộng khắp với sự tham gia của khu vực tư nhân trong cung cấp các dịch vụ này.
- Có các biện pháp, chính sách, đảm bảo thông tin thúc đẩy việc đào tạo các kỹ năng cơ bản trong việc sáng lập, quản lý và vận hành các hoạt động dịch vụ, các kỹ năng giao tiếp, ngoại ngữ…
- Thúc đẩy, khuyến khích hoạt động đào tạo thường xuyên do bản chất năng động, luôn biến đổi của khu vực dịch vụ.
- Có chính sách thu hút FDI trong lĩnh vực đào tạo, nâng cao trình độ, tay nghề cho nhân lực trong nước.
f) Nâng cao năng suất, thúc đẩy cạnh tranh và tiếp tục mở cửa khu vực dịch vụ
- Tiếp tục cổ phần hóa và tái cơ cấu các doanh nghiệp Nhà nước không hoạt động trong các thị trường mang tính độc quyền tự nhiên hoặc lĩnh vực liên quan đến quốc phòng, an ninh hoặc dịch vụ công thuần túy.
- Đưa các doanh nghiệp và các đơn vị khác do Nhà nước sở hữu vào diện điều chỉnh của các quy định mua sắm Chính phủ đối với dịch vụ.
- Có chính sách thực hiện mua các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và các dịch vụ khác thông qua đấu thầu cạnh tranh thay vì dựa vào ưu tiên các doanh nghiệp Nhà nước. Điều này sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp dịch vụ tư nhân để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
- Xây dựng lộ trình nhằm dần loại bỏ các rào cản pháp lý đối với khu vực dịch vụ, phù hợp xu thế kinh tế thị trường hiện đại và mức độ khu vực hoá và toàn cầu hoá ngày càng cao.
g) Đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và tăng cường hội nhập quốc tế về dịch vụ thông qua việc:
- Cung cấp dịch vụ cho du khách nước ngoài đến Việt Nam;
- Cung cấp dịch vụ cho các phương tiện nước ngoài tạm thời quá cảnh qua Việt Nam;
- Thúc đẩy việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thương mại đối với cả xuất khẩu và nhập khẩu thông qua việc phát triển các phương tiện vận tải hàng không và đường thủy; Nâng cao năng lực bảo hiểm và tài chính cho thương mại.
- Thúc đẩy việc cung cấp các dịch vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
- Thúc đẩy việc cung cấp các dịch vụ điện tử của Việt Nam cho khách hàng nước ngoài; Thúc đẩy việc cung cấp dịch vụ lao động tạm thời của Việt Nam cho khách hàng nước ngoài;
- Khuyến khích mạnh mẽ hơn đầu tư ra nước ngoài trong khu vực dịch vụ. Thúc đẩy việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng nước ngoài thông qua công ty Việt Nam ở nước ngoài (nhằm hỗ trợ xuất khẩu dịch vụ của các công ty hoạt động trong các lĩnh vực như xây dựng, vận tải, kiến trúc, giải trí, nhà hàng, v.v…).
h) Giải pháp về nguồn lực:
- Nhà nước hỗ trợ đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển khu vực dịch vụ, trong đó tập trung cho các lĩnh vực dịch vụ ưu tiên hoặc được xác định là trọng điểm như trên, có thể được thực hiện thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia và (hoặc) hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu.
- Thực hiện ưu tiên sử dụng ODA phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng khu vực dịch vụ.
- Xây dựng chính sách huy động nguồn lực của khu vực tư nhân; mở rộng thu hút đầu tư gián tiếp thông qua thị trường vốn phục vụ phát triển dịch vụ.
- Tiếp tục hoàn chỉnh các quy định về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong khu vực dịch vụ nhằm thu hút, phát huy hiệu quả nguồn vốn này,đồng thời, nghiên cứu xây dựng các mô hình mới cùng với những hướng dẫn cụ thể nhằm thu hút hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các lĩnh vực dịch vụ trọng điểm, các lĩnh vực được khuyến khích phát triển, đảm bảo hiệu quả và lợi ích của nhà đầu tư, nhà nước và người sử dụng dịch vụ.
- Triển khai thực hiện mô hình Hợp tác Công – Tư (PPP) trong cung cấp các dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ công.
2. Về điều hành xuất nhập khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu
Để tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã đạt được trong năm 2011, phấn đấu đạt kim ngạch 109,5 tỷ USD, cần chú trọng các giải pháp sau:
- Chú trọng nâng cao chất lượng để tăng giá trị với nhóm hàng sản xuất truyền thống (đặc biệt là nông, lâm, thủy sản) không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng. Mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, có đóng góp quan trọng thực hiện kế hoạch xuất khẩu, giải quyết việc làm, ổn định xã hội.
- Nâng cao chất lượng xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng không hạn chế về khả năng sản xuất, dùng nhiều nguyên liệu trong nước. Tăng nguồn kinh phí cho chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.
- Khai thác chiều sâu, chiều rộng thị trường truyền thống cùng với thị trường có chung biên giới. Ðẩy mạnh công tác thông tin, dự báo với thị trường ngoài nước, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
- Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
- Chất lượng còn yếu kém của các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu như vận tải, bảo hiểm, logistic ở Việt Nam hiện nay đang gây hạn chế cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Đây là vấn đề cần được tập trung cải thiện trong thời gian trước mắt.
b. Kiểm soát nhập khẩu
- Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
- Đảm bảo nhập khẩu đủ hàng hóa đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu,.
3. Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
a. Các giải pháp nhằm bảo đảm cung- cầu hàng hóa
- Nắm bắt kịp thời các diễn biến của thị trường, dự báo đúng và sớm các tình huống có thể xảy ra để có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả.
- Các tỉnh, thành phố tiếp tục triển khai các biện pháp nhằm bảo đảm nguồn cung, bình ổn giá cho thời đầu năm 2012.
-Thắt chặt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, xử lý kịp thời và nghiêm minh các trường hợp vi phạm trong hoạt động thương mại.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, sắt thép…
- Tiếp tục triển khai đưa hàng hóa về các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để mở rộng thị trường, nâng cao thị phần của hàng nội.
- Tiếp tục khai thác tốt năng lực sản xuất và nhu cầu thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu ra các thị trường.
- Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án đầu tư phát triển sản xuất các mặt hàng thiết yếu để đưa vào vận hành, tạo nguồn cung đáp ứng đủ cho nhu cầu của thị trường.
- Kịp thời trình Chính phủ phương án xuất cấp lương thực và các phương tiện tìm kiếm cứu nạn dự trữ nhà nước cho các địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền Trung để hỗ trợ khắc phục kịp thời hậu quả thiên tai, đảm bảo an sinh xã hội.
b. Các giải pháp nhằm bình ổn giá
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 11/NQ-CP về 06 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội những tháng cuối năm 2011.
- Tiếp tục thực hiện các chương trình bình ổn giá, đặc biệt là tại hai thành phố lớn là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là hai thành phố có quyền số tính chỉ số giá lớn nhất trong cả nước, vì vậy, công tác bình ổn của hai thành phố này sẽ góp phần quyết định trong việc bình ổn giá trong phạm vi cả nước.
- Tại các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh cần tiếp tục mở rộng các chương trình khuyến mại, giảm giá đã phát huy hiệu quả trong thời gian qua nhằm kích thích tiêu dùng, tạo động lực cho các doanh nghiệp sản xuất và phân phối trong nước.
- Quản lý chặt chẽ việc cung cấp thông tin, phát hiện và xử lý nghiêm khắc các trường hợp tung tin thất thiệt, gây hoang mang trong tâm lý nhân dân, tạo biến động giá xấu, ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
- Tính toán lộ trình tăng giá các mặt hàng là đầu vào của các ngành sản xuất như xăng dầu, điện và giá than vào các thời điểm thích hợp vừa đảm bảo theo tín hiệu thị trường nhưng cũng không gây ra áp lực tăng giá cho các hàng hóa khác.
- Bộ Công Thương phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và địa phương chỉ đạo quyết liệt các doanh nghiệp nhà nước, đảm bảo không tăng giá. Kiểm tra đôn đốc thường xuyên để phát hiện và xử lý ngay các trường hợp vi phạm.
- Bộ Tài chính cần phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, điều chỉnh chính sách thuế cho phù hợp, kịp thời, góp phần bình ổn giá, kiềm chế nhập siêu.
- Triển khai kiểm soát công tác đăng ký giá, kê khai giá, công khai thông tin về giá. Kiểm tra việc chấp hành pháp luật Nhà nước về giá.
- Tiếp tục triển khai các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn, về mở rộng thị trường, về thủ tục hành chính... để giúp các doanh nghiệp dự trữ hàng hóa, chuẩn bị đủ chân hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong các dịp lễ.
- Các Bộ chuyên ngành chỉ đạo các Tổng công ty và doanh nghiệp thực hiện nhiều biện pháp nhằm tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất, giảm định mức tiêu hao từ đó giúp hạ giá thành sản phẩm.
- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thông qua khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước.
3.2. Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
- Bộ Công Thương phối hợp với các đơn vị liên quan kiểm tra, giám sát đảm bảo cân đối cung cầu xăng dầu trong nước với giá ổn định.
- Kiểm tra, giám sát chất lượng xăng dầu cung ứng trên thị trường, đảm bảo an toàn cho các phương tiện sử dụng.
b) Sắt thép
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thép.
- Xây dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế thép rẻ kém chất lượng thâm nhập thị trường trong nước.
c) Phân bón
- Các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị nguồn hàng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu, tránh tăng giá đột biến, đặc biệt khi bước vào cao điểm mùa vụ.
- Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt.
- Theo dõi chặt chẽ giá phân bón thế giới để có biện pháp điều tiết nhập khẩu và sản xuất phù hợp, không để xảy ra tình trạng thiếu phân bón gây sốt giá cục bộ, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
- Tăng cường công tác hải quan tại các cửa khẩu, đặc biệt là tại phía Bắc nhằm giảm buôn lậu phân bón qua đường tiểu ngạch.
d) Xi măng
- Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên thị trường các nước Trung Quốc, Bangladesh, Indonesia, một số nước châu Phi và trong khu vực ASEAN và tiếp tục tìm kiếm, mở rộng thị trường sang các nước khác./.
File đính kèm: BC KTDV T4.12.pdf
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư