Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 08/10/2012-09:18:00 AM
Báo cáo kết quả thực hiện các ngành thương mại – dịch vụ 9 tháng năm 2012
Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 24 tháng 9 năm 2012.
I. BỐI CẢNH CHUNG
Tháng 8 và đầu tháng 9, giá nhiều loại hàng hoá trên thị trường thế giới có xu hướng tăng nhẹ do sự kỳ vọng vào gói kích thích kinh tế của một số nước lớn như Mỹ, Trung Quốc và căng thẳng chính trị leo thang tại Trung Đông. Giá các mặt hàng như dầu thô, khí dầu mỏ hoá lỏng, thức ăn chăn nuôi, gạo... tăng, trong khi giá đường, phân bón... ổn định, nguồn cung dồi dào.
Trong nước, mặc dù Chính phủ và các Bộ, ngành đã đưa ra nhiều giải pháp hỗ trợ, tuy nhiên do độ trễ của chính sách nên tình trạng khó khăn chung của nền kinh tế chưa được cải thiện nhiều, hàng hoá tiêu thụ vẫn ở mức thấp, trong khi giá cả một số nguyên liệu đầu vào như xăng, dầu lại tăng cao gây áp lực tăng giá cho nhiều mặt hàng, nhất là hàng thực phẩm... Thời gian tới, khi chính sách hỗ trợ của Nhà nước đến với các doanh nghiệp một cách có thực chất hơn, dự báo tiêu thụ hàng hoá sẽ tăng khá, hoạt động sản xuất và kinh doanh sẽ sôi động hơn, tác động tích cực đến hoạt động thương mại dịch vụ trong nước.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN 9 THÁNG NĂM 2012
1. Du lịch
Ước 9 tháng đầu năm 2012: Số lượt khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 4,72 triệu lượt, tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm 2011. Một số thị trường khách quốc tế đến Việt Nam 9 tháng đầu năm tăng trưởng so với cùng kỳ năm ngoái như: dẫn đầu là thị trường Hàn Quốc (tăng khoảng 38%), tiếp đến là Malaisia (tăng khỏang 24%), Thái Lan (tăng khoảng 22%), Nhật Bản (tăng khoảng 22%), Đài Loan (tăng 16%),...riêng khách du lịch Úc, Cămpuchia, đặc biệt là khách du lịch Trung Quốc giảm so với cùng kỳ năm trước; trong đó khách đi theo mục đích du lịch và nghỉ ngơi chiếm khoảng 60%, theo công việc khoảng 17%, thăm thân nhân 17,7% và theo mục đích khác 5,6%.
Tiếp nối đà tăng trưởng của năm 2011, thị trường khách du lịch nội địa tiếp tục chuyển biến mạnh mẽ trong 9 tháng đầu năm 2012. Số lượt khách du lịch nội địa 9 tháng ước đạt 25 triệu lượt tăng khoảng 8% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu 9 tháng đầu năm của ngành du lịch ước đạt khoảng 113.000 tỷ đồng, tăng khoảng 26% so với cùng kỳ năm 2011.
Dự kiến cả năm 2012, doanh thu ngành du lịch đạt trên 150.000 tỉ đồng tăng khoảng 15,4 % so với năm 2011 và bằng kế hoạch đề ra. Lượng khách quốc tế dự kiến đạt 6,3-6,5 triệu lượt khách, tăng khoảng 5% so với năm 2011 (không đạt kế hoạch đề ra 6,807 triệu lượt). Khách du lịch nội địa đạt khoảng 32 triệu lượt, tăng 6,67% so với năm 2011 .
Nguyên nhân của việc không đạt kế hoạch đề ra:
- Trong những tháng cuối năm 2012, do yếu tố khách quan một số thị trường khách du lịch quốc tế được dự báo có xu hướng giảm, trong đó lượng khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam dự báo giảm đáng kể, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc ngành du lịch không đạt kế hoạch về tăng trưởng khách du lịch quốc tế.
- Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch có tiến bộ, nhưng tính chuyên nghiệp chưa cao.
- Chưa tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo, đặc trưng của du lịch của từng vùng, cũng như của du lịch du lịch Việt Nam; chất lượng dịch vụ du lịch còn bất cập, chưa đáp ứng kịp yên cầu phát triển du lịch quốc gia.
- Sự suy thoái của kinh tế thế giới và các dịch bệnh xảy ra liên tiếp đã ảnh hưởng xấu đến ngành du lịch Việt Nam.
2. Xuất nhập khẩu
a. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 9 năm 2012 đạt 9,7 tỷ USD, giảm 5,9%so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 5,5 tỷ USD.
9 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt gần 83,79 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt hơn 46,1 tỷ USD, tăng 37,9% so với cùng kỳ năm trước và chiếm tỷ trọng 55,1% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 9 tháng đầu năm 2012 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt gần 7,2 triệu tấn, tăng 14,3% về lượng và tăng 14,7% về kim ngạch; than đá ước đạt gần 10,7 triệu tấn, giảm 16,5% về lượng và giảm 27,2% về kim ngạch; dệt may đạt 11,3 tỷ USD, tăng 8,4%; da giày hơn 5,2 tỷ USD, tăng 12,9%; gỗ và sản phẩm gỗ gần 3,4 tỷ USD, tăng 19,7%; điện thoại các loại và linh kiện gần 8,6 tỷ USD, tăng 120,5%; linh kiện điện tử gần 5,4 tỷ USD, tăng 77,4%; thuỷ sản gần 4,5 tỷ USD, tăng 2,2%; cao su 729 nghìn tấn, tăng 37,5% về lượng và giảm 9,8% về kim ngạch; gạo 6,4 triệu tấn, tăng 7,1% về lượng và giảm 3,2% về kim ngạch; cà phê 1343 nghìn tấn, tăng 34,6% về lượng và tăng 29,5% về kim ngạch...
Giá cả của hầu hết các mặt hàng nông sản giảm so với cùng kỳ: gạo giảm 9,7%; cao su giảm 34,4%; cà phê giảm 3,8%; hạt điều giảm 18,3%; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 13,6%.
Về thị trường xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2012, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 17,7% và chiếm tỷ trọng 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 23,5% và chiếm tỷ trọng 17,1%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 26,1% và chiếm tỷ trọng 14,8%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 28,8% và chiếm tỷ trọng 11,6%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 20,5% và chiếm tỷ trọng 11,2%.
b. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 9 năm 2012 ước đạt 9,8 tỷ USD, giảm 4,5%so với tháng trước, trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 5,3 tỷ USD.
9 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 83,76 tỷ USD, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 43,9 tỷ USD, tăng 24,8%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 9 tháng đầu năm 2012 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 7262 nghìn tấn, giảm 13,9% về lượng và giảm 8,5% về kim ngạch; sắt thép các loại 5625 nghìn tấn, tăng 3,7% về lượng và giảm 4,3% về kim ngạch; phân bón 2626 nghìn tấn, giảm 13,6% về lượng và giảm 9% về kim ngạch; giấy các loại 876 nghìn tấn, tăng 14,1% về lượng và tăng 8,9% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 1986 nghìn tấn, tăng 7,6% về lượng và tăng 0,7% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt gần 12,1 tỷ USD, tăng 4,8%; máy tính và linh kiện gần 9,3 tỷ USD, tăng 80,9%; nguyên phụ liệu dệt may gần 2,3 tỷ USD, tăng 3%...
9 tháng đầu năm 2012, nhập khẩu từ Châu Á chiếm 79,3% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 17,1%, tỷ trọng ước đạt 24,7%), ASEAN (giảm 2,5%, tỷ trọng 18,3%), Hàn Quốc (tăng 19,5%, chiếm tỷ trọng 13,5%), Nhật Bản (tăng 15,7%, chiếm tỷ trọng 10,4%) và EU (tăng 21,9%, chiếm tỷ trọng hơn 8,2%).
9 tháng đầu năm 2012, cả nước xuất siêu 34 triệu USD, bằng 0,04% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn nhập siêu lớn với các nước như Trung Quốc (ước đạt gần 11,3 tỷ USD), ASEAN (gần 3 tỷ USD), Hàn Quốc (7,3 tỷ USD), Đài Loan (hơn 4,8 tỷ USD).
c. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 9 tháng đầu năm 2012
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2012 tiếp tục duy trì ở mức cao (18,9% so với cùng kỳ 2011) và cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu (6,6%):
+ Các mặt hàng công nghiệp tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đặc biệt mặt hàng điện thoại và linh kiện tăng 120,5%, máy vi tính và linh kiện 77,4% đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng xuất khẩu (riêng 2 mặt hàng này đã góp phần làm kim ngạch xuất khẩu tăng 7 tỷ USD.
+ Năm 2011, giá cả xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt mức cao kỷ lục. 9 tháng đầu năm 2012 giá cả hầu hết nông sản xuất khẩu giảm hoặc không tăng so với cùng kỳ năm 2011 và so với giá bình quân cả năm 2011. 9 tháng đầu năm 2012, nhóm hàng nông lâm thủy hải sản chỉ tăng khoảng 1 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2011.
- Khu vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong 3 năm liên tục và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2012 của cả nước tăng 13,32 tỷ USD, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (kể cả dầu thô) tăng 13,5 tỷ USD.
- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 9 tháng của khu vực FDI(24,8%) cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chung của cả nước, do các mặt hàng chủ lực của khu vực này chủ yếu là gia công, lắp ráp, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nhập khẩu của khu vực này tăng gần hơn 8,7 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2011, trong khi nhập khẩu của cả nước tăng 5,2 tỷ USD.
- 9 tháng đầu năm 2012 cả nước xuất siêu ước đạt 34 triệu USD, bằng 0,04% tổng kim ngạch xuất khẩu; trong đó khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu 2278 triệu USD.
- Như vậy, 9 tháng đầu năm 2012, cả nước đã xuất siêu thay vì nhập siêu như trước đây. Việc xuất siêu là một tín hiệu đáng mừng nhưng mặt khác cho thấy nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước hiện tại đang giảm sút. Nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đang gặp nhiều khó khăn để phát triển sản xuất kinh doanh.
3. Thị trường trong nước
9 tháng đầu năm dự báo tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.709,22 nghìn tỷ đồng, tăng 17,04% so với cùng kỳ năm 2011, nếu loại trừ yếu tố giá thì tốc độ tăng là 6,6-6,9%.
Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 5,13% so với tháng 12 năm 2011.
Như vậy, CPI đã tăng 6,48% so với tháng cùng kỳ năm 2011 và bình quân 9 tháng năm 2012 tăng 9,96%.
Nguyên nhân chủ yếu của việc tăng này là do tăng phí dịch vụ y tế, học phí giáo dục, xăng dầu, gas.
c. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
(1) Xăng dầu
Thị trường xăng dầu thế giới, sau khi tăng liên tiếp những ngày đầu tháng 9 lại có xu hướng giảm nhẹ và ổn định hơn trongnhững ngày gần đây, tại phiên giao dịch ngày 18 tháng 9, giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 10 trên sàn hàng hóa New York giảm 1,33 USD, tương ứng 1,4%, xuống còn 95,29 USD/thùng. Cùng với mức giảm 2,4% trong phiên ngày 17/9, thị trường dầu thô đã giảm giá hai ngày liên tiếp, với mức giảm tổng cộng lớn nhất trong gần hai tháng qua.
Trên sàn giao dịch hàng hóa London, giá dầu thô ngọt, nhẹ Brent Biển Bắc cũng hạ mạnh 1,76 USD xuống còn 112,03 USD/thùng. Dầu thô Brent đang chịu áp lực giảm giá mạnh từ các báo cáo cho biết Saudi Arabia đang giữ sản lượng cao để hạ nhiệt giá dầu vốn đã leo thang liên tiếp những ngày đầu tháng 9 vừa qua.
Bên cạnh yếu tố trên, thị trường năng lượng thế giới còn chịu ảnh hưởng bởi các dự báo về lượng cung xăng, dầu thô, chế phẩm khác từ dầu trong tuần qua đã tăng mạnh,các chuyên gia dự báo cung dầu thô tuần qua đã tăng 2,5 triệu thùng.
Tại thị trường trong nước, giá xăng dầu liên tục tăng trong thời gian vừa qua gây ảnh hưởng nhiều đến các thành phần kinh tế, liên Bộ Tài chính Công Thương đã đã họp và thống nhất chỉ đạo điều hành kinh doanh xăng dầu theo hướng: Không tăng, giữ ổn định giá bán lẻ tất cả các chủng loại xăng, dầu như hiện hành. Sử dụng các công cụ tài chính để giữ ổn định giá xăng, dầu trong nước như Thuế suất thuế nhập khẩu xăng dầu được điều chỉnh giảm 2% theo (Thông tư số 148/2012/TT-BTC ngày 11 tháng 9 năm 2012), cụ thể như sau: Dầu điêzen từ 10% xuống 8%; Dầu mazút, dầu hoả từ 12% xuống 10%; Thuế suất thuế nhập khẩu xăng giữ như quy định hiện hành là 12% .
Như vậy giá bán lẻ các mặt hàng xăng dầu hiện ở mức như sau:
Đơn vị tính: VNĐ/lít,kg
Mặt hàng
Giá bán hiện hành
Giá cơ sở
Chênh lệch giữa giá cơ sở với giá bán hiện hành
(1)
(2)
(3)=(2)-(1)
1. Xăng RON 92
23.650
24.545
+ 895
2. Điêzen 0,05 S
21.850
23.216
+1.366
3. Dầu hoả
21.900
23.315
+1.415
4. Madút
18.650
19.869
+1.219
Về Quỹ Bình ổn giácho phép các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối được sử dụng Quỹ Bình ổn giá tính cho lượng xăng, dầu thực tế bán ra ở nhiệt độ thực tế đối với các mặt hàng xăng, dầu để bù đắp chênh lệch giữa giá cơ sở và giá bán hiện hành cụ thể như sau: Xăng 500 đồng/lít; Dầu điêzen, dầu hoả, dầu mazút: 500đồng/lít, kg (tăng mức sử dụng Quỹ Bình ổn giá 200 đồng/lít,kg từ 300 đồng/lít lên 500 đồng/lít); thời điểm thực hiện sử dụng Quỹ Bình ổn giá được áp dụng từ ngày 11 tháng 9 năm 2012.
(2) Sắt thép
Thị trường Thép thế giớivẫn tiếp tục trầm lắng so với tháng trước do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, giá thép tấm dày vừa vẫn tiếp tục giảm dù tại thị trường Mỹ, và Châu Âu. Tại Thị trường Châu Á, giá thép tại Thượng Hải có tăng nhẹ trong nửa đầu tháng 9 nhưng lại giảm trong những ngày gần đây. Nhu cầu thép tại Trung Quốc suy yếu bởi nguồn cung dư thừa do các nhà máy sản xuất tiếp tục tối đa hóa công suất. Sản lượng thép thô hàng ngày của Trung Quốc đã tăng 1,2% lên 1,895 triệu tấn trong 10 ngày đầu tháng 9/2012 so với 11 ngày trước đó. Hiện giá quặng sắt đã giảm khoảng ¼so với mức đầu tháng 7. Giá quặng sắt đã giảm xuống mức thấp nhất trong gần 3 năm qua, đạt 86,7 USD/tấn trong phiên giao dịch ngày 19 tháng 9 năm 2012, do nhu cầu thép suy yếu đã đẩy những người mua Trung Quốc rời khỏi thị trường.
Tại thị trường trong nước, Trong tháng 9, do vẫn trong mùa mưa nên tiến độ xây dựng các công trình vẫn chậm, lượng thép tiêu thụ tăng không nhiều so với tháng trước. Theo Hiệp hội thép Việt Nam ước sản xuất thép các loại trong tháng 9 đạt khoảng 320.000 tấn và ước 9 tháng đạt 2,98 triệu tấn, giảm 35.000 tấn so với cùng kỳ (giảm -10%). Nhập khẩu thép vào Việt Nam khoảng 600.000 tấn, ước 9 tháng khoảng 137.500 tấn gây trở ngại rất nhiều cho các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước, trong khi giá thép nhập từ Trung Quốc chỉ khoảng 11 -12 triệu đồng/tấn đã bao gồm cả thuế. Hiện nay, giá bán lẻ thép giảm 800 đồng/kg so với tháng trước, ở mức 17.400 - 18.200 đồng/kg. Để đẩy mạnh tiêu thụ, tránh tồn kho và ứ đọng vốn, phần lớn các doanh nghiệp sản xuất thép đã thực hiện các giải pháp tăng chiết khấu bán hàng, hỗ trợ chi phí vận chuyển và các khoản chi phí khác cho các đại lý hoặc chuyển tiền chậm trong tháng so với hợp đồng mua bán.
Dự báo trong thời gian tới, nhu cầu thép xây dựng tiếp tục ổn định.
(3) Xi măng
Sản xuất và tiêu thụ: Sản xuất và tiêu thụ xi măng tháng 9 tăng nhẹ so với tháng 8 nhưng vẫn giảm từ 7-10% so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất tháng 9 ước đạt 3,79 triệu tấn tấn, 9 tháng đầu năm ước đạt 32,50 triệu tấn, giảm 1,20 triệu tấn so với cùng kỳ 2011.Tiêu thụ tháng 9 ước đạt 3,63 triệu tấn tăng 19.000 tấn so với tháng 8, 9 tháng ước đạt 30,59 triệu tấn, giảm 1,22 triệu tấn so với cùng kỳ.
Xuất khẩu: Theo Báo cáo của Hiệp hội xi măng đến tháng 9 năm 2012 ngành xi măng đã xuất khẩu 0,8 triệu tấn xi măng và 4 triệu tấn clinke.
Tồn kho của ngành xi măng đang ở mức cao với 0,63 triệu tấn tương đương tháng 8/2012, clinke 2,13 triệu tấn.
Giá bán: Giá bán xi măng trong tháng 9 ổn định phổ biến ở mức (PCB 30 từ 1.240.000-1.260.000 đồng/tấn; PCB 40 từ 1.280.000-1.630.000 đồng/tấn. Giá bán lẻ cũng được điều chỉnh giảm từ 80.000-100.000đồng/tấn, tại miền Bắc 1.300.000-1.500.000đồng/tấn, miền nam 1.600.000-1.700.000đồng/tấn.
Dự báo trong tháng 10/2012 giá xi măng tiếp tục ổn định và sẽ tăng nhẹ vì bắt đầu vào mùa xây dựng.
(4) Phân bón
Trong tháng 9/2012 giá phân bón trên thị trường thế giới không có biến động khác thường, các nhà nhập khẩu có tâm lý chờ giá xuống mới nhập, tuy nhiên giá phân bón không giảm nhiều mà có điều chỉnh tăng do giá dầu tác động. Sau đó giảm nhẹ và hiện ở mức tương đương tháng trước. Giá Urê chào trong đầu tháng 9 là 370 - 382 USD/tấn fob, tại Trung Đông: 405 - 410 đô/tấn fob, tại Trung Quốc: 375-380USD/tấn fob.
Tại thị trường trong nước, nhu cầu phân bón chưa có biến động do hiện nay cả ba miền đang chuẩn bị bước vào thu hoạch lúa hè thu, giá phân bón trên thị trường tiếp tục ổn định. Tại các tỉnh phía Bắc, giá Urê phổ biến ở mức 10.200 – 11.000đ/kg; phân Supe Lân Lâm Thao 3.500 - 4.000 đ/kg; NPK5-10-3 Lâm Thao có giá phổ biến 4.500 – 5.000đ/kg; Kali 11.600-12.200đ/kg (ổn định); DAP là 14.000-14.500đ/kg. Tại các tỉnh phía nam Urê Phú Mỹ có giá 11.500 -12.000đồng/kg; Urê Trung Quốc có giá 10.700 – 11.200đồng/kg.
Dự báo, bước vào tháng 10/2012, thị trường phân bón sẽ giảm nhẹ với giá bán phân bón có thể giảm từ 400-600 đồng/kg nhờ nguồn cung của Nhà máy đạm Ninh Bình công suất 560.000 tấn/năm và Nhà máy Đạm Cà Mau đã đi vào hoạt động.
II. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CÁC THÁNG CUỐI NĂM 2012
1. Du lịch
- Tích cực triển khai, phổ biến và thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030 và triển khai quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030, đồng thời xây dựng một loạt các quy hoạch phát triển bền vững, đặc biệt là bảy vùng du lịch trọng điểm làm cơ sở cho thu hút đầu tư, quảng bá du lịch của cả nước nới chung, của các vùng, địa phương nói riêng.
- Tập trung thực hiện thành công các chương trình, hoạt động của năm du lịch Quốc Gia duyên hải Bắc Trung Bộ - Huế 2012 với chủ đề "Du lịch di sản".
-Tiếp tục đột phá vào vấn đề tăng cường quản lý điểm đến thông qua việc kiểm soát chất lượng dịch vụ và quản lý môi trường du lịch. Đây cũng chính là một trong những điểm yếu, hạn chế đã tồn tại từ nhiều năm trước, nhưng chưa được khắc phục triệt để.
- Đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, xúc tiến ở trong nước và nước ngoài, các hoạt động về nghiệp vụ theo yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra của ngành.
-Ngành du lịch cần có các chiến dịch nhằm thay đổi khái niệm, nhận thức về du lịch cộng đồng trong xã hội. Đó là phát triển du lịch mang lại nguồn lợi cho cộng đồng, phát triển kinh tế địa phương với khái niệm phát triển du lịch có trách nhiệm hay du lịch bền vững, như các nước Ấn Độ, Kenya đã thực hiện rất thành công. Người dân bản địa không làm du lịch, mà chỉ tham gia, trong khi đóng góp kinh tế chính là các doanh nghiệp khai thác du lịch tại địa bàn, với việc đóng 10% doanh thu, lợi nhuận cho địa phương.
- Triển khải có hiệu quả chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (ESRT) giai đoạn 2011 – 2015 do EU tài trợ, đây là điều kiện thuận lợi về tài chính để triển khai các chương trình phát triển du lịch trọng điểm.
2. Xuất nhập khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu
Để tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã đạt được trong năm 2011, phấn đấu đạt mức tăng trưởng xuất khẩu 13%, cần chú trọng các giải pháp sau:
- Chú trọng nâng cao chất lượng để tăng giá trị với nhóm hàng sản xuất truyền thống (đặc biệt là nông, lâm, thủy sản) không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng. Mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, có đóng góp quan trọng thực hiện kế hoạch xuất khẩu, giải quyết việc làm, ổn định xã hội.
- Nâng cao chất lượng xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng không hạn chế về khả năng sản xuất, dùng nhiều nguyên liệu trong nước. Tăng nguồn kinh phí cho chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.
- Khai thác chiều sâu, chiều rộng thị trường truyền thống cùng với thị trường có chung biên giới. Ðẩy mạnh công tác thông tin, dự báo với thị trường ngoài nước, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
- Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
- Chất lượng còn yếu kém của các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu như vận tải, bảo hiểm, logistic ở Việt Nam hiện nay đang gây hạn chế cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Đây là vấn đề cần được tập trung cải thiện trong thời gian trước mắt.
Kiểm soát nhập khẩu
- Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
- Bộ Công Thương chủ trì xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, phát triển công nghiệp phụ trợ, tăng cường sử dụng máy móc vật tư, thiết bị sản xuất trong nước theo chỉ đạo của Chính phủ.
- Xác định mức độ ưu tiên tiếp cận ngoại tệ đối với các nhóm mặt hàng không thiết yếu, hàng không khuyến khích nhập khẩu, hàng trong nước sản xuất được, đưa ra quy định, nguyên tắc khi cho vay nhập khẩu.
- Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.
- Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
- Tăng cường công tác hậu kiểm về chất lượng, an toàn vệ sinh đối với sản phẩm nhập khẩu và lưu thông theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn; thực hiện các biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và tạo hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu, kiểm soát việc nhập nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu...
- Rà soát các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã ký kết và cẩn trọng trong việc đẩy mạnh đàm phán ký kết các Hiệp định mới. Các Hiệp định thương mại quốc tế một mặt tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho hàng Việt Nam, mặt khác cũng gây nguy cơ nhập siêu nếu không đàm phán chặt chẽ.
- Tiếp tục nhấn mạnh nhóm biện pháp thông tin tuyên truyền, nhất là chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, coi đây là một kênh gián tiếp nhằm tăng tỷ lệ sử dụng hàng Việt Nam, qua đó giảm tỷ lệ hàng nhập khẩu.
3. Thị trường trong nước
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 03/01/2012 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012.
-Thắt chặt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, xử lý kịp thời, đặc biệt tại các điểm nóng, vùng giáp biên, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo, đặc biệt là đối với các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, xi măng, sắt thép, dược phẩm.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu…
- Nhanh chóng có giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA nhằm gia tăng tiêu thụ hàng tồn kho của các doanh nghiệp sản xuất, nhanh chóng đưa công trình vào hoàn thành, khai thác, sử dụng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
- Thực hiện hỗ trợ nhanh và kịp thời vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước; Nghiên cứu giải pháp khuyến khích tiêu thụ, kích cầu tiêu dùng để tăng cường tiêu thụ sản phẩm, giảm tồn kho nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất./.

File đính kèm:
BCKTDichvuT9.12.pdf

Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1546
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)