Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 13/12/2012-09:29:00 AM
Báo cáo kết quả thực hiện các ngành thương mại – dịch vụ 11 tháng năm 2012
Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 23 tháng 11 năm 2012.
I. BỐI CẢNH CHUNG
Thị trường thế giới tháng 10 và tháng 11 có nhiều diễn biến trái chiều, giá các hàng hoá thiết yếu như dầu thô, phôi thép, đường tiếp tục ổn định hoặc giảm nhẹ do tăng trưởng kinh tế thế giới vẫn chưa có nhiều dấu hiệu khả quan. Tuy nhiên, giá một số hàng hoá nông sản như gạo, lúa mỳ, đậu tương, phân bón, LPG tăng nhẹ do nguồn cung hạn chế và nhu cầu cao hơn.
Trong nước, việc thực hiện các giải pháp đồng bộ và quyết liệt của bộ, ngành, địa phương theo Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính phủ đang có những tín hiệu tích cực, lãi suất ngân hàng tiếp tục được điều chỉnh giảm, tỷ giá ổn định, nhập siêu được kiểm soát tốt, các lĩnh vực đầu tư, chi tiêu ngân sách được cải thiện.... Tuy nhiên thị trường trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, sức mua trên thị trường vẫn còn thấp, hiệu quả hoạt động sản xuấtkinh doanh của nhiều doanh nghiệp tiếp tục giảm sút. Thời gian tới, khi chính sách hỗ trợ của Nhà nước đến với các doanh nghiệp một cách có thực chất hơn và thêm vào hiệu ứng của Tết Dương lịch, Tết Âm lịch, dự báo tiêu thụ hàng hoá sẽ tăng khá, hoạt động sản xuất và kinh doanh sẽ sôi động hơn, tác động tích cực đến hoạt động thương mại dịch vụ trong nước.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN 11 THÁNG NĂM 2012
1. Du lịch
2. Xuất nhập khẩu
a. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 11 năm 2012 đạt 10,2 tỷ USD, giảm 1,2%so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 5,9 tỷ USD.
11 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt hơn 104 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt gần 57,85 tỷ USD, tăng 34,5% so với cùng kỳ năm trước và chiếm tỷ trọng 55,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 11 tháng đầu năm 2012 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt 8,8 triệu tấn, tăng 14,4% về lượng và tăng 15% về kim ngạch; than đá ước đạt gần 13,3 triệu tấn, giảm 16,1% về lượng và giảm 27,1% về kim ngạch; dệt may đạt 13,8 tỷ USD, tăng 8,2%; da giày đạt 6,5 tỷ USD, tăng 11%; gỗ và sản phẩm gỗ gần 4,2 tỷ USD, tăng 18,4%; điện thoại các loại và linh kiện hơn 11,4 tỷ USD, tăng 101,6%; linh kiện điện tử đạt 6,9 tỷ USD, tăng 67,1%; thuỷ sản hơn 5,6 tỷ USD, tăng 1,8%; cao su 910 nghìn tấn, tăng 29% về lượng và giảm 11,5% về kim ngạch; gạo 7,45 triệu tấn, tăng 9,7% về lượng và giảm 1,8% về kim ngạch; cà phê 1551 nghìn tấn, tăng 40,9% về lượng và tăng 37,1% về kim ngạch...
Giá cả của hầu hết các mặt hàng nông sản giảm so với cùng kỳ: gạo giảm 10,5%; cao su giảm 31,4%; cà phê giảm 2,7%; hạt điều giảm 19,6%; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 12,3%.
Về thị trường xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2012, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 17% và chiếm tỷ trọng 17,2% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 21,3% và chiếm tỷ trọng 17,3%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 28,1% và chiếm tỷ trọng 15,2%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 23,3% và chiếm tỷ trọng 11,4%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 11,1% và chiếm tỷ trọng 10,7%.
b. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 11 năm 2012 ước đạt 10,25 tỷ USD, tăng 0,8% so với tháng trước, trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 5,7 tỷ USD.
11 tháng đầu năm 2012, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt gần 104 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt gần 55 tỷ USD, tăng 24,3%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 11 tháng đầu năm 2012 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 8596 nghìn tấn, giảm 14% về lượng và giảm 9,3% về kim ngạch; sắt thép các loại 6951 nghìn tấn, tăng 3,3% về lượng và giảm 6,2% về kim ngạch; phân bón 3525 nghìn tấn, giảm 10,7% về lượng và giảm 8,6% về kim ngạch; giấy các loại 1110 nghìn tấn, tăng 15,9% về lượng và tăng 10% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 2472 nghìn tấn, tăng 6,8% về lượng và tăng 0,6% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt hơn 14,6 tỷ USD, tăng 3,4%; máy tính và linh kiện gần 12,1 tỷ USD, tăng 74,4%; vải đạt 6,4 tỷ USD, tăng 3,7%; nguyên phụ liệu dệt may gần 2,9 tỷ USD, tăng 5,5%...
11 tháng đầu năm 2012, nhập khẩu từ Châu Á chiếm 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2011. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 17,3%, tỷ trọng ước đạt 25,2%), ASEAN (giảm 0,5%, tỷ trọng 18,5%), Hàn Quốc (tăng 18,3%, chiếm tỷ trọng 13,6%), Nhật Bản (tăng 13,8%, chiếm tỷ trọng 10,2%) và EU (tăng 14,6%, chiếm tỷ trọng hơn 7,6%).
11 tháng đầu năm 2012, cả nước xuất siêu 14 triệu USD. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn nhập siêu lớn với các nước như Trung Quốc (ước đạt 15 tỷ USD), ASEAN (3,4 tỷ USD), Hàn Quốc (9 tỷ USD), Đài Loan (5,9 tỷ USD).
c. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 11 tháng đầu năm 2012:
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2012 tiếp tục duy trì ở mức khá cao (18,4% so với cùng kỳ 2011) và cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu (6,8%):
+ Các mặt hàng công nghiệp tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đặc biệt mặt hàng điện thoại và linh kiện tăng 101,6%, máy vi tính và linh kiện 67,1% đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng xuất khẩu (riêng 2 mặt hàng này đã góp phần làm kim ngạch xuất khẩu tăng 8,5 tỷ USD.
+ 11 tháng đầu năm 2012, nhóm hàng nông lâm thủy hải sản chỉ tăng khoảng gần 1,1 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2011.
- Khu vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong 3 năm liên tục và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2012 của cả nước tăng 16,2 tỷ USD, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng hơn 14,8 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, kim ngạch của khu vực FDI tăng 15,8 tỷ USD.
- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 11 tháng của khu vực FDI(24,3%) cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chung của cả nước, do các mặt hàng chủ lực của khu vực này chủ yếu là gia công, lắp ráp, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nhập khẩu của khu vực này tănghơn 10,7 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2011, trong khi nhập khẩu của cả nước tăng 6,6 tỷ USD.
- 11 tháng đầu năm 2012 cả nước xuất siêu ước đạt 14 triệu USD; trong đó khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu 2886 triệu USD; nếu tính cả dầu thô, khu vực FDI xuất siêu gần 10,66 tỷ USD.
- Như vậy, trong 11 tháng đầu năm 2012, xuất siêu là một tín hiệu đáng mừng(11 tháng đầu năm 2011, nhập siêu 9,6 tỷ USD), nhưng mặt khác cho thấy nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước hiện tại đang giảm sút. Nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đang gặp nhiều khó khăn để phát triển sản xuất kinh doanh.
3. Thị trường trong nước
11 tháng đầu năm dự báo tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.945 nghìn tỷ đồng, tăng 17,08% so với cùng kỳ năm 2011.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 tăng 6,02% so với tháng 12/2011. Dự báo chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 tăng 0,5% so với tháng trước với nguyên nhân chủ yếu là do tăng phí dịch vụ y tế, học phí giáo dục. Với sự điều hành quyết liệt của các bộ, ngành, địa phương trong công tác bình ổn giá và đảm bảo cung cầu hàng hoá, dự báo mục tiêu CPI cả năm 2012 tăng khoảng 8% là có thể đạt được.
c. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
Thị trường xăng dầu quốc tế: Chốt phiên giao dịch ngày 19/11/2012, giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 12 tăng 1,22 USD, tương ứng 1,4%, lên 86,67 USD/thùng trên sàn hàng hóa New York. Dầu hợp đồng tháng 12 đã hết hạn vào cuối phiên này. Giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 1 tăng 1,05 USD, tương ứng 1,2%, lên 86,92 USD/thùng. Tương tự như dầu thô, giá dầu sưởi giao tháng 12 tăng 1 cent, tương ứng 0,5%, lên 2,99 USD/gallon trong phiên cuối tuần 16/11. Giá xăng giao cùng kỳ đứng ở 2,71 USD/gallon, tăng 1 cent, tương ứng 0,5%.
Theo các chuyên gia phân tích, thị trường dầu thô thế giới đang tìm được cơ hội nâng giá do căng thẳng đang leo thang ở khu vực Trung Đông, đặc biệt là ở Dải Gaza giữa Israel và phong trào Hamas. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng đưa ra dự báo, nhu cầu dầu toàn cầu sẽ được cung cấp đầy đủ dù sản lượng dầu Iran giảm gần 1 triệu thùng/ngày do lệnh trừng phạt. Trong năm nay, giá dầu Brent hầu như đều duy trì trên 100 USD/thùng. Mặc dù những căng thẳng leo thang gần đây tại Trung Đông nhưng cho đến nay chưa có ảnh hưởng nhiều đến triển vọng thị trường dầu thế giới.
Tại thị trường trong nước, Trước diễn biến giá cả các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, điện, than… biến động liên tục và phức tạp trong những tháng cuối năm, liên bộ Tài chính – Công Thương đã theo sát tình hình giá cả thị trường để đưa ra những biện pháp quản lý giá công khai, minh bạch và nhất quán thực hiện theo cơ chế giá thị trường có sự giám sát và quản lý của Nhà nước. Theo đó, giá bán lẻ xăng dầu áp dụng từ 18h ngày 11/11/2012 giảm trung bình 500 đồng/lít/kg. Liên bộ lý giải quyết định này được đưa ra do diễn biến thị trường thuận lợi, giá thế giới tiếp tục giảm trong nửa đầu tháng 11. Tính bình quân 30 ngày (kể từ 13/10), giá bán lẻ xăng RON 92 đang cao hơn giá cơ sở 522 đồng mỗi lít (giá cơ sở được tính toán dựa trên giá nhập khẩu, cộng các loại thuế, phí và lợi nhuận định mức của doanh nghiệp).
Dựa trên tính toán này, liên bộ quyết định giảm giá xăng và dầu mazut là 500 đồng một lít, đưa xăng RON 92 kể từ sau 18h ngày 11/11 về mức 23.150 đồng một lít, mazut 3,5S còn 18.150 đồng một kg. Các mặt hàng còn lại là dầu hỏa và diesel vẫn giữ nguyên giá 21.900 và 21.850 đồng một lít.
Cùng với quyết định điều chỉnh giá, liên bộ cũng yêu cầu doanh nghiệp ngừng trích quỹ bình ổn với 2 mặt hàng diesel và dầu hỏa. Theo đó, mức trích quỹ với 2 mặt hàng này giảm từ 300 và 500 đồng mỗi lít hiện nay xuống 0 đồng.
Đây là lần đầu tiên kể từ cuối tháng 8/2012, cơ quan quản lý yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh giảm giá xăng dầu. Tính chung từ đầu năm tới nay, giá bán lẻ xăng trong nước đã trải qua 6 lần giảm (tổng cộng 3.700 đồng) và 6 lần tăng (6.050 đồng).
b) Sắt thép
Trên thị trường thế giới, giá phôi thép tại châu Âu vẫn có chiều hướng giảm và lùi về sát ngưỡng300 USD/tấn. Trong khi đó, giá thép xây dựng tại thị trường Trung Quốc dần phục hồi nhẹ sau khi có tin một số hãng thép lớn nước này dự định tăng giá bán trong những hợp đồng đặt hàng tháng 12/2012. Tại London, giá phôi thép các ngày đầu tuần qua được giao dịch ở mức 305,5 USD/tấn, giảm 10 USD/tấn so với thời điểm kết thúc tuần đến ngày 19/11.Tại Thượng Hải, giá thép thanh xây dựng giao tháng 5/2013 – kỳ hạn đang được giao dịch phổ biến nhất ở mức 3.666 NDT (590 USD/tấn), tăng 0,7% so với thời điểm một tuần trước đó.
Thị trường thép trong nước, đã bước vào mùa xây dựng nhưng thị trường thép vẫn tiếp tục ảm đạm, hiện giá thép xây dựng của VNSteel hay VinaKyoei ở miền Nam dao động khoảng 16,3 triệu đồng/tấn, còn miền Bắc dao động khoảng 14- 14,2 triệu đồng/tấn. Nguyên nhân do tiêu thụ sản phẩm vẫn chậm, lượng thép tồn kho cao, công suất sản xuất dư thừa. Mặc dù giá thép thế giới và trong nước giảm nhẹ nhưng sức mua thị trường vẫn yếu. Trong khi đó, thép nước ngoài nhập khẩu tiếp tục tăng, đặc biệt là thép Trung Quốc giá rẻ nhưng chất lượng không bằng thép sản xuất trong nước. Do giá rẻ nên loại thép này vẫn được tiêu thụ mạnh, nhất là ở các vùng nông thôn, các công trình tư nhân khiến doanh nghiệp thép trong nước càng thêm khó khăn.
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), tính từ đầu năm đến giữa tháng 10-2012 ngành thép đã nhập siêu hơn 4,7 tỉ đô la Mỹ. Các sản phẩm thép nhập vào Việt Nam chủ yếu là thép tấm lá đen, thép cuộn, thép phế và phôi thép. Trong khi đó, tổng lượng thép thành phẩm và nguyên liệu để sản xuất thép các doanh nghiệp thép trong nước xuất khẩu được trong 10 tháng đầu năm đạt khoảng 1,6 triệu tấn với tổng kim ngạch gần 1,5 tỉ đô la Mỹ. Trong đó nhiều nhất là xuất thép tấm lá với hơn 353.000 tấn, kế đến là thép xây dựng 268.000 tấn, ống thép hàng 151.000 tấn …Các nhà sản xuất thép xây dựng trong nước đang lo ngại lượng thép xây dựng giá rẻ nhập khẩu, đặc biệt là từ Trung Quốc đang ảnh hưởng mạnh đến sản xuất trong nước.
Dự báo trong thời gian tới, mặc dù bước vào mùa xây dựng nhưng nhu cầu thép xây dựng trong nước tiếp tục ổn định.
c) Xi măng
Theo Bộ Xây dựng, sản lượng xi măng toàn ngành sản xuất tháng 11 đạt gần 4 triệu tấn, 11 tháng đạt 40,2 triệu tấn, giảm 0,85 triệu tấn so với cùng kỳ năm 2011. Tiêu thụ xi măng tháng 11 ước đạt 3,85 triệu tấn, tằn 0,95 triệu tấn so với tháng trước và tăng 0,28 triệu tấn so với cùng kỳ. Ước tiêu thụ xi măng toàn ngành 11 tháng đạt 38,37 triệu tấn, giảm 1,78 triệu tấn so cùng kỳ năm 2011.
Theo báo cáo của Hiệp hội xi măng Việt Nam, tính đến tháng 11/2012 toàn ngành xuất khẩu được 1,2 triệu tấn xi măng và 4,80 triệu tấn clinke. Tồn kho đến cuối tháng 10/2012: Xi măng 0,62 triệu tấn; Clinke 1,99 triệu tấn.
Hiện giá bán xi măng tại thị trường trong nước vẫn ổn định phổ biến ở mác xi măng PCB 30 từ 1.240.000 – 1.260.000đ/tấn; PCB 40 từ 1.280.000 – 1.630.000đ/tấn;Giá bán lẻ ở miền bắc từ 1.300.000 – 1.500.000đồng/tấn; tại miền nam từ 1.600.000 – 1.700.000đồng/tấn.
Dự báo trong tháng tới giá xi măng tiếp tục ổn định.
d) Phân bón
Thị trường phân bón thế giới giảm nhẹ và tiếp tục ổn định do nguồn cung phân bón dồi dào từ Trung Quốc, mặc dù nguồn cung từ Ai Cập bị cắt giảm do nguồn cung khí thấp. Hiện giá chào phân Urê tại Yuzhnyy ở mức 405 USD/tấn, FOB (tăng từ 3-15 USD/tấn so với tháng trước); tại Trung Quốc 395 USD/tấn, FOB (tăng 5 - 10 USD/tấn).
Trong nước: Nguồn cung nhập khẩu phân bón về các cảng phía nam tăng cùng với lượng tồn kho trong nước còn nhiều nên giá phân bón tiếp tục ổn định, phổ biến ở mức giá Ure là 9.700-10.000đồng/kg; Kali 11.400-12.000đồng/kg; DAP là 14.000-14.300 đồng/kg; NPK từ 11.200 – 11.500đồng/kg.
Dự báo trong tháng tới bắt đầu bước vào mùa vụ Đông Xuân, giá phân bón có xu hướng tăng nhẹ, nhưng sẽ không đột biến do nguồn cung trong nước đảm bảo.
II. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CÁC THÁNG CUỐI NĂM 2012
1. Du lịch
2. Xuất nhập khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu
- Chú trọng nâng cao chất lượng để tăng giá trị với nhóm hàng sản xuất truyền thống (đặc biệt là nông, lâm, thủy sản) không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng. Mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, có đóng góp quan trọng thực hiện kế hoạch xuất khẩu, giải quyết việc làm, ổn định xã hội.
- Nâng cao chất lượng xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng không hạn chế về khả năng sản xuất, dùng nhiều nguyên liệu trong nước. Tăng nguồn kinh phí cho chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.
- Khai thác chiều sâu, chiều rộng thị trường truyền thống cùng với thị trường có chung biên giới. Ðẩy mạnh công tác thông tin, dự báo với thị trường ngoài nước, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
- Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
Kiểm soát nhập khẩu
- Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
- Bộ Công Thương chủ trì xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, phát triển công nghiệp phụ trợ, tăng cường sử dụng máy móc vật tư, thiết bị sản xuất trong nước theo chỉ đạo của Chính phủ.
- Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.
- Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
- Tăng cường công tác hậu kiểm về chất lượng, an toàn vệ sinh đối với sản phẩm nhập khẩu và lưu thông theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn; thực hiện các biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và tạo hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu, kiểm soát việc nhập nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu...
- Rà soát các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã ký kết và cẩn trọng trong việc đẩy mạnh đàm phán ký kết các Hiệp định mới. Các Hiệp định thương mại quốc tế một mặt tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho hàng Việt Nam, mặt khác cũng gây nguy cơ nhập siêu nếu không đàm phán chặt chẽ.
- Tiếp tục nhấn mạnh nhóm biện pháp thông tin tuyên truyền, nhất là chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, coi đây là một kênh gián tiếp nhằm tăng tỷ lệ sử dụng hàng Việt Nam, qua đó giảm tỷ lệ hàng nhập khẩu.
3. Thị trường trong nước
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 13/NQ-CP của Chính phủ.
-Thắt chặt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, xử lý kịp thời, đặc biệt tại các điểm nóng, vùng giáp biên, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo, đặc biệt là đối với các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, xi măng, sắt thép, dược phẩm.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu…
- Nhanh chóng có giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA nhằm gia tăng tiêu thụ hàng tồn kho của các doanh nghiệp sản xuất, nhanh chóng đưa công trình vào hoàn thành, khai thác, sử dụng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
- Thực hiện hỗ trợ nhanh và kịp thời vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước; Nghiên cứu giải pháp khuyến khích tiêu thụ, kích cầu tiêu dùng để tăng cường tiêu thụ sản phẩm, giảm tồn kho nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất./.

File đính kèm:
BCKTDich vu T11.12.pdf

Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1452
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)