1. Sản xuất nông nghiệp
Trồng trọt:Trong tháng, các địa phương trong tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc thu hoạch lúa và các loại cây trồng vụ mùa. Ước tính diện tích gieo trồng vụ mùa năm nay toàn tỉnh đạt gần 37,8 nghìn ha, giảm 3,9% (-1,5 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước; riêng diện tích lúa đạt gần 31,7 nghìn ha, giảm 3,9% (-1,3 nghìn ha) so với vụ mùa năm 2019.Theo đánh giá sơ bộvụ mùa năm naythời tiết thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển, năng suất lúa bình quân toàn tỉnh dự ước đạt 54,2 tạ/ha, tăng 0,7% (+0,4 tạ/ha); sản lượng ước đạt 171,6 nghìn tấn, giảm 3,2% (-5,7 nghìn tấn) so với vụ mùa năm 2019.
Sản xuất vụ đông:Đến nay, tổng diện tích gieo trồng cây vụ đông toàn tỉnh đạt gần 6,4 nghìn ha, giảm 0,9% (-55 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Diện tích ngô đạtgần1,5 nghìn ha, tăng 15,6% (+198 ha); khoai lang đạt 464 ha, giảm 19,2% (-110 ha); đậu tương 54 ha, giảm 29,9% (-23 ha); lạc 225 ha, tăng 27,8% (+49 ha); rau, đậu các loại 3,9 nghìn ha, giảm 2,7% (-108 ha). Diện tích gieo trồng tập trung chủ yếu ở các huyện: Yên Khánh gần 2,0 nghìn ha, Yên Mô 1,4 nghìn ha, Nho Quan 1,1 nghìn ha... Vụđông năm nay các địa phương tiếp tục áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào trong sản xuất; điều chỉnh cơ cấu cây trồng theo hướng mở rộng các loại cây có giá trị kinh tế cao, bố trí sản xuất theo vùng, tập trung chuyên canh, đảm bảo được khung thời vụ tốt nhất.
Tình hình sâu bệnh ít xuất hiện, thời tiết thuận lợi cho các loại cây trồng vụ đông đang trong giai đoạn sinh trưởng và phát triển tốt; đồng thời các địa phương trong tỉnh vẫn tập trung chăm sóc và thu hoạch một số cây rau vụ đông.
Chăn nuôi:Đến thời điểm hiện nay, đàn trâutoàn tỉnhước đạt 12,5 nghìn con, giảm 1,5% (-0,2 nghìn con); đàn bò ước đạt 36,1 nghìn con, giảm 2,3% (-0,8 nghìn con);đàn lợn ước đạt 211,5 nghìn con, tăng 11,9% (+22,4 nghìn con) so với cùng kỳ; đàn gia cầm ước đạt 6.323,8 nghìn con, tăng 4,3% (+261,6 nghìn con) so với cùng thời điểm năm 2019, trong đó đàn gà ước đạt 4.395,8 nghìn con, tăng 4,6% (+191,5 nghìn con).
Tình hình dịch tả lợn châu Phi trên địa bàn tỉnh vẫn diến biến phức tạp. Tính đến ngày 22/11/2020 đã có 96 xã, phường, thị trấn thuộc 8 huyện, thành phố xuất hiện dịch bệnh; tổng số lượng lợn tiêu hủy đến nay trên 13,7 nghìn con và trọng lượng ước tính 906,2 tấn. Dịch bệnh phát sinh chủ yếu ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, nuôi phân tán trong các cụm dân cư, điều kiện chăn nuôi không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật nên khi dịch bệnh xảy ra rất khó cho công tác khoanh vùng, dập dịch.
Trong tháng xuất hiện thêm ổ dịch cúm gia cầm H5N6 ở một số hộ chăn nuôi nhỏ lẻ thuộc huyện Nho Quan và Thành phố Tam Điệp với số lượng gia cầm tiêu hủy đến nay là gần 30,8 nghìn con. Tuy nhiên công tác khoanh vùng dập dịch đã được chỉ đạo, triển khai kịp thời nên đã hạn chế được mức độ lây lan của dịch bệnh.
Công tác phòng chống dịch bệnh tiếp tục được quan tâm thực hiện, đến nay Chi cục Thú y đã triển khai tiêm vắc xin và cấp hóa chất vụ Thu - Đông cho các huyện, thành phố với số lượng như sau: 20,4 nghìn liều vắc xin lở mồm long móng trâu, bò; 2,6 triệu liều vắc xin cúm gia cầm; cấp 50 lít hóa chất RTD-TC01 cho thành phố Tam Điệp.
Lâm nghiệp:Công tác quản lý, bảo vệ rừng được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo chặt chẽ, vì thế trên địa bàn tỉnh không có vụ cháy rừng, chặt phá rừng và buôn bán động vật trái phép nào xảy ra.
11 tháng đầu năm naydiện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 248 ha, tăng 53,1% (+ 86 ha) so với 11 tháng năm 2019; sản lượng gỗ khai thác ước đạt gần 22,6 nghìn m3, tăng 3,3% (+0,7 nghìn m3); sản lượng củi khai thác trên 31,2 nghìn ste, tăng 2,3% (+0,7 nghìn ste).
Thủy sản:Trong tháng, các diện tích nuôi thả thủy sản được chăm sóc nên sinh trưởng và phát triển tốt, không códịch bệnh xảy ra. Các hộ chăn nuôi đang bước vào vụ thu hoạch thủy sản nuôi trên diện tích ruộng và một số diện tích nuôi ao đạt kích thước cá thương phẩm.
Sản lượng thủy sản ước tính trong tháng 11 đạt gần 4,9 nghìn tấn, tăng 12,4% (+0,5 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó: Sản lượng nuôi trồng đạt gần 4,4 nghìn tấn, tăng 13,5% (+0,5 nghìn tấn); sản lượng khai thác gần 0,5 nghìn tấn, tăng 3,5% (+16 tấn). Tính chung lại, sản lượng thủy sản 11 tháng đầu năm 2020 ước đạt trên 54,5 nghìn tấn, tăng 7,2% (+3,7 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng nuôi trồng ước đạt trên 48,4 nghìn tấn, tăng 7,9% (+3,6 nghìn tấn); sản lượng khai thác ước đạt trên 6,1 nghìn tấn, tăng 1,5% (+93 tấn).
Độ mặn trong vùng nuôi hàu ở huyện Kim Sơn đang có xu hướng tăng dần, đây là thời điểm chính của sản xuất giống hàu Thái Bình Dương; đến nay số lượng hàu xuất bán đạt 10.050 triệu con.
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Mười Một năm nay ước tính tăng 10,17% so với cùng tháng năm trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoánggiảm2,44%, công nghiệp chế biến tăng 12,73%, ngành công nghiệp sản xuất phân phối điện giảm 37,24%, ngành cung cấp nước và xử lý rác thảigiảm19,55%.
So với tháng trước (tháng 10/2020), chỉ số phát triển công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng này tăng 0,90%, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 0,07%, công nghiệp chế biến tăng 0,88%, ngành công nghiệp sản xuất phân phối điệntăng1,64%, ngành cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 1,13%.
Tính chung lại 11 tháng đầu năm 2020 chỉ số phát triển công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tăng 6,03%, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 7,82%; công nghiệp chế biến tăng 6,72%; công nghiệp sản xuất, PP điện giảm 5,67%; sản xuất cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,82%.
Tính theo giá so sánh 2010: Giá trị sản xuất công nghiệp tháng Mười Một toàn tỉnh ước đạt 8.375,3 tỷ đồng, tăng 17,9% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: Công nghiệp khai thác mỏ đạt 11,8 tỷ đồng,giảm11,7%; công nghiệp chế biến đạt gần 8.288,5 tỷ đồng, tăng 19,1%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện đạt gần 61,3 tỷ đồng, giảm 41,0%; công nghiệp sản xuất nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải đạt 13,7 tỷ đồng, giảm 56,1%.
Tính chung lại, tổng giá trị sản xuất 11 tháng đầu năm 2020 toàn tỉnh đạt 76.540,6 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Công nghiệp khai thác mỏ đạt 111,2 tỷ đồng, giảm 26,9%; công nghiệp chế biến đạt 75.304,4 tỷ đồng, tăng 9,9%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện đạt 971,1 tỷ đồng, giảm 0,6%; công nghiệp cung cấp nước và xử lý rác thải đạt 153,8 tỷ đồng, giảm 21,9%.
Một số sản phẩm chủ yếu tháng Mười Một năm 2020 tăng khá so với cùng tháng năm trước là: Ngô ngọt đóng hộp 250 tấn, gấpgần2,1 lần;dứa đóng hộp đạt 670,6 tấn, tăng 31,4%; nước dứa tươi 185 nghìn lít, tăng 32,1%; quần áo các loại 9.198,5 nghìn cái, tăng 32,8%; các sản phẩm bằng vật liệu tết bện đạt 9.009,0 nghìn cái, tăng 75,9%; phân hỗn hợp NPK 12,0 nghìn tấn, tăng 11,1%; phân lân nung chảy 10,1 nghìn tấn, gấp 2,1 lần; linh kiện điện tử đạt 25,0 triệu cái, tăng 20,8%; modul camera đạt 18,0 triệu cái, tăng 63,6%; xe ô tô 5-14 chỗ đạt gần 6,7 nghìn chiếc, tăng 14,2%; cần gạt nước ô tô đạt 0,8 triệu cái, tăng 55,6%; đồ chơi hình con vật đạt 1,6 triệu con, tăng 50,0%; nước máy thương phẩm đạt 2,1 triệu m3, tăng 9,9%...
Tuy nhiên trong tháng, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: Đá các loại 316,3 nghìn m3, giảm 2,3%; hàng thêu 183,4 nghìn m2, giảm 29,4%; giầy, dép các loại 3.950 nghìn đôi, giảm 0,6%; găng tay 350 nghìn đôi, giảm 63,2%; phân urê đạt 27,9 nghìn tấn, giảm 33,1%; xi măng và clanhke đạt 1.008,1 nghìn tấn, giảm 6,9%; thép các loại đạt 25,4 nghìn tấn, giảm 4,2%; tai nghe điện thoại di động đạt 2,0 triệu sản phẩm, giảm 31,7%; xe ô tô chở hàng hóa 240 chiếc, giảm 70,3%; điện sản xuất đạt 37,4 Tr.Kwh, giảm 55,3%...
Tính chung lại, 11 tháng đầu năm 2020 các sản phẩm công nghiệp có mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước là: Dứa đóng hộp 6.665,0 tấn, tăng 18,1%; nước dứa tươi 2.121,0 nghìn lít, tăng 11,8%; giày dép các loại 34,2 triệuđôi, tăng 7,9%; các sản phẩm bằng vật liệu tết bện 83,8 triệu cái, tăng 59,2%; thùng hộp bằng bìa cứng đạt 12,4 triệu chiếc, tăng 9,9%; phân hỗn hợp NPK 87,4 nghìn tấn, tăng 16,1%; kính xây dựng 428,7 nghìn tấn, tăng 21,1%; thép xây dựng đạt 270,8 nghìn tấn, tăng 1,1%; thanh nhôm, que nhôm ở dạng hình 40,1 nghìn tấn, tăng 69,2%; cấu kiện tháp, cột bằng sắt, thép bắt chéo nhau 11,8 nghìn tấn, tăng 94,6%; cần gạt nước ô tô gần 11,4 triệu cái, tăng 47,6%...
Tuy nhiên, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút là: Ngô ngọt đóng hộp 3.081,0 tấn, giảm 37,5%; găng tay 5.501,0 nghìn đôi, giảm 44,3%; phân u rê đạt 311,9 nghìn tấn, giảm 9,4%; phân lân nung chảy đạt 91,4 nghìn tấn, giảm 17,1%; linh kiện điện tử 182,7 triệu sản phẩm, giảm 79,0%; modul camera 157,3 triệu cái, giảm 1,9%; tai nghe điện thoại di động 15,9 triệu cái, giảm 17,5%; kính máy ảnh 1.742,5 nghìn cái, giảm 26,3%; xe ô tô 5-14 chỗ lắp ráp 61,1 nghìn chiếc, giảm 1,6%; xe ô tô chở hàng hóa 2.237 chiếc, giảm 45,3% %; điện sản xuất 667,5 triệu Kwh, giảm 9,6%...
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thángnàygấp hơn 2,2 lần so với thángcùng thángnăm 2019, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so như: Sản xuất xe có động cơ gấp 3,1 lần; sản xuất thiết bị truyền thông gấp 1,9 lần; sản xuất pin và ắc quy gấp 5,7 lần; sản xuất kim loại gấp 1,7 lần; sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại gấp 2,7 lần; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 28,5%...
Một số sản phẩm tồn kho đến 31/10/2020 là: Giày, dép 2.920,2 nghìn đôi; đạm urê 9,0 nghìn tấn; phân NPK 30,4 nghìn tấn; phân lân nung chảy 13,9 nghìn tấn; kính xây dựng 188,7 nghìn tấn; camera và linh kiện điện tử 1.562,6 nghìn cái; loa, tai nghe điện thoại 741,2 nghìn cái; xe ô tô 5-14 chỗ 803 chiếc ...
3. Vốn đầu tư và phát triển
Tổng vốn đầu tư phát triển tháng Mười Một năm nay toàn tỉnh ước đạt gần 2.431,9 tỷ đồng, tăng 3,7% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước đạt272,8 tỷ đồng, tăng 32,9%; vốn tín dụng 29,0 tỷ đồng, giảm 17,3%; vốn trái phiếu Chính Phủ đạt 120,0 tỷ đồng, tăng 13,6%; vốn ngoài nhà nước đạt 1.714,7 tỷ đồng, tăng 4,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 262,6 tỷ đồng, giảm 9,4%.
Tính chung lại,tổng vốn đầu tư phát triển 11 tháng đầu năm 2020 toàn tỉnh ước đạt 22.770,7 tỷ đồng, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước đạt 2.398,2 tỷ đồng, tăng 59,4%; vốn tín dụng 328,5 tỷ đồng, gấp 2,0 lần; vốn trái phiếu Chính Phủ đạt 802,6 tỷ đồng, tăng 88,5%; vốn ngoài nhà nước đạt 17.529,4 tỷ đồng,tăng2,9%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt1.464,8 tỷ đồng, giảm 33,9%.
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện trong 11 tháng đầu năm 2020 tập trung ở một số công trình, dự án như sau:
+Khu vực đầu tư công:
- Vốn trái phiếu Chính phủ:Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc đoạn Cao Bồ - Mai Sơn thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc Nam phía đông giai đoạn 2017-2020 ước đạt447,2tỷ đồng;dự án kết nối cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình (giai đoạn 2) ước đạt 175,8 tỷ đồng;dự án nâng cấp tuyến đê hữu Hoàng Long và sông Đáy kết hợp giao thông đoạn từ Bái Đính đi Kim Sơn ước đạt129tỷ đồng;dự án xây dựng tuyến đường Bái Đính (Ninh Bình) - Ba Sao (Hà Nam), đoạn qua địa phận tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 1) ước đạt 50,7 tỷ đồng.
- Vốn ODA: Dự án xây dựng âu Kim Đài phục vụ ngăn mặn giữ ngọt và ứng phó với tác động nước biển dâng cho 06 huyện, thành phố khu vực Nam tỉnh Ninh Bình ước đạt 109,9 tỷ đồng.
- Vốn ngân sách Nhà nước:Dự án xây dựng, nâng cấp cải tạo cơ sở hạ tầng thị trấn Me-huyện Gia Viễn ước đạt309,5tỷ đồng; dự án xây dựng Hạ tầng kỹ thuật khu dân cư mới xã Gia Thịnh và xã Gia Vượng-huyện Gia Viễn ước đạt124tỷ đồng; dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu Trung tâm Hành chính huyện Gia Viễn ước đạt92,5tỷ đồng;dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật các tuyến đường trục chính xã Gia Thịnh, huyện Gia Viễn ước đạt 58,5 tỷ đồng;dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật các tuyến đường trục chính xã Gia Vượng, huyện Gia Viễn ước đạt 42 tỷ đồng; dự án xây dựng đường cứu hộ, cứu nạn cho nhân dân vùng mưa lũ các xã Yên Nhân, Yên Từ, Yên Phong đến đê sông Vạc huyện Yên Mô ước đạt trên35,6tỷ đồng;dự án xây dựng trụ sở Huyện ủy, HĐND và UBND huyện Kim Sơn ước đạt 34,4 tỷ đồng;dự án xây dựng đường Tân An kết hợp kênh tưới N5 đoạn từ GiaLập đến Gia Thắng - huyện Gia Viễn ước đạt30tỷ đồng; dự án xây dựngSân vận động trung tâm và khu cây xanh huyện Gia Viễn ước đạt29,3tỷ đồng; công trìnhcải tạo đường liên xã Khánh An-huyện Yên Khánh ước đạttrên 26tỷ đồng…
+ Khu vực doanh nghiệp Nhà nước:Các dự án xây dựng, sửa chữa, cải tạo công trình điện, mua sắm máy móc, thiết bị của Công ty TNHH MTV Điện lực Ninh Bình ước đạt215,7tỷ đồng.
+Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI):Dự án xây dựng nhà xưởng và mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt trên710tỷ đồng; dự ánxây dựng nhà xưởng sản xuất đồ chơi trẻ em của Công ty TNHH Dream Plastic ước đạt 100 tỷ đồng;dự án của Công ty TNHH Athena Việt Nam ước đạt trên68,1tỷ đồng…
Trong tháng Mười Một, một số dự án, công trình từ nguồn vốn đầu tư công được khởi công xây dựng mới: Công trình xây dựng tuyến đường trục xã Ninh Nhất với tổng mức đầu tư 18,7 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà điều hành, nhà văn hóa xã và các công trình phụ trợ UBND xã Phú Sơn, huyện Nho Quan với tổng mức đầu tư 24,7 tỷ đồng; dự án xây dựng 10 phòng học, 02 phòng chức năng và các hạng mục phụ trợ Trường Mầm non xã Ninh An, huyện Hoa Lư với tổng mức đầu tư 14,8 tỷ đồng; công trình xây dựng tuyến đường phía đông xã Cồn Thoi, huyện Kim Sơn với tổng mức đầu tư 10,1 tỷ đồng; công trình cải tạo, nâng cấp đường trục xã đoạn từ Ngã ba chùa Bích Động đến Đền Mẫu thôn Hải Nham, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư với tổng mức đầu tư 9,5 tỷ đồng…
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
4.1. Bán lẻ hàng hóa
Tổng mức bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh trong tháng Mười Một ước đạt trên 2.883,1 tỷ đồng, tăng 15,2% so vớicùng kỳ năm2019. Cácnhóm mặt hàng có tổng mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước như: Nhóm lương thực, thực phẩm 838,3 tỷ đồng, tăng 14,5%; gỗ và vật liệu xây dựng 482,4 tỷ đồng, tăng 23,3%; hàng may mặc 244,3 tỷ đồng, tăng 20,1%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 328,2 tỷ đồng, tăng 19,5%; hàng hóa khác ước đạt gần 116,5 tỷ đồng, tăng 34,3%; nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục 50,0 tỷ đồng, tăng 15,4%; ô tô các loại 145,4 tỷ đồng, tăng 17,1%... Riêng nhóm phương tiện đi lại (trừ ô tô, kể cả phụ tùng) ước đạt 181,5 tỷ đồng, giảm 6,6%.
Tính chung lại, tổng mức bán lẻ hàng hoá trên địa bàn toàn tỉnh 11thángnăm nay ước đạt gần 26.992,1 đồng, tăng 1,9% so vớicùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng có tổng mức bán lẻ tăng khá so với cùng kỳ như: Nhóm lương thực, thực phẩm ước thực hiện gần 8.136,0 tỷ đồng, tăng 5,4%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 3.093,3 tỷ đồng, tăng 6,2%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 466,9 tỷ đồng, tăng 6,2%; gỗ và vật liệu xây dựng 4.537,8 tỷ đồng, tăng 9,8%; hàng hóa khác 1.030,1 tỷ đồng, tăng 11,4%...Cácnhóm hàng có tổng mức bán lẻ giảmgồm: Nhóm phương tiện đi lại (trừ ô tô, kể cả phụ tùng) ước đạt gần 1.794,0 tỷ đồng, giảm 16,5%; xăng, dầu các loại 2.359,5 tỷ đồng, giảm 12,0%; hàng may mặc 2.089,7 tỷ đồng, giảm 3,1%; nhiên liệu khác 582,5 tỷ đồng, giảm 0,4%.
4.2.Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ chung (CPI) trên thị trường toàn tỉnh tháng này tiếp tục giảm 0,26% so với tháng trước. Trong đó có 05/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, cụ thể: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,09% (trong đó: Nhóm lương thực tăng 2,22%; thực phẩm giảm 0,48%; nhóm ăn uống ngoài gia đình vẫn giữ nguyên); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 1,02%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,02%; nhóm giao thông giảm 0,68%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,02%. Chỉ có 02 nhóm tăng nhẹ là Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02% và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,08%. Các nhóm còn lại vẫn giữ ổn định so với tháng trước.
So với tháng 12/2019, CPI tháng Mười Một năm nay giảm 0,58%. Trong đó, nhóm giao thông giảm mạnh nhất, giảm 12,30%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 6,94%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,84%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,08% (lương thực tăng 6,93%; thực phẩm giảm 1,0%; ăn uống ngoài gia đình giảm 0,57%). Các nhóm còn lại có chỉ số tăng gồm: Nhóm giáo dục tăng 4,9%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 3,47%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,0%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,61%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,37%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,04% và nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,06%.
CPI bình quân 11 tháng đầu năm 2020 tăng 4,16% so với bình quân cùng kỳ năm 2019. Trong đó có 07/11 nhóm có chỉ số tăng, cụ thể: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng mạnh nhất, tăng 13,92% (lương thực tăng 9,30%; thực phẩm tăng 17,70%; ăn uống ngoài gia đình tăng 7,81%); nhóm giáo dục tăng 4,15%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,41%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,82%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,86%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,23%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,19%. Bốn nhóm còn lại có chỉ số giá giảm gồm: Nhóm giao thông giảm 9,83%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 5,71%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 2,56%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,06%.
Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ:Chỉ số giá vàng tháng này tăng 0,51% so với tháng trước, tăng 37,50% so với tháng 12/2019 và tăng 41,25% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá bán lẻ đô la Mỹ tăng 0,33% so với tháng Mười năm 2020, tăng 0,32% so với tháng 12/2019 và tăng 1,88% so với cùng kỳ năm 2019.
4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu:Giá trị xuất khẩu tháng Mười Một nămnayđạt gần 264,5 triệu USD, tăng 37,1% so với tháng Mười Một năm 2019. Tính chung lại, tổng giá trị xuất khẩu 11 tháng năm nay ước đạt gần 2.306,3 triệu USD, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: Quần áo các loại đạt 224,8 triệu USD; xi măng, clanke đạt 543,3 triệu USD; giầy dép các loại đạt 370,5 triệu USD; camera và linh kiện điện thoại 951,6 triệu USD; linh kiện điện tử 63,0 triệu USD…
Trong 11 tháng năm nay, một số mặt hàng xuất khẩu đạt khá so với cùng kỳ năm trước như: Dứa, dưa chuột đóng hộp gần 12,1 nghìn tấn, tăng 51,6%; nước dứa cô đặc 1.472 tấn, gấp 2,3 lần; giầy dép các loại 34,5 triệu đôi, tăng 9,3%; thảm cói 36,2 nghìn m2, tăng 18,3%; sản phẩm cói khác 809,0 nghìn sản phẩm, tăng 93,9%; xi măng, clanke 13,8 triệu tấn, tăng 21,3%; cần gạt nước 9.950,0 nghìn chiếc, tăng 28,5%; phôi nhôm 19,9 nghìn tấn, tăng 99,0%... Tuy nhiên một số sản phẩm xuất khẩu giảm sút như: Quần áo các loại 36,7 triệu chiếc, giảm 15,3%; hàng thêu 110,6 nghìn chiếc, giảm 51,1%; camera và linh kiện điện thoại 153,5 triệu sản phẩm, giảm 5,6%; kính quang học 1.735,5 nghìn chiếc, giảm 26,6%; túi nhựa 1.232 tấn, giảm 43,2%.
Nhập khẩu:Giá trị nhập khẩu tháng Mười Một năm nay ước đạt trên 276,2 triệu USD, tăng 28,7% so với cùng tháng năm trước. Tổng giá trị nhập khẩu 11 tháng ước đạt trên 2.730,3 triệu USD, giảm 6,2% so với 11 tháng năm 2019. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: Linh kiện điện tử 1.203,5 triệu USD; linh kiện, phụ tùng ô tô các loại 888,9 triệu USD; vải may mặc 69,3 triệu USD; phụ liệu may mặc 75,5 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày dép 171,8 triệu USD; phế liệu sắt thép 71,3 triệu USD; máy móc thiết bị 41,9 triệu USD.
4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách:Khối lượng hành khách vận chuyển thực hiện trong tháng Mười Một ước đạt gần 1,8triệu lượt khách, tăng 4,8% so với cùng tháng năm trước và luân chuyển trên 93,3 triệu lượt khách.km, tăng 4,4%. Tính chung 11 tháng năm 2020, vận tải hành khách toàn tỉnh ước thực hiện trên 15,6 triệu lượt khách, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt trên 13,7 triệu lượt khách, giảm 11,6%; vận tải đường thủy nội địa gần 1,9 triệu lượt khách, giảm 27,6%. Khối lượng luân chuyển trong 11 tháng ước đạt trên 841,9 triệu lượt khách.km, giảm 13,9%. Trong đó: Vận tải đường bộ ước thực hiện 834,7 triệu lượt khách.km, giảm 13,6%; vận tải đường thủy nội địa gần 7,2 triệu lượt khách.km, giảm 36,2%.
Vận tải hàng hóa: Ước tính khối lượng hàng hóa vận chuyển trên địa bàn toàn tỉnh tháng này đạt trên 4,9triệu tấn, tăng 8,6% so với cùng tháng năm trước, khối lượng luân chuyển hàng hóa đạt 719,1 nghìn tấn.km, tăng 8,3%. Tính chung lại, khối lượng vận chuyển hàng hóa toàn tỉnh trong 11thángnăm nay đạt gần 47,9 triệu tấn, tăng 0,6% và khối lượng luân chuyển gần 6.804,5 triệu tấn.km, giảm 4,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ đạt trên 22,6 triệu tấn, tăng 2,0% và 1.159,5 triệu tấn.km, tăng 1,4%; vận tải đường thủy nội địa trên 23,7 triệu tấn, giảm 0,1% và 4.817,8 triệu tấn.km, giảm 4,8%; vận tải đường biển trên 1,5 triệu tấn, giảm 8,5% và 827,2 triệu tấn.km, giảm 11,2%.
Doanh thu vận tải:Ước thực hiện trong tháng Mười Một đạt trên 583,7 tỷ đồng, tăng 10,2% so với cùng tháng năm trước. Doanh thu hoạt động vận tải trong11thángước thực hiện trên 5.703,7 tỷ đồng, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải hành khách ước đạt gần 654,6 tỷ đồng, giảm 9,7%; vận tải hàng hóa gần 4.772,9 tỷ đồng, tăng 1,0%;dịch vụ hỗ trợ vận tải 274,8 tỷ đồng, giảm 18,5%; doanh thu bưu chính chuyển phát 1,3 tỷ đồng, giảm 12,3%.
4.5. Du lịch
Ước tính trong tháng Mười Một năm nay, tổng số khách đến các điểm thăm quan, du lịchtrên địa bàn tỉnhđạt gần 191,7 nghìn lượt khách, giảm 44,7%so với cùng tháng năm trước.Trong đó: Khách trong nước ước đạt gần 186,1nghìn lượt khách, giảm 30,3%; khách quốc tế ước đạt gần 5,6 nghìn lượt khách, giảm 93,0%. Tổng số khách đến các cơ sở lưu trú ước đạt gần 45,9nghìn lượt khách, giảm 37,7%; số ngày khách lưu trú ước đạt gần59,0nghìn ngày.khách, giảm39,9%. Doanh thu du lịch ước thực hiện gần 131,1 tỷ đồng, giảm 42,6%.
Tính chung lại11 thángnăm nay tổng số khách đến các điểm du lịch trên địa bàn tỉnh ước đạt 2.418,3nghìn lượt khách, giảm66,4% so với 11tháng năm2019 (trong đó: Khách trong nước đạt gần2.227,7nghìn lượt khách, giảm 65,0%; khách quốc tế trên190,6nghìn lượt khách, giảm77,2%). Tổng số khách đến các cơ sở lưu trú ước đạt trên 415,6 nghìn lượt khách, giảm 46,7%; số ngày khách lưu trú ước đạt trên 550,1 nghìn ngày.khách, giảm 47,1%. Doanh thu du lịch ước thực hiện trên 1.448,6 tỷ đồng, giảm 57,9% (trong đó: Doanh thu lưu trú 295,6 tỷ đồng, giảm 52,4%; doanh thu ăn uống 553,3 tỷ đồng, giảm 57,2%; doanh thu vận chuyển khách du lịch 200,5 tỷ đồng, giảm 58,7%; doanh thu bán hàng cho khách du lịch 171,2 tỷ đồng, giảm 66,9%; doanh thu dịch vụ khác 228,0 tỷ đồng, giảm 56,4%).
5. Một số vấn đề xã hội
5.1. Văn hoá thông tin
Hoạt động VHTT trong tháng diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII như: Biểu diễn các chương trình nghệ thuật ca múa nhạc dân gian, múa rối nước; trưng bày triển lãm tranh cổ động; Nhà hát Cải lương Hà Nội biểu diễn vở cải lương “Phận má đào” tại Trung tâm Hội nghị tỉnh…
Trong tháng, Nhà hát Chèo thực hiện19buổibiểu diễn nghệ thuật đặc sắc phục vụ nhiệm vụ chính trị và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng bóng đã thực hiện 48 buổi chiếu phim lưu động phục vụ trên 4,6 nghìn lượt người xem. Thư viện tỉnh thực hiện cấp và đổi mới 50 thẻ bạn đọc, luân chuyểngần 27,9nghìn lượt sách, báo tạp chí, phục vụ bạn đọc.
5.2. Thể dục thể thao
Trong tháng tổ chức thành công giải Việt dã xã, phường, thị trấn tỉnh Ninh Bình lần thứ V năm 2020 - Cup SHB, tham dự có 322 vận động viên tham gia ở các nội dung nam, nữ ở các lứa tuổi từ 15 tuổi trở xuống và từ 16 đến 18 tuổi. Kết quả: Huyện Kim Sơn đạt giải Nhất; thành phố Ninh Bình đạt giải Nhì.
Đối với thể thao thành tích cao, các đoàn vận động viên tham gia thi đấu và đạt thành tích cao như: Đoàn vận động viên môn Karate tham dự giải vô địch cup các câu lạc bộ mạnh Karate toàn quốc lần thứ XX năm 2020 đạt 10 huy chương, trong đó: 08 huy chương Vàng, 02 huy chương Đồng; đoàn vận động viên môn Cờ vua tham dự giải vô địch Cờ vua trẻ xuất sắc toàn quốc năm 2020 đạt 10 huy chương, trong đó 04 huy chương Vàng, 03 huy chương Bạc, 03 huy chương Đồng. Bên cạnh đó, tiếp tục thành lập các đoàn vận động viên tham gia thi đấu các giải trong nước như: Giải vô địch Bắn cung quốc gia năm 2020 tại thành phố Hà Nội; giải Cầu lông các cây vợt thiếu niên, trẻ xuất sắc toàn quốc năm 2020 tại tỉnh Lâm Đồng; giải vô địch Cờ vua đấu thủ mạnh toàn quốc năm 2020 tại thành phố Hồ Chí Minh; giải Vật dân tộc anh tài toàn quốc lần thứ VI năm 2020 tại thành phố Hà Nội.
5.3. Y tế[1]
Trước tình hình thời tiết giao mùa là điền kiện thuận lợi cho các dịch bệnh bùng phát và lây lan trong cộng đồng,ngành Y tế đã tích cực phòng, chống bệnh sốt xuất huyết nói riêng và và các bệnh truyền nhiễm nói chung, duy trì công tác giám sát dịch, chủ động phát hiện sớm ca bệnh, không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn.
Trong tháng Mười năm naytrên địa bàn tỉnh xảy ra22 ca ngộ độc thực phẩm, không có tử vong do ngộ độc thực phẩm; có 22 ca mắc sốt xuất huyết; 14ca chân tay miệng. Tại các cơ sở y tế trong tỉnh đã khám bệnh cho trên 85 nghìn lượt bệnh nhân, khám thai 4,2 nghìn lượt, khám phụ khoa gần4,3nghìn lượt, đặt vòng 663 ca, triệt sản 31 ca. Cũng trong tháng Mười, đã phát hiện mới 12 người nhiễm mới HIV,khôngcó trường hợp chuyển sang giai đoạn AIDSvà01 trường hợptử vong do AIDS.
Công tác phòng, chống dịch bệnh Covid 19:Tiếp tục lấy mẫu xét nghiệm, quản lý, giám sát các trường hợp cách ly tại Trung đoàn 855 và các trường hợp có yếu tố dịch tễ từ vùng dịch trở về; tham mưu chỉ đạo các doanh nghiệp triển khai đón, cách ly chuyên gia, người lao động tay nghề cao; điều trị các ca bệnh dương tính với tại Covid-19 các cơ sở y tế; thực hiện xét nghiệm Covid-19 tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh. Tính đến ngày 17/11/2020, trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 31 trường hợp dương tính với Covid-19 (đã điều trị khỏi và xuất viện 29 trường hợp, đang điều trị 02 trường hợp), tổng số trường hợp được cách ly, giám sát cộng dồn là 11.505 trường hợp (trong đó: Cách ly tại cơ sở y tế là 532 trường hợp; cách ly tại cơ sở tập trung là 3.273 trường hợp; cách ly y tế tại nhà và nơi lưu trú là 7.700 trường hợp), tổng số ca đã lấy xét nghiệm Covid-19 cộng dồn là 9.798 (31 ca dương tính, 9.766 ca âm tính và 01 ca không đủ tiêu chuẩn dịch tễ).
5.4. Giáo dục
Trong tháng, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã tổ chức các hoạt động chào mừng kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 như: Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao; phát động các phong trào thi đua lập thành tích; tổ chức hội thi giáo viên dạy giỏi cấp THPT...
Ngoài ra, tổ chứcthi nghề phổ thông cấp THPT, tham dự có 9.034 thí sinh lớp 12 THPT và GDTX dự thi 7 nghề (điện dân dụng, trồng lúa, làm vườn, thêu, tin học văn phòng, cắt may, điện tử) tại 29 hội đồng thi, trong đó có 67,6% thí sinh dự thi nghề điện dân dụng, 13,8% thí sinh dự thi nghề làm vườn, 18,6% dự thi các nghề còn lại. Kết quả: 99% thí sinh đỗ, trong đó có 65% đạt loạigiỏi, 25% đạt loạikhá, 9% đạt loạitrung bình.
5.5. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội[2]
Để đảm bảo trật tự an toàn giao thông (ATGT) trên địa bàn với mục tiêu làm giảm TNGT trên cả 3 tiêu chí và thực hiện chủ đề Năm ATGT 2020"Đã uống rượu bia - không lái xe", lực lượng Cảnh sát giao thông toàn tỉnh tiếp tục tuần tra, kiểm soát nồng độ cồn đối với người tham gia giao thông. Đợt ra quân tuần tra, kiểm soát, trong đó tập trung xử lý vi phạm nồng độ cồn và một số hành vi là nguyên nhân gây TNGT khác, đối tượng tập trung kiểm tra là những người lái xe mô tô, ô tô con, ô tô chở khách, ô tô tải, xe vận tải container, xe ô tô kéo rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc...
Trong tháng Mười năm 2020toàn tỉnh đã xảy ra8vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 06 người và bị thương05người (giảm 12 vụ, giảm 02 người chết và giảm 12 người bị thương so với tháng Mười năm 2019); xử lý22vụ phạm pháp hình sự, giảm 26 vụ; phát hiện và xử lý12vụ buôn bán, vận chuyển và tàng trữ chất ma túy với15đối tượng (giảm 11 vụ và giảm 13 đối tượng).
5.6. Tình hình cháy nổ, bảo vệ môi trường[3]
Trong tháng,đã xảy ra 01 vụ cháynhà dân và 01 vụ cháy rừng thực bì gây thiệt hại100 triệu đồng,không có thiệt hại về người./.
[1]Số liệu về tình hình Y tế là số liệu tháng 10/2020
[2]Số liệu tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội là số liệucủa Công an tỉnh từ 15/10/2020 đến 14/11/2020
Website Cục thống kê tỉnh Ninh Bình