Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 01/01/2022-10:31:00 AM
Tình hình kinh tế xã hội tháng 12 và năm 2021 tỉnh Bình Thuận

Năm 2021 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH giai đoạn 2021-2025. Trong bối cảnh dịch Covid-19 đã gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống của người dân trong tỉnh; tuy nhiên KT-XH năm 2021 của tỉnh vẫn tiếp tục duy trì ổn định đó là nhờ sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt của các cấp, các ngành, địa phương trong tỉnh và nỗ lực của người dân cùng cộng đồng doanh nghiệp. Sau khi các biện pháp giãn cách xã hội được nới lỏng, cùng với tác động tích cực từ những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân của Chính phủ, các lĩnh vực KT-XH đang bước vào trạng thái hoạt động trong điều kiện bình thường mới, nhiều hoạt động SXKD trở lại hoạt động có sự khởi sắc.

Dự ước tổng sản phẩm nội tỉnh năm 2021, tăng 2,77% so với năm 2020; trong đó giá trị tăng thêm tăng 2,86%, thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 1,59%. Giá trị tăng thêm nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,78%; công nghiệp xây dựng tăng 7,48% (công nghiệp tăng 7,33%; xây dựng tăng 8,23%); dịch vụ giảm 2,58%.

Cơ cấu kinh tế năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 29,68%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,05%; khu vực dịch vụ chiếm 30,79%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,48%. GRDP bình quân đầu người ước năm 2021 đạt 69,6 triệu đồng/người/năm. Kết quả trên cho thấy, kinh tế của tỉnh năm 2021 bị ảnh hưởng khá nặng do dịch Covid-19 gây ra, đặc biệt là khu vực dịch vụ.

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2021 trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp khi làn sóng dịch thứ 4 bùng phát đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến đời sống kinh tế của người dân. Tình hình tiêu thụ nông sản gặp khó khăn trong khâu vận chuyển; sản xuất đủ điều kiện an toàn thực phẩm còn hạn chế do nhận thức của bà con nông dân về sản xuất an toàn còn xem nhẹ. Tuy nhiên nhờ sự chỉ đạo quyết liệt ngay từ đầu của các cấp chính quyền địa phương, cùng với việc triển khai kịp thời các biện pháp về cân đối nguồn nước; người dân đã chuẩn bị tốt các khâu về đất, giống để gieo trồng tập trung, hạn chế thiệt hại trong sản xuất, thời gian xuống giống đảm bảo đúng lịch thời vụ. Tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng, vật nuôi không diễn biến phức tạp, chỉ xảy ra dưới dạng cục bộ và ảnh hưởng không đáng kể; đàn gia súc gia cầm tăng trưởng tốt; điều kiện thời tiết, ngư trường trên vùng biển của tỉnh thuận lợi nên hoạt động khai thác hải sản tương đối ổn định, sản lượng khai thác thủy sản tiếp tục được duy trì.

1. Trồng trọt

* Cây hàng năm: Diện tích gieo trồng năm 2021 đạt 200.604,1 ha, tăng 8,1% so với năm 2020. Tăng tập trung vào cây lúa, cây đậu phụng và tăng cao ở vụ đông xuân do thời tiết, nguồn nước thuận lợi; diện tích gieo trồng tập trung chủ yếu ở 2 huyện Đức Linh và Tánh Linh.

- Cây lương thực: Diện tích xuống giống đạt 138.894,6 ha, tăng 11,3% so với năm 2020; sản lượng ước đạt 841.975,8 tấn, tăng 13,5%; trong đó diện tích cây lúa đạt 123.563,2 ha, tăng 12,7%; sản lượng lúa đạt 739.849,6 tấn, tăng 15,4%. Diện tích cây bắp đạt 15.331,4 ha, tăng 1,1%; sản lượng đạt 102.126,2 tấn, tăng 1,9%.

- Nhóm cây công nghiệp ngắn ngày: Diện tích đậu phộng đạt 5.745,6 ha, tăng 16,9% so với vụ cùng kỳ năm 2020; sản lượng đạt 10.838,9 tấn, tăng 26,7%. Diện tích mè đạt 4.246,6 ha; sản lượng đạt 2.466,2 tấn.

- Cây rau, đậu các loại: Diện tích gieo trồng đạt 19.752,4 ha, tăng 1,3%; sản lượng đạt 123.921,6 tấn, tăng 0,7%; trong đó rau các loại diện tích đạt 9.948,8 ha, tăng 1,9%, sản lượng đạt 114.122,5 tấn, tăng 0,7%; diện tích cây đậu đạt 9.803,6 ha, tăng 0,8% nổi bật là cây đậu xanh được trồng nhiều ở huyện Tuy Phong cho giá trị kinh tế cao.

- Nhóm cây hàng năm khác: Diện tích gieo trồng đạt 1.984,8 ha, tăng 13,7% so cùng kỳ năm 2020; tăng mạnh ở các cây như ớt, gừng, sả, cỏ voi được người dân tích cực gieo trồng và chăm sóc.

- Vụ đông xuân: Diện tích gieo trồng đạt 47.013 ha, tăng 47,3% so với năm 2020. Trong đó cây lúa đạt 36.520,1 ha, tăng 64,4%, sản lượng đạt 245.018,3 tấn. Cây đậu phộng diện tích gieo trồng đạt 1.174,3 ha, tăng 11,3%. Cây mè đạt 52,7 ha, tăng 0,9 lần. Cây rau, đậu các loại diện tích gieo trồng đạt 5.341,4 ha, tăng 14,3%.

- Vụ hè thu: Diện tích gieo trồng đạt 65.144,7 ha, giảm 0,2% so với năm 2020. Trong đó cây lúa đạt 42.923 ha, giảm 1,5%; diện tích thu hoạch đạt 42.771 ha, diện tích bị mất trắng 152 ha do ảnh hưởng lũ quét tại huyện Đức Linh; năng suất đạt 57,9 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha; sản lượng đạt 247.591,1 tấn. Cây đậu phộng diện tích đạt 2.538,4 ha, tăng 44,1%; năng suất đạt 17,6 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha; sản lượng đạt 4.461,6 tấn, tăng 57,3%. Cây rau, đậu các loại diện tích gieo trồng đạt 7.439,4 ha, giảm 5,7%.

- Vụ mùa: Diện tích gieo trồng đạt 88.476,4 ha, tăng 0,8% so với năm 2020; tăng tập trung vào các loại cây như lúa, rau đậu các loại, cây gia vị và cây dược liệu. Trong đó cây lúa đạt 44.120,1 ha, tăng 0,6%; năng suất ước đạt 56 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha; sản lượng đạt 247.176,5 tấn. Cây đậu phộng đạt 2.032,8 ha, giảm 3,2%; năng suất đạt 18 tạ/ha; sản lượng đạt 3.666 tấn, tăng 8,9%. Cây rau, đậu các loại diện tích gieo trồng đạt 6.993,1 ha, tăng 0,8%.

Nhằm phát phát huy hiệu quả sử dụng đất và tăng cường tiết kiệm nguồn nước tưới, toàn tỉnh đã thực hiện chuyển đổi 8.894 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng các cây ngắn ngày khác hiệu quả hơn (3.140 ha bắp, 2.196 ha rau các loại, 1.360 ha đậu các loại, 1.014 ha đậu phộng, 859 ha mỳ, 325 ha cây trồng khác). Ứng dụng rộng rãi các giống cây trồng mới có năng suất cao, chất lượng tốt và khả năng chống chịu cao vào sản xuất; trong năm đã chọn tạo ra 01 giống lúa mới ML221 và hoàn thành khảo nghiệm sản xuất 02 giống lúa ML215 và ML218; đồng thời, sản xuất và cung ứng 150 tấn giống lúa nguyên chủng, xác nhận phục vụ chương trình giống của tỉnh.

* Cây lâu năm: Dịch bệnh Covid-19 trong nước cũng như trên thế giới diễn biến phức tạp thị trường xuất khẩu nông sản gặp khó khăn, giá đầu ra một số loại cây chủ lực như thanh long, cao su thấp trong khi chi phí đầu vào như phân bón, thuốc trừ sâu tăng cao đã ảnh hưởng đến việc phát triển diện tích các loại cây lâu năm trên địa bàn tỉnh.

Tổng diện tích gieo trồng đạt 111.295,1 ha, tăng 1,6% so với năm 2020. Trong đó diện tích cây công nghiệp đạt 65.871,1 ha, tăng 4,1%; cây ăn quả đạt 43.710,4 ha, giảm 1,9%; các loại cây lâu năm còn lại đạt 1.713,7 ha, tăng 0,2 %. Diện tích, năng suất và sản lượng một số cây lâu năm chủ lực của tỉnh như sau:

- Thanh long: Diện tích gieo trồng đạt 32.842,6 ha, giảm 2,7% so với năm 2020; năng suất đạt 225,9 tạ/ha (giảm 0,3 tạ/ha); sản lượng thu hoạch đạt 696.000 tấn, giảm 0,3% (giảm 4.000 tấn). Năng suất và sản lượng giảm do người trồng hạn chế chong đèn; do ảnh hưởng của dịch Covid-19 giá thanh long giảm thấp trong một thời gian dài, trong khi chi phí sản xuất tăng. Tính đến thời điểm 15/12/2021 toàn tỉnh có 12.290,9 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap. Trong đó Hàm Thuận Nam 7.597,2 ha; Hàm Thuận Bắc 3.581,8 ha; Bắc Bình 675,4 ha; Phan Thiết 89,8 ha; Hàm Tân 116,3 ha; La Gi 147,1 ha; Tuy Phong 83,4 ha.

- Cây điều: Diện tích gieo trồng đạt 18.536,9 ha, tăng 6% so với năm 2020; tăng chủ yếu ở huyện Đức Linh, huyện Hàm Thuận Bắc, huyện Hàm Tân. Sản lượng thu hoạch đạt 13.000 tấn, tăng 7,1% (tăng 858,6 tấn); trong những năm gần đây một số địa phương triển khai trồng điều ghép nên năng suất thu hoạch ngày được cải thiện hơn, tuy nhiên phần lớn diện tích cây điều trên địa bàn tỉnh chủ yếu là các giống điều truyền thống, năng suất thấp, nhất là các huyện phía bắc trồng chủ yếu trên đất các bạc màu nên hiệu quả kinh tế mang lại chưa cao.

- Cây tiêu: Diện tích gieo trồng đạt 1.123,5 ha, giảm 10,7% so với năm 2020; sản lượng thu hoạch đạt 1.520,0 tấn, giảm 10,4% (giảm 176,4 tấn); nguyên nhân là do giá tiêu thấp trong một thời gian dài, tình hình dịch bệnh trên cây tiêu phức tạp nên người trồng tiêu chặt bỏ một số diện tích tiêu già. Hiện nay, giá tiêu tăng trở lại, tuy nhiên vẫn chưa cao, người dân không phát triển thêm diện tích trồng mới.

- Cao su: Diện tích gieo trồng đạt 43.900 ha, tăng 4% so với năm 2020; sản lượng đạt 60.400 tấn, tăng 5,4% (tăng 3.077,3 tấn).

- Cà phê: Diện tích gieo trồng đạt 2.298,5 ha, tăng 1,3 % so với năm 2020; diện tích gieo trồng tập trung ở huyện Hàm Thuận Bắc, huyện Tánh Linh và huyện Đức Linh. Sản lượng ước đạt 4.000 tấn, tăng 4,7% (tăng 177,9 tấn).

- Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể,…

* Tình hình dịch bệnh: Dịch bệnh trên cây trồng cơ bản được kiểm soát; tiếp tục duy trì công tác phòng chống bệnh trên các loại cây trồng; tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng chất kích thích, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trên cây trồng. Tình hình sâu bệnh hại mặc dù được kiểm soát nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng phát thành dịch.

- Cây lúa: Diện tích nhiễm bệnh rầy nâu 783 ha, giảm 94 ha so với năm 2020; sâu cuốn lá 639 ha, giảm 2.294 ha; bệnh đạo ôn lá diện tích nhiễm 1.256 ha, giảm 1.122 ha.

- Cây thanh long: Bệnh đốm nâu cành diện tích nhiễm 5430 ha, giảm 1.310 ha so với năm 2020; bệnh vàng cành 2.100 ha, giảm 3.773 ha; bệnh thối rễ teo tóp cành 1.069 ha, giảm 1.072 ha; bọ trĩ, bọ xít và bọ xòe gây hại với diện tích 860 ha, tăng 203 ha; các đối tượng như rệp sáp, sên nhớt, sâu ăn tạp gây hại rãi rác cục bộ trên các vườn thanh long.

Các loài sâu bệnh hại trên những cây trồng khác xuất hiện và gây hại với mật độ không đáng kể và không có khác biệt nhiều so với năm 2020.

* Tình hình thủy lợi phục vụ sản xuất năm 2021: Tính đến nay nguồn nước thủy lợi, thủy điện cơ bản đáp ứng phục vụ sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho nhân dân theo kế hoạch. Tổng diện tích cây trồng được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện năm 2021 đạt 114.547/113.050 ha, đạt 101,3% so với kế hoạch. Trong đó tưới lúa, hoa màu thuộc hệ thống công trình thủy lợi toàn tỉnh ước đạt 93.081/92.015 ha, đạt 101,2% kế hoạch, diện tích tưới cây thanh long và các loại cây trồng khác 21.055/20.623 ha, đạt 102% kế hoạch; diện tích cấp nước nuôi trồng thủy sản 411/411 ha, đạt 100% kế hoạch.

2. Chăn nuôi (tại thời điểm 15/12/2021)

Giá thức ăn chăn nuôi tăng, trong khi đó giá thịt lợn hơi, giá gà công nghiệp có thời điểm giảm mạnh. Bệnh dịch tả lợn Châu phi bắt đầu xuất hiện vào cuối tháng 10 tuy đã được khống chế và không lan diện rộng nhưng có phần ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất chăn nuôi của người dân. Đàn gia súc, gia cầm trong năm 2021 nhìn chung phát triển tốt; đàn trâu giảm nhẹ; đàn bò phát triển ổn định; đàn lợn phát triển khá; tình hình dịch bệnh trong chăn nuôi cơ bản được kiểm soát tốt. Sản lượng thịt gia súc, gia cầm trong năm đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt là trong những ngày lễ, tết sắp đến và xuất bán ra các tỉnh lân cận.

- Chăn nuôi trâu, bò: Ước đàn trâu có 8.600 con, giảm 1,5% so với năm 2020, mặc dù giá thịt hơi khá ổn định, thị trường tiêu thụ rất tốt nhưng do khả năng sinh trưởng và tăng đàn chậm, thời gian đầu tư đến khi thu hồi vốn lâu hơn các loại vật nuôi khác nên người nuôi không mạnh dạn đầu tư tăng đàn. Đàn bò, bệnh nổi cục đã được khống chế và không làm ảnh hưởng đến việc tăng đàn, toàn tỉnh có 173.780 con, tăng 2% so với năm 2020.

- Chăn nuôi lợn: Ước đàn lợn có 321.500 con, tăng 5,8% so với năm 2020. Tỷ trọng đàn lợn trên địa bàn tỉnh có khuynh hướng giảm dần ở nông hộ và tăng dần ở doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi công nghệ cao CP (Năm 2020 nông hộ chăn nuôi nhỏ lẻ chiếm 33%; doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi lớn 66,4%. Năm 2021 nông hộ chăn nuôi nhỏ lẻ 17,9%; doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi lớn 82,1%). Chăn nuôi nông hộ dễ phát sinh bệnh dịch, không chủ động được đầu ra, dễ bị thua lỗ mỗi khi rớt giá, ngược lại chăn nuôi ở các trang trại, doanh nghiệp CP có cơ sở vật chất, kỹ thuật cao, kiểm soát được bệnh dịch, từ khâu chăn nuôi đến khi tiêu thụ, sản xuất sản phẩm từ thịt được thực hiện theo dây chuyền khép kín, chủ động được nguồn cung nên không bị ảnh hưởng nhiều về giá đầu ra.

- Chăn nuôi gia cầm: Ước đàn gia cầm có 5.040 ngàn con, tăng 18,4% so với năm 2020, trong đó đàn gà 3.651 ngàn con, tăng 28,1%. Chăn nuôi gia cầm có khuynh hướng chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm dần ở chăn nuôi nhỏ lẻ truyền thống sang khuynh hướng chăn nuôi quy lớn, với việc áp dụng nhiều công nghệ hiện đại vào sản xuất, kiểm soát được bệnh dịch và đặc biệt là bảo đảm được đầu ra sản phẩm.

* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật

- Công tác tiêm phòng: Đã tổ chức tiêm phòng 2.385,1 ngàn liều vắc xin; trong đó đàn trâu, bò 40,7 ngàn liều vắc xin; đàn lợn 30,6 ngàn liều vắc xin; đàn gia cầm 2.312,3 ngàn liều vắc xin. Trong năm 2021, đã tiêm phòng 28.101,9 ngàn liều vắc xin; trong đó đàn trâu bò 235,3 ngàn liều; đàn lợn 2.280,7 ngàn liều; đàn gia cầm 25.573,1 ngàn liều.

- Kiểm dịch động vật: Đã kiểm dịch 123,4 ngàn con lợn; 184 con trâu bò; 157,1 ngàn con gia cầm; 200 con dê; 298 tấn thịt các loại; 3.940,5 ngàn quả trứng gia cầm, 47,8 tấn thịt sơ chế. Trong năm 2021, đã kiểm dịch 1.036,2 ngàn con lợn; 20,8 ngàn con trâu bò; 4.042,6 con gia cầm; 4.780,1 tấn thịt các loại; 35.396,5 ngàn quả trứng gia cầm; 1.316,5 tấn thịt sơ chế.

- Kiểm soát giết mổ: Đã kiểm soát giết mổ 138 con trâu bò; 2,7 ngàn con lợn; 755 con gia cầm. Trong năm 2021 đã kiểm soát 3,1 ngàn con trâu bò; 32,5 ngàn con lợn; 22,5 ngàn con gia cầm; 1,5 ngàn con dê.

3. Lâm nghiệp

- Công tác trồng rừng: Trong tháng đã trồng 470 ha, tăng 46,4% so với năm 2020. Trong năm 2021 ước diện tích trồng rừng đạt 2.700 ha, tăng 6,8% so với năm 2020. Thực hiện giao khoán bảo vệ rừng đạt 137.650 ha.

- Công tác phòng cháy chữa cháy rừng: Công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng tiếp tục được các địa phương trên địa bàn tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện. Trong năm 2021 dù dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nhưng tỉnh vẫn thường xuyên tăng cường các lớp tập huấn nghiệp vụ kỹ thuật về phòng cháy, chữa cháy rừng cho công chức, viên chức, các đơn vị trực thuộc và chủ rừng trên địa bàn toàn tỉnh. Từ đầu năm đến nay không xảy ra cháy rừng, tuy nhiên đã xảy ra 26 trường hợp cháy với diện tích 35 ha, chủ yếu cháy thực bì dưới tán rừng. Tất cả các trường hợp cháy trên đều được phát hiện sớm và huy động 602 lượt người chữa cháy kịp thời, nên không gây thiệt hại tài nguyên rừng.

- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Các hoạt động tuần tra, kiểm tra, truy quét tại vùng giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận và các vùng trọng điểm nội tỉnh được tăng cường, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm. Từ đầu năm đến nay đã phát hiện, lập hồ sơ xử lý 270 vụ vi phạm; xử phạt hành chính 264 vụ vi phạm; tịch thu 254,1 m3 gỗ các loại; ngoài ra trong năm toàn tỉnh đã phát hiện 91 vụ lấn, chiếm đất rừng với diện tích 79,38 ha, đã lập hồ sơ vi phạm chuyển cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định. Tập trung xây dựng và tổ chức tuyên truyền pháp luật về bảo vệ rừng, quản lý các cơ sở gây nuôi động vật hoang dã, phòng cháy, chữa cháy rừng và phát triển rừng sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức phù hợp.

4. Thuỷ sản

- Diện tích nuôi trồng thủy sản: Diện tích nuôi trồng trong tháng 12 ước đạt 291 ha, tăng 0,5% so với năm 2020. Trong năm 2021, tổng diện tích nuôi trồng ước đạt 2.869,9 ha, tăng 2,5% so với năm 2020 (trong đó diện tích nuôi cá đạt 1.980 ha, tăng 2,4%; diện tích nuôi tôm đạt 868,9 ha, tăng 2,7%). Thời tiết thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản từ đầu năm đến nay, tình hình dịch bệnh nghiêm trọng không xảy ra.

- Sản lượng nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng trong tháng ước đạt 1.221,4 tấn, giảm 1,2% so với năm 2020. Năm 2021, sản lượng nuôi trồng ước đạt 12.191,5 tấn, tăng 1,1% so với năm 2020 (trong đó cá các loại ước đạt 4.938 tấn, tăng 3%; tôm nuôi nước lợ ước đạt 7.187,5 tấn, tăng 1%). Trong năm tình hình nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định; thủy sản nước lợ phát triển đa dạng loài nuôi, tập trung chủ yếu nuôi tôm, nhất là tôm thẻ chân trắng; thủy sản nước ngọt phát triển các giống nuôi kinh tế như cá tầm, chình, bống tượng, thát lát, nuôi hải sản trên biển tiếp tục được duy trì, một số đối tượng có giá trị kinh tế như cá mú, cá bớp, tôm hùm.

- Sản lượng khai thác: Trong những tháng đầu năm ngư dân bước vào mùa vụ khai thác chính của năm (Vụ cá nam), với điều kiện thời tiết, ngư trường trên biển thuận lợi nên hoạt động khai thác hải sản tương đối ổn định; các nghề lưới rê, lặn, mành chà, mành mực, lưới kéo, lồng bẫy, hoạt động có hiệu quả. Một số loài thủy sản có sản lượng đánh bắt cao như: Cá trích, cá nục, cá ngừ, cá bạc má, ghẹ, mực, bạch tuộc, nhuyễn thể 2 mảnh vỏ (sò lông, sò điệp).

Sản lượng khai thác trong tháng ước đạt 18.581,3 tấn, tăng 1,7% so với năm 2020. Năm 2021, sản lượng khai thác ước đạt 225.211,5 tấn, tăng 1,8% so với năm 2020 (trong đó khai thác biển ước đạt 224.872,2 tấn, tăng 1,8%). Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, giám sát hoạt động tàu cá, bảo quản sản phẩm sau khai thác luôn được quan tâm; các mô hình hiệu quả trong bảo quản sản phẩm sau khai thác được nhân rộng; toàn tỉnh hiện có khoảng 600 tàu cá cải hoán hầm bảo quản bằng vật liệu cách nhiệt Polyurethan (PU) để thay thế hầm bảo quản truyền thống; khoảng 100 tàu trang bị hầm cấp đông; thực hiện 01 mô hình “sử dụng công nghệ hầm lạnh bảo quản sản phẩm bằng máy bảo ôn trên tàu hoạt động nghề lưới kéo”. Chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác vùng biển xa bờ gắn với dịch vụ hậu cần trên biển được triển khai. Trong năm 2021 tỉnh đã tiếp nhận 3.285 hồ sơ đề nghị hỗ trợ với số tiền 8,8 tỷ đồng (trong đó hỗ trợ chi phí nhiên liệu 8,6 tỷ đồng, mua bảo hiểm 0,1 tỷ, mua máy thông tin liên lạc tầm xa 0,3 triệu đồng); đã xét thẩm định đợt 02 với số tiền hỗ trợ dự kiến gần 100 tỷ đồng.

- Sản xuất giống thuỷ sản: Hoạt động sản xuất tôm giống gắn với công tác kiểm dịch, phân tích xét nghiệm mẫu được duy trì thường xuyên; tăng cường quản lý chất lượng tôm giống, giữ vững chất lượng và thương hiệu tôm giống Bình Thuận trên thị trường. Trong quý 3 hoạt động sản xuất, tiêu thụ tôm giống gặp khó khăn do nhiều nhà máy thu mua tôm giảm công suất hoặc ngưng hoạt động, đến đầu quý 4 sản suất đi vào ổn định. Sản lượng giống năm 2021 ước đạt 26 tỷ con, tăng 3,1% so với năm 2020 (chủ yếu là tôm giống).

- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản

Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản được tăng cường; đặc biệt, thực hiện quyết liệt chỉ đạo của trung ương, của tỉnh về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định; khắc phục tồn tại, hạn chế trong chống khai thác IUU theo ý kiến kết luận của Đoàn Thanh tra Ủy ban Châu Âu. Trong năm, thông qua công tác nghiệp vụ và nhiều kênh thông tin, lực lượng chức năng của tỉnh phát hiện 02 tàu cá Bình Thuận bị nước ngoài bắt giữ các tàu cá này thường xuyên hoạt động, lưu trú, xuất bến ngoài tỉnh nên việc quản lý, kiểm soát gặp nhiều khó khăn; hiện các lực lượng chức năng tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và củng cố hồ sơ để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Về vi phạm nguồn lợi thủy sản, trong năm đã phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính 316 vụ với tổng số tiền phạt là 3,5 tỷ đồng với các vi phạm chủ yếu như: khai thác thủy sản sai vùng, không duy trì hoạt động thiết bị giám sát hành trình trong quá trình hoạt động trên biển, sử dụng tàu cá không đăng ký, thuyền viên trên tàu cá không có tên trong sổ danh bạ thuyền viên tàu cá; không đăng ký tàu cá theo quy định; thông báo không đầy đủ các thông tin theo quy định cho tổ chức quản lý cảng cá trước khi rời, vào cảng cá theo quy định. Tiếp tục thực hiện việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) trên tàu cá (đến nay toàn tỉnh có 1.853/1.894 tàu cá đã lắp đặt thiết bị giám sát hành trình, đạt 97,8% so với kế hoạch.

5. Công tác ứng dụng khoa học - công nghệ và khuyến nông vào sản xuất

Tổ chức thực hiện các mô hình sản xuất lúa cải tiến SRI theo hướng an toàn định hướng hữu cơ theo liên kết chuỗi (vụ mùa), lợi nhuận 18 triệu đồng/ha, cao hơn ruộng ngoài mô hình khoảng 7 triệu đồng/ha; Mô hình sản xuất nếp thương phẩm theo liên kết chuỗi, lợi nhuận 12,31 triệu đồng/ha, cao hơn ruộng ngoài mô hình khoảng 2,5 triệu đồng/ha; Mô hình sản xuất rau ăn lá, rau ăn quả đạt chứng nhận VietGAP theo liên kết chuỗi, lợi nhuận 110-158 triệu đồng/ha cao hơn ngoài mô hình 17-44 triệu đồng/ha; Mô hình nuôi cua thương phẩm 2 giai đoạn bằng thức ăn công nghiệp trong ao đất theo liên kết chuỗi, lợi nhuận 290 triệu đồng; Mô hình nuôi cá chình thương phẩm trong ao đất bằng thức ăn công nghiệp theo liên kết chuỗi, lợi nhuận 48,12 triệu đồng/1.200 m2. Mô hình trồng thâm canh cây điều giống mới theo liên kết chuỗi: quy mô 20 ha, thực hiện tại xã Đông Giang huyện Hàm Thuận Bắc 10 ha và xã Suối Kiết huyện Tánh Linh 10 ha. Mô hình thâm canh cây đậu bắp trên đất kém hiệu quả theo liên kết chuỗi, quy mô 23 ha, thực hiện tại huyện Tánh Linh (8 ha) và Hàm Thuận Bắc (15 ha).

6. Phát triển nông thôn

Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh. Trong năm, huyện Đức Linh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn nông thôn mới năm 2020 (tại Quyết định số 745/QĐ-TTg ngày 20/5/2021). Đồng thời, tham mưu trình Bộ Nông nghiệp và PTNT hồ sơ đề nghị xét, công nhận thành phố Phan Thiết hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới năm 2020 (lần 2) để tổ chức thẩm định. Ước đến cuối năm 2021, toàn tỉnh đạt 17,58 tiêu chí/xã và 6 tiêu chí/huyện; có thêm 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới toàn tỉnh lên 69/93 xã, chiếm 74,2% và có 2 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (Đông Hà và Nam Chính huyện Đức Linh).

Triển khai thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm; UBND các huyện tổ chức khảo sát, xây dựng khoảng 12 sản phẩm đề xuất Hội đồng tỉnh công nhận 3 sao trở lên; bên cạnh đó thực hiện xúc tiến thương mại cho các sản phẩm OCOP tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2021, có 98,7% hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh (đạt 100% KH), 65% hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế (đạt 100% KH).

II. Công nghiệp - xây dựng; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư

1. Công nghiệp

Trong năm 2021, dịch Covid-19 kéo dài làm một số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về thị trường nhập khẩu nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, nhất là các thị trường châu Âu, Mỹ, một số đơn hàng giảm mạnh, doanh nghiệp phải thu hẹp hoặc ngừng sản xuất; tuy nhiên nhờ chủ động và có những giải pháp kịp thời phòng chống dịch bệnh, hoạt động sản xuất - kinh doanh các doanh nghiệp cơ bản giữa vững và có bước phát triển.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 12 năm 2021 so với năm 2020 tăng 6,8%. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 46,22%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 7,95%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 5,84%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,04%. Tính chung cả năm 2021, ước chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tăng 3,88% so với năm 2020. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 38,33%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 3,58%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,44%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,62%.

Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010), dự ước năm 2021 đạt 35.978,3 tỷ đồng, tăng 6,14% so với năm 2020; trong đó công nghiệp khai khoáng 1.918,2 tỷ đồng, tăng 51,47%; công nghiệp chế biến chế tạo 17.543,2 tỷ đồng, tăng 4,78%; sản xuất và phân phối điện 16.264 tỷ đồng, tăng 4,09%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải 252,7 tỷ đồng, giảm 4,14%.

* Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu

- Đá khai thác: Đá xây dựng dự ước quý IV/2021 sản lượng đạt 526,2 ngàn m3, tăng 24,49% so với quý trước và tăng 62,28% so với cùng kỳ; luỹ kế đến cuối năm 2021 sản lượng đạt 1.661,4 ngàn m3, tăng 52,07% so với cùng kỳ, mức tăng cao do Bình Thuận đang triển khai thi công tuyến đường cao tốc và một số tuyến đường trong tỉnh.

- Thức ăn gia súc: Dự ước quý IV/2021 sản lượng đạt 114,6 ngàn tấn, giảm 1,78% so với quý trước và tăng 28,09% so với cùng kỳ; luỹ kế đến cuối năm 2021 sản lượng đạt 420,8 ngàn tấn, tăng 21,32% so với cùng kỳ. Nguyên nhân sản xuất tăng để đáp ứng nhu cầu cung cấp thức ăn đàn gia súc hiện đang phục hồi.

- Điện sản xuất: Dự ước quý IV/2021 sản lượng đạt 7.506 triệu kwh, tăng 5,54% so với quý trước và tăng 4,23% so với cùng kỳ; luỹ kế đến cuối năm 2021 sản lượng đạt 30.651 triệu kwh, tăng 3,49% so với cùng kỳ, mức tăng không cao do các Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân giảm công suất phát điện theo sản lượng điện được Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia phân bổ.

Tính đến đến cuối năm 2021, trên địa bàn toàn tỉnh hiện có 48 nhà máy điện đã thi công hoàn thành, đang hoạt động phát điện với tổng công suất 6.521 MW gồm: 04 nhà máy nhiệt điện thuộc Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân (công suất 4.284 MW), 07 nhà máy thủy điện (819,5 MW), 01 nhà máy điện diesel đảo Phú Quý (10 MW), 10 nhà máy điện gió (335 MW) và 26 nhà máy điện mặt trời (1.072 MW). Sản lượng điện thiết kế của 48 nhà máy điện trên địa bàn tỉnh khoảng 31,86 tỷ kWh/năm. Ngành công nghiệp điện, năng lượng của tỉnh đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà và đảm bảo cung cấp điện cho khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; trong đó nhiệt điện đóng góp sản lượng điện cao nhất với 80,37%, tiếp theo là thủy điện góp 11,43%, điện mặt trời góp 7,24%, điện gió góp 0,95%.

- Sản phẩm trang phục: Áo sơ mi dự ước quý IV/2021 sản lượng đạt 4.865 ngàn cái, tăng 36,81% so với quý trước và tăng 36,59% so với cùng kỳ; luỹ kế đến cuối năm 2021 sản lượng đạt 16.836 ngàn cái, tăng 17,06% so với cùng kỳ; bộ Com-lê (Jacket) dự ước quý IV/2021 sản lượng đạt 2.646 ngàn cái, tăng 53,43% so với quý trước và tăng 82,13% so với cùng kỳ; luỹ kế đến cuối năm 2021 sản lượng đạt 8.102 ngàn cái, tăng 24,92% so với cùng kỳ.

- Nước khoáng: Nước khoáng có ga dự ước quý IV/2021 sản lượng đạt 3,5 triệu lít, tăng 1,03% so với quý trước và giảm 0,47% so với cùng kỳ; luỹ kế đến năm 2021 sản lượng đạt 16,59 triệu lít, giảm 18,05% so với cùng kỳ; nước khoáng không có ga dự ước quý IV/2021 sản lượng đạt 19,02 triệu lít, tăng 23,48% so với quý trước và tăng 4,79% so với cùng kỳ; luỹ kế đến cuối năm 2021 sản lượng đạt 72,04 triệu lít giảm 12,37% so với cùng kỳ do ảnh hưởng dịch Covid-19 khách du lịch đến Bình Thuận giảm sâu, ảnh hưởng đến mức tiêu thụ sản phẩm nước khoáng.

* Xu hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Sản xuất kinh doanh quý IV/2021 so với quý trước: Qua khảo sát các doanh nghiệp thuộc ngành chế biến chế tạo cho thấy có 50,72% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh (SXKD) tốt hơn quý trước (trong khi đó Quý III: 13,04%); 26,09% đánh giá khó khăn (trong khi đó Quý III: 65,22%) và 23,19% số doanh nghiệp cho rằng ổn định.

+ Có 50,82% doanh nghiệp ngoài quốc doanh đánh giá có chiều hướng tốt lên; 24,59% có chiều hướng giữ nguyên và 24,59% có chiều hướng giảm (khó khăn hơn). Trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) 42,86% doanh nghiệp có có chiều hướng tốt lên; 14,29% có chiều hướng giữ nguyên và 42,86% doanh nghiệp có chiều hướng giảm (khó khăn hơn).

+ Dự kiến tình hình sản xuất kinh doanh quý tiếp theo có 86,95% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và tốt hơn, trong đó có 52,17% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt hơn; 34,78% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 13,05% dự báo khó khăn hơn.

+ Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh, có 44,93% doanh nghiệp đánh giá lý do dịch bệnh Covid-19; 46,38% doanh nghiệp cho rằng do thiếu nguyên nhiên vật liệu (chủ yếu ngành sản xuất chế biến thực phẩm); 43,48% doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng trong nước cao; 34,78% doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường trong nước thấp; 37,68% doanh nghiệp cho rằng do gặp khó khăn về tài chính; 18,84% doanh nghiệp cho rằng do không tuyển được lao động theo yêu cầu và 11,59% doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao.

* Tình hình hoạt động của các khu công nghiệp (KCN)

Năm 2021, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên các doanh nghiệp trong KCN gặp nhiều khó khăn, đã có 24 DN trong KCN Phan Thiết phải dừng hoạt động theo Chỉ thị số 16 của Thủ tướng chính phủ, kéo theo gần 4.500 lao động phải tạm thời nghỉ việc; nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. Song nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp về phòng chống dịch; đặc biệt là việc phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị phòng chống dịch covid-19 và sự chủ động tiêm vắcxin cho công nhân, người lao động tại doanh nghiệp; đến nay xấp xỉ 100% (10.800) công nhân, người lao động đã được tiêm đủ 2 mũi vắc xin phòng chống Covid-19, nên tình hình dịch bệnh cơ bản trong các KCN được kiểm soát tương đối tốt.

Doanh thu các doanh nghiệp năm 2021 ước 6.000 tỷ đồng, đạt 96,7%% kế hoạch năm; kim ngạch xuất khẩu ước đạt 175 triệu USD, đạt 109% kế hoạch năm; nộp ngân sách ước đạt 100 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch năm. Đến nay đã có 09 dự án đầu tư xây dựng theo giấy phép xây dựng đã cấp với giá trị khoảng 28,5 tỷ đồng/54,19 tỷ đồng đạt 57,21 % tổng vốn đầu tư.

Ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh Covid-19, nên tiến độ đầu tư hạ tầng trong các KCN có chậm hơn so với kế hoạch đề ra. Trong năm có 6/6 Khu công nghiệp triển khai đầu tư hạ tầng với tổng giá trị đạt 90 tỷ đồng, đạt hơn 31% kế hoạch năm, giảm 3,77% so với cùng kỳ (90,34 tỷ đồng). Đến nay toàn tỉnh có 09 khu công nghiệp với tổng diện tích 3.003,43 ha, có 36 cụm công nghiệp với tổng diện tích 1.182,8 ha.

2. Đầu tư phát triển

Trong bối cảnh nền kinh tế của địa phương đang gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, việc đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện cao nhất các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Các công trình trọng điểm năm 2021 của tỉnh vẫn đảm bảo tiến độ và đang thực hiện tốt, dự kiến sẽ hoàn thành kế hoạch năm 2021.

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý thực hiện tháng 12/2021 ước đạt 447,6 tỷ đồng, tăng 2,8% so với tháng trước và tăng 45,9% so với tháng cùng kỳ năm trước. Dự ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý năm 2021 đạt được 3.967,2 tỷ đồng, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt 95,3% kế hoạch năm 2021. Trong đó vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 3.274,8 tỷ đồng, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, đạt 95,1% kế hoạch năm (vốn cân đối ngân sách 916,7 tỷ đồng, vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 1.234,8 tỷ đồng; Vốn nước ngoài (ODA) 98 tỷ đồng; vốn xổ số kiến thiết là 1.025,2 tỷ đồng); vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện là 615,4 tỷ đồng, giảm 11,4% so với cùng kỳ năm trước, đạt 96,5% kế hoạch năm; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã là 77 tỷ đồng, giảm 9,4% so với cùng kỳ năm trước, đạt 96,2% kế hoạch năm.

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện trên địa bàn ước năm 2021 đạt 40.195 tỷ đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ. Trong đó vốn nhà nước trên địa bàn đạt 6.371,3 tỷ đồng, tăng 7,8% so với cùng kỳ và chiếm 15,9% trong tổng số vốn thực hiện trên địa bàn; vốn ngoài nhà nước đạt 29.873,5 tỷ đồng tăng 8,9% so với cùng kỳ và chiếm 74,3% trong tổng số vốn thực hiện trên địa bàn; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 3.950,1 tỷ đồng tăng 7,4% so với cùng kỳ và chiếm 9,8% trong tổng số vốn thực hiện trên địa bàn.

3. Đăng ký kinh doanh

Trong tháng 12 (từ ngày 15/11-15/12/2021), có 107 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 46 đơn vị trực thuộc), giảm 7,75% so với năm 2020; tổng vốn đăng ký mới 1.034,3 tỷ đồng, tăng 61,47%; số doanh nghiệp đã giải thể 30 doanh nghiệp (trong đó có 24 đơn vị trực thuộc), giảm 62,50%; tạm ngừng hoạt động 16 doanh nghiệp (trong đó có 5 đơn vị trực thuộc), bằng so với năm 2020; đăng ký thay đổi loại hình 194 doanh nghiệp, tăng 59,02%; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 13 doanh nghiệp (trong đó có 2 đơn vị trực thuộc), tăng 59,02%.

Cả năm 2021 (tính đến 15/12/2021), có 982 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 369 đơn vị trực thuộc), giảm 29,61% so với năm 2020; vốn đăng ký 9.124,19 tỷ đồng, giảm 2,93%; có 228 doanh nghiệp hoạt động trở lại (trong đó có 42 đơn vị trực thuộc) tăng 79,52%; tạm ngừng hoạt động 278 doanh nghiệp (trong đó có 59 đơn vị trực thuộc), tăng 2,96%; số lần đăng ký thay đổi 1.240 doang nghiệp (trong đó có 333 đơn vị trực thuộc), tăng 0,64%; chuyển đổi loại hình 68 doanh nghiệp (không có đơn vị trực thuộc), giảm 21,83% so với năm 2020. Số doanh nghiệp đã giải thể 225 doanh nghiệp (trong đó có 119 đơn vị trực thuộc), giảm 36,78%.

Về quản lý doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh: Thông báo cảnh báo 21 trường hợp doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đăng ký (theo yêu cầu của cơ quan Thi hành án). Xử lý “mở khóa” hoạt động trở lại 01 trường hợp sau khi cơ quan thuế chấp thuận cho hoạt động trở lại.

4. Đăng ký đầu tư

Trong năm 2021 (tính đến ngày 16/11/2021) trên địa bàn tỉnh có 27 dự án được cấp mới, với tổng diện tích đất 578 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 14.394 tỷ đồng. So với năm 2020, số dự án giảm 27 dự án, tổng diện tích đất bằng 84,7% so với cùng kỳ và tổng vốn đăng ký tăng 22,8%. Ngoài ra, cấp điều chỉnh Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư 42 dự án. Có 02 dự án khởi công, có 06 dự án đi vào hoạt động và 09 có dự án thu hồi. Lũy kế từ trước đến nay có 1.593 dự án được cấp phép đầu tư, với tổng diện tích đất 50.003 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 333,045 ngàn tỷ đồng. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng.

III. Thương mại; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải

1. Thương mại, giá cả

Năm 2021 dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh tương đối phức tạp, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn trong kinh doanh; tuy nhiên đại dịch cũng tạo ra sự thay đổi thói quen mua sắm của người tiêu dùng, nhiều doanh nghiệp chuyển đổi hình thức mua bán để phục vụ tốt hơn. Trong tháng tình hình mua bán diễn ra tương đối ổn định, các cơ sở kinh doanh trên địa bàn tỉnh đang hoạt động kinh doanh trong trạng thái “bình thường mới” sức mua của người dân tăng cao so với tháng trước. Công tác kích cầu tiêu dùng được tăng cường nhiều mặt, các doanh nghiệp tiếp tục triển khai tốt chương trình bán hàng bình ổn tại các siêu thị, cửa hàng, điểm kinh doanh trên địa bàn tỉnh; các cơ sở kinh doanh tiếp tục duy trì các hình thức bán hàng online, bán hàng trực tuyến.

- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng ước đạt 5.570,5 tỷ đồng, tăng 4,16% so với tháng trước và giảm 7,62% so với năm 2020; trong đó tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 4.474,7 tỷ đồng, tăng 4,46% so với tháng trước và tăng 10,74 % so với năm 2020. Hầu hết các nhóm ngành hàng tăng so với tháng trước; nhóm lương thực, thực phẩm dự ước đạt 2.308,3 tỷ đồng, tăng 4,81% so với tháng trước và tăng 12,96% so với năm 2020; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình dự ước 376,6 tỷ đồng, tăng 3,56% so với tháng trước và tăng 4,15% so với năm 2020 và nhóm hàng hoá khác dự ước 210,8 tỷ đồng, tăng 4,99% so với tháng trước và tăng 12,04% so với năm 2020; nhóm hàng gỗ và vật liệu xây dựng dự ước 258,1 tỷ đồng, tăng 4,8% so với tháng trước và tăng 14,48% so với năm 2020.

Trong quý 4 tình hình mua bán tương đối thuận lợi, tốc độ tăng trưởng của các ngành hàng tăng so với quý 3; dự ước doanh thu bán lẻ hàng hóa trong quý 4 đạt 13.040,6 tỷ đồng, tăng 16,39% so với quý 3. Trong đó nhóm lương thực, thực phẩm dự ước đạt 6.698,8 tỷ đồng, tăng 19,12%; nhóm hàng may mặc dự ước đạt 554,4 tỷ đồng, tăng 20,83% và nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình dự ước đạt 1.101,2 tỷ đồng, tăng 17,44%.

Trong năm 2021 tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 59.470,5 tỷ đồng, giảm 1,71% so với năm 2020; trong đó tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 45.200,1 tỷ đồng, tăng 7,77% so với năm 2020.

* Công tác quản lý thị trường: Công tác quản lý thị trường được tăng cường, đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; tuy nhiên tình trạng vi phạm về buôn bán hàng cấm vẫn còn diễn ra. Trong tháng 11/2021 lực lượng quản lý thị trường đã kiểm tra 54 vụ; phát hiện và xử lý 40 vụ vi phạm; trong đó 06 vụ hàng hàng cấm, 06 vụ hàng nhập lậu, 05 vụ vi phạm về đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá, 02 vụ vi phạm trong kinh doanh và 21 vụ vi phạm khác; xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 458,5 triệu đồng. Luỹ kế 11 tháng 2021, đã kiểm tra 1.185 vụ; phát hiện và xử lý 390 vụ vi phạm; trong đó 50 vụ hàng hàng cấm, 62 vụ hàng nhập lậu, 10 vụ vi phạm về hàng giả, hàng kém chất lượng và sở hữu trí tuệ, 27 vụ vi phạm về đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá, 69 vụ vi phạm trong kinh doanh, 22 vụ vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm và 150 vụ vi phạm khác; xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 3.986,6 triệu đồng.

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm 2021 tăng 0,09% so với tháng trước, tăng 3,70% so với cùng kỳ năm trước; CPI bình quân quý IV năm 2021 tăng 0,33% so với quý trước, CPI bình quân năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng 2,81%.

So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 7 nhóm hàng tăng giá: May mặc, mũ nón và giầy dép tăng 0,63%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,58%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,32%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,28%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,12%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,05%; bưu chính viễn thông tăng 0,01%. Có 2 nhóm hàng giảm giá: Giao thông giảm 1,99%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,12%. Có 2 nhóm hàng ổn định: Thuốc và dịch vụ y tế 100%; giáo dục 100%.

Nhìn chung, chỉ số giá CPI bình quân năm 2021 tăng 2,81% góp phần bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát của Chính phủ đề ra. CPI trong tầm kiểm soát đã góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế, tác động tích cực đến đầu tư và sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh Bình Thuận. Để tiếp tục kiểm soát tốt chỉ số giá CPI trong năm 2022, đặc biệt là tình hình giá cả thị trường biến động trong dịp lễ, Tết sẽ tăng cao trên địa bàn tỉnh, cần theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu; đồng thời, xử lý nghiêm những cơ sở bán hàng giả, hàng nhái, không niêm yết hoặc bán hàng không đúng giá niêm yết; chủ động xây dựng phương án bán hàng bình ổn giá nhằm hạn chế tình trạng găm hàng, tăng giá đột biến các mặt hàng thiết yếu trong những tháng cuối năm và dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022.

2. Hoạt động du lịch:

Hoạt động du lịch gặp nhiều khó khăn, doanh thu và lượt khách giảm mạnh so với năm 2020. Trong tháng, ngành kinh doanh du lịch và dịch vụ có chuyển biến sau khi Bình Thuận mở cửa đón khách trở lại trong trạng thái “bình thường mới”. Đa phần khách nội địa, khách lẻ hoặc gia đình đến từ các tỉnh lân cận và lưu trú tại các cơ sở lưu trú đã được tỉnh phê duyệt đảm bảo an toàn trong phòng, chống dịch. Các hoạt động lữ hành đang khởi động cho các tour du lịch năm mới, các hoạt dịch vụ khác tiếp tục hoạt động trở lại, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân. Trong quý 4 hoạt động lưu trú vẫn còn gặp nhiều khó khăn, doanh thu và lượt khách giảm mạnh so với năm 2020; với sự sụt giảm mạnh lượng khách quốc tế cũng như trong nước đã khiến nhiều khách sạn, nhà hàng và chuỗi bán lẻ tại các điểm du lịch trở nên vắng khách. Các tour du lịch không thể thực hiện được theo kế hoạch, do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 từ các tỉnh, chủ yếu phục vụ các tour trong tỉnh. Điều này đã làm sụt giảm doanh thu của ngành du lịch trước tình hình này tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở du lịch tiếp tục duy trì hoạt đông như giảm tiền thuế đất cho doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh du lịch, khuyến khích hệ thống ngân hàng tại địa phương cho vay với lãi xuất ưu đãi và gia hạn các khoản vay.

Lượng khách du lịch trong tháng ước đạt 7,9 ngàn lượt khách, tăng 2,2% so tháng trước và giảm 97,95% so với năm 2020; ngày khách phục vụ ước đạt 18,5 ngàn ngày khách, tăng 2,31% so với tháng trước và giảm 97,5% so với năm 2020. Trong năm 2021 lượt khách du lịch ước đạt 1.774,4 ngàn lượt khách, giảm 46,15% so với năm 2020; ngày khách du lịch ước đạt 3.094,9 ngàn ngày khách, giảm 47,92% so với năm 2020.

Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng ước đạt 55 tỷ đồng, tăng 1,88% so với tháng trước và giảm 93,89% so với năm 2020. Dự ước năm 2021 đạt 4.158,2 tỷ đồng, giảm 55,77% so với năm 2020.

* Tình hình khách quốc tế: Trong tháng lượng khách quốc tế tăng nhẹ so với tháng trước, lượng khách này chủ yếu là chuyên gia và người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam. Dự ước đạt 0,82 ngàn lượt khách, tăng 1,9% so với tháng trước và giảm 84,03% so với năm 2020; ngày khách phục vụ ước đạt 2,8 ngàn ngày khách, tăng 1.62% so với tháng trước và giảm 85,33% so với năm 2020. Dự ước năm 2021 đạt 23,2 ngàn lượt khách, giảm 86,45% so với năm 2020; ngày khách phục vụ ước đạt 88 ngàn ngày khách giảm 85,68 % so với năm 2020.

3. Xuất, nhập khẩu

Các doanh nghiệp, công ty sản xuất hàng xuất khẩu hoạt động ổn định, áp dụng điều kiện sản xuất an toàn, hoạt động kinh doanh trong trạng thái “Bình thường mới”, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp phòng chống dịch theo hướng dẫn của Bộ Y tế để đảm bảo đơn hàng đã ký kết trước đó.

- Kim ngạch xuất khẩu trong tháng ước đạt 49,96 triệu USD tăng 0,85% so với tháng trước, tăng 0,47% so với năm 2020. Trong năm 2021 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 576,3 triệu USD, tăng 21,79% so với năm 2020. Trong đó nhóm hàng thủy sản ước đạt 171,5 triệu USD, tăng 7,86%; nhóm hàng nông sản ước đạt 19,8 triệu USD, tăng 51,28%; nhóm hàng hóa khác ước đạt 385 triệu USD, tăng 27,86%. Trong quý 4 năm 2021 dù ảnh hưởng dịch Covid-19 bùng phát mạnh trên địa bàn tỉnh nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều nỗ lực vượt khó cố gắng duy trì hoạt động sản xuất - kinh doanh, chủ động tìm kiếm thị trường nhằm xúc tiến xuất khẩu. Nhờ đó góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Bình Thuận tăng khá.

+ Xuất khẩu trực tiếp năm 2021 ước đạt 567,91 triệu USD, tăng 24,9% so với cùng kỳ năm trước năm 2020. Trong đó xuất sang thị trường Châu Á ước đạt 361,8 triệu USD, tăng 19,38% (tăng chủ yếu ở thị trường Nhật Bản các mặt hàng thủy sản, áo, quần dài; thị trường Campuchia các mặt hàng ngô hạt; thị trường Trung Quốc các mặt hàng quặng các loại; thị trường Đài Loan các mặt hàng bộ quần áo, mực tươi, quả tươi). Xuất sang thị trường Châu Âu đạt 65,48 triệu USD, tăng 7,03% (tăng chủ yếu ở thị trường Nga các mặt hàng giày dép, quả tươi; thị trường Đức các mặt hàng tôm thẻ, sản phẩm từ sắt thép; thị trường Italia mặt hàng giày dép). Xuất sang thị trường Châu Mỹ đạt 135,42 triệu USD, tăng 58,42% (tăng chủ yếu ở thị trường Mỹ các mặt hàng giày dép, đồ gỗ nội thất, tôm thẻ; thị trường Belizơ mặt hàng đế giày; thị trường Canada mặt hàng giày dép).

+ Ủy thác xuất khẩu năm 2021 ước đạt 8,4 triệu USD, giảm 54,66% so với năm 2020.

- Nhập khẩu năm 2021 ước đạt 1.005 triệu USD, tăng 28,75% so với năm 2020. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu như thủy sản, thức ăn gia súc và nguyên liệu, nguyên phụ liệu dệt may, da giày.

4. Hoạt động vận tải

Trong năm 2021, hoạt động vận tải trên địa bàn không thuận lợi do dịch Covid-19, các phương tiện vận chuyển hành khách và hàng hoá, hạn chế tối đa việc di chuyển từ địa bàn, khu vực này sang địa bàn, khu vực khác. Mặc dù đến nay hoạt động vận tải trên địa bàn đã trở lại bình thường, tuy nhiên đạt mức tăng trưởng thấp hơn so với năm 2020.

- Vận tải hành khách:

+ Ước tháng 12 đã vận chuyển 252,88 nghìn hành khách và luân chuyển 7.446,15 nghìn hk.km. Dự ước cả năm 2021, đạt 7.915,75 nghìn hành khách, giảm 47,22% so với cùng kỳ và luân chuyển 354.900,29 nghìn hk.km, giảm 50,85% so cùng kỳ năm trước.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 12 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 0,25 triệu HK, tăng 26,62% so với tháng trước và giảm 83,29% so với cùng kỳ; dự ước cả năm 2021, đạt 7,86 triệu HK, giảm 47,18% so với cùng kỳ. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 1,0 nghìn hành khách; dự ước cả năm 2021, đạt 52,96 nghìn hành khách, giảm 51,34% so với cùng kỳ. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 7,33 triệu HK.Km, tăng 73,35 so với tháng trước và giảm 90,82% so với cùng kỳ; dự ước cả năm 2021, đạt 349,15 triệu hk.km, giảm 50,84% so với cùng kỳ. Luân chuyển hành khách đường thủy đạt 1,1 triệu hk.km, dự ước cả năm 2021, đạt 5,75 triệu hk.km, giảm 51,29% so với cùng kỳ năm trước.

- Vận tải hàng hoá:

+ Ước tháng 12 vận chuyển hàng hoá đạt 156,87 nghìn tấn và luân chuyển hàng hoá đạt 11.687 nghìn tấn.km. Dự ước cả năm 2021, đạt 4.607,83 nghìn tấn hàng hoá, giảm 37,58% so với cùng kỳ và luân chuyển hàng hoá đạt 257.300,54 nghìn tấn.km, giảm 37,93% so với cùng kỳ năm trước.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 12 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 0,15 triệu tấn, tăng 16,68% so với tháng trước và giảm 76,79% so với cùng kỳ; dự ước cả năm 2021 đạt 4,60 triệu tấn, giảm 37,51% so với cùng kỳ. Vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,34 nghìn tấn, dự ước cả năm 2021, đạt 5,40 nghìn tấn, giảm 22,46% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 11,64 triệu tấn.Km, tăng 14,73% so với tháng trước và giảm 73,45% so với cùng kỳ; dự ước cả năm 2021, đạt 256,67 triệu tấn.Km, giảm 36,86% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 39,25 nghìn tấn.km, dự ước cả năm 2021, đạt 620,58 nghìn tấn.km, giảm 21,39% so với cùng kỳ năm trước.

- Cảng quốc tế Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp hàng hoá tháng 12 ước đạt 80.000 tấn; ước năm 2021, đạt 924.2204 tấn (trong đó khối lượng bốc xếp ngoài nước đạt 153.338 tấn); các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng gồm quặng Ilmenite, cát, tro bay, xi măng, muối xá, thiết bị máy móc. Doanh thu tháng 12 ước đạt 10 tỷ đồng; cả năm 2021 doanh thu ước đạt 182,353 tỷ đồng.

- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi ước tháng 12 đạt 52,79 tỷ đồng, tăng 20,2% so với tháng trước và giảm 64,91% so với cùng kỳ năm trước; dự ước cả năm 2021, đạt 1.033,36 tỷ đồng, giảm 36,41% so với cùng kỳ năm trước; trong đó doanh thu vận tải hành khách ước đạt 327,54 tỷ đồng, giảm 44,78% so với cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 675,94 tỷ đồng, giảm 32,05% so với cùng kỳ; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 29,88 tỷ đồng, giảm 19,41% so với cùng kỳ.

IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng

1. Thu, chi ngân sách

Dự ước cả năm 2021, thu ngân sách đạt 13.213,14 tỷ đồng, đạt 158,81% dự toán năm, tăng 21,00% so với năm 2020; trong đó thu nội địa (trừ dầu) đạt 9.930,76 tỷ đồng, đạt 164,97% dự toán năm, tăng 15,58%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí 8.174,95 tỷ đồng, đạt 159,36% dự toán năm, tăng 18,95%; thu tiền nhà, đất 1.755,81 tỷ đồng, đạt 197,28% dự toán năm, tăng 2,10% (trong đó thu tiền sử dụng đất 1.496,20 tỷ đồng, tăng gấp 2,1 lần dự toán năm, tăng 34,37%); thu dầu thô 1.590,64 tỷ đồng, đạt 198,83% dự toán năm, tăng 36,86% và thu thuế xuất nhập khẩu 1.691,73 tỷ đồng, đạt 112,78% dự toán năm, tăng 45,09% so cùng kỳ năm trước.

Dự ước các khoản thu cả năm 2021 tăng/giảm so với cùng kỳ năm trước như sau: Thu từ doanh nghiệp nhà nước 1.486,81 tỷ đồng (tăng 41,22%), thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.312,75 tỷ đồng (tăng 19,44%), thu ngoài quốc doanh 1.833,77 tỷ đồng (tăng 27,45%), thuế thu nhập cá nhân 733,30 tỷ đồng (tăng 13,55%), thuế bảo vệ môi trường 510,89 tỷ đồng (giảm 2,23%); lệ phí trước bạ 303,43 tỷ đồng (giảm 0,32%); thu từ các loại phí, lệ phí 284,58 tỷ đồng (tăng 0,99%); thu khác ngân sách 260,54 tỷ đồng (tăng 3,65%); thu xổ số kiến thiết 1.280,67 tỷ đồng (tăng 9,09%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản 151,04 tỷ đồng (tăng 97,50%); thu tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 14,65 tỷ đồng (giảm 34,89%), thu tiền thuê mặt đất, mặt nước 244,69 tỷ đồng (giảm 57,51%); thu tiền sử dụng đất 1.496,20 tỷ đồng (tăng 34,37%); thu từ dầu thô 1.590,64 tỷ đồng (tăng 36,86%) và thu thuế xuất nhập khẩu đạt 1.691,73 tỷ đồng (tăng 45,09%).

Chi ngân sách đáp ứng kịp thời cho các nhu cầu chi lương và hoạt động thường xuyên của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, chi đầu tư phát triển; chi cho các nhiệm vụ trọng tâm; chi thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Tổng chi ngân sách dự ước cả năm 2021 đạt 14.891,58 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 10.559,83 tỷ đồng); trong đó chi đầu tư phát triển 4.707,92 tỷ đồng, chi thường xuyên 5.851,25 tỷ đồng.

2. Hoạt động tín dụng

Mạng lưới ngân hàng tiếp tục được phát triển; tín dụng tăng trưởng khá; vốn tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên; công tác thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công, thanh toán chuyển tiền điện tử tiếp tục được đẩy mạnh; việc cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu tiếp tục được quan tâm triển khai, đảm bảo hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân nói riêng phát triển an toàn. Đặc biệt, các tổ chức tín dụng đã nghiêm túc triển khai thực hiện các biện pháp hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, trong đó chủ động làm việc với khách hàng, đánh giá mức độ thiệt hại do ảnh hưởng của dịch để triển khai thực hiện các biện pháp như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ, cho vay mới theo tinh thần chủ trương, chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Tính đến ngày 30/11/2021, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn 954 tỷ đồng, chiếm 1,3% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu tăng 0,24% so với đầu năm. Cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ: Đến 03/12/2021, dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ là 664,7 tỷ đồng/6.233 khách hàng; lũy kế giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 23/01/2020 đến 03/12/2021 là 2.517 tỷ đồng/11.010 khách hàng. Các tổ chức tín dụng đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho khách hàng với tổng số tiền 117,65 tỷ đồng, trong đó miễn, giảm lãi là 1,25 tỷ đồng, hạ lãi suất cho vay với số tiền lãi đã hạ là 116,4 tỷ đồng với mức lãi suất giảm từ 0,25%-1,5%/năm đối với dư nợ hiện hữu của khách hàng. Cho vay mới đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với lãi suất thấp hơn so với trước khi dịch bệnh xảy ra: Doanh số cho vay mới lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến ngày 03/12/2021 là 40.993 tỷ đồng/73.238 khách hàng với mức lãi suất cho vay giảm khoảng từ 0,5%-1%/năm.

Tình hình thực hiện lãi suất: Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 2,85-4%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng là 3,6-6,7%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên là 4,4-6,9%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 4,5%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân là 5,5%/năm), các lĩnh vực khác từ 7-9%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 9-11,5%/năm.

Hoạt động huy động vốn (tính đến ngày 30/11/2021), nguồn vốn huy động đạt 46.457 tỷ đồng, tăng 13,38% so với đầu năm. Dự ước cả năm 2021 (tính đến 31/12/2021), vốn huy động đạt 46.709 tỷ đồng, tăng 14% so với đầu năm.

Hoạt động tín dụng: Các Tổ chức tín dụng tiếp tục mở rộng cho vay đi đôi với an toàn và hiệu quả, gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương. Luỹ kế 12 tháng (tính đến ngày 30/11/2021), tổng dư nợ cho vay đạt 73.261 tỷ đồng, tăng 5,14% so với đầu năm. Trong đó dư nợ cho vay bằng VND đạt 72.088 tỷ đồng, chiếm 98,4% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 42.297 tỷ đồng, chiếm 57,7% tổng dư nợ. Ước tính đến ngày 31/12/2021, dư nợ đạt 74.553 tỷ đồng, tăng 7% so với đầu năm.

Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của Trung ương và Địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 39.058 tỷ đồng, tăng 5,4% so với đầu năm, chiếm 53,3% tổng dư nợ (cùng kỳ năm trước tăng 10,2%); dư nợ cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao đạt 296 tỷ đồng, giảm 7,7% so với đầu năm, chiếm 0,4% tổng dư nợ (cùng kỳ năm trước giảm 1,56%); cho vay xuất khẩu đạt 487 tỷ đồng, giảm 5,5% so với đầu năm, chiếm 0,66% tổng dư nợ (cùng kỳ năm trước giảm 15%); cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 15.921 tỷ đồng, tăng 11,6% so với đầu năm, chiếm 21,7% tổng dư nợ (cùng kỳ năm trước tăng 8,08%).

Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 863,65 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 269,7 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 588,8 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 5,5 tỷ đồng), trong đó nợ xấu 45,1 tỷ đồng/6 tàu; nợ cơ cấu lại thời hạn 193,8 tỷ đồng/90 tàu.

Các đối tượng chính sách vay theo các chương trình tín dụng ưu đãi với dư nợ cho vay đạt 3.228 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP đạt 83,4 tỷ đồng/228 hộ.

Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động được vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất theo Quyết định 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ, tính đến 03/12/2021 đã giải ngân cho vay 8.798 triệu đồng cho 07 doanh nghiệp để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất cho 2.521 lao động, trong đó cho vay để trả lương ngừng việc với số tiền 250 triệu đồng/04 doanh nghiệp/78 lao động và cho vay để trả lương cho lao động phục hồi sản xuất với số tiền 8.548 triệu đồng/03 doanh nghiệp/2.443 lao động.

Công tác điều hòa tiền mặt, công tác an toàn kho quỹ tiếp tục được thực hiện tốt; hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng hoạt động thông suốt. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục hoạt động ổn định, thông suốt và an toàn. Đến 30/11/2021, trên địa bàn có 186 máy ATM, tăng 02 máy so với đầu năm và 1.543 máy POS, giảm 170 máy so với đầu năm (do các ngân hàng thực hiện rà soát, sắp xếp lại việc lắp đặt máy cho hiệu quả, tránh trùng lắp, một số máy POS được thu hồi nhưng chưa triển khai lắp đặt lại tại nơi khác), hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.

Các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Diễn biến thị trường vàng, ngoại hối trên địa bàn tiếp tục phát triển theo hướng ổn định. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 11 tháng đầu năm 2021 đạt 516 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 89,3 triệu USD.

V. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội

1. Hoạt động văn hóa - Thể dục thể thao

Hoạt động tuyên truyền, cổ động: Tuyên truyền kỷ niệm 91 năm ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2021); 39 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/21); 75 năm ngày thành lập Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (23/11/1946 - 23/11/2021); tuyên truyền phòng, chống dịch Covid-19…

Hoạt động văn nghệ: Tạm ngừng các hoạt động đông người để đảm bảo công tác phòng chống dịch Covid-19. Nhà hát ca múa nhạc Biển Xanh: Tham gia Liên hoan ca múa nhạc toàn quốc 2021 (đạt Huy chương Bạc nội dung chương trình, 02 Huy chương Vàng tiết mục, 02 Huy chương Bạc tiết mục, Bằng khen của Hội nghệ sĩ múa Việt Nam).

Hoạt động Thư viện: Trong tháng đã cấp 1.317 thẻ (thiếu nhi 242 thẻ), lượt bạn đọc truy cập website 201.321 lượt, cập nhật thông tin website Thư viện tỉnh 212 tin. Bổ sung 668 bản sách. Sưu tầm 21 tin, bài chuyên mục Thông tin kinh tế; 160 tin, bài Thông tin tư liệu Bình Thuận.

Hoạt động bảo tồn, bảo tàng: Không đón khách tham quan để đảm bảo công tác phòng chống dịch Covid-19. Bảo tàng tỉnh đón 20 lượt khách là học viên lớp Trung cấp chính trị tỉnh khóa 115 đến tham quan, nghiên cứu. Tổ chức khảo sát, kiểm tra và sưu tầm hiện vật tại di chỉ Nà Bồi thị trấn Ma Lâm, di chỉ Sa Ra xã Hàm Đức và Giếng Sen xã Hồng Sơn, huyện Hàm Thuận Bắc. Chấm điểm các tác phẩm tranh dự thi Hội thi sáng tác tranh “Bảo tồn di sản văn hóa địa phương” năm 2021.

Hoạt động Thể thao: Thể dục thể thao quần chúng đã tạm dừng tổ chức các hoạt động thể thao để phòng, chống dịch Covid-19. Thể thao thành tích cao: Cử đội Karate thi đấu giải vô địch quốc gia tại Thanh Hóa; đội tuyển Canoeing thi đấu giải đua thuyền Canoeing vô địch quốc gia năm 2021 tại Hải Phòng. Tính đến tháng 11/2021, tổng số huy chương đạt được 86 huy chương, trong đó 20 huy chương vàng, 23 huy chương bạc, 43 huy chương đồng.

2. Giáo dục và đào tạo

Năm 2021, do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, hầu hết học sinh không thể trực tiếp đến trường, một số cơ sở giáo dục trở thành cơ sở thu dung, điều trị Covid-19, ngành giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động tổ chức dạy học (học trực tuyến) cho học sinh các cấp, riêng trẻ mầm non tạm ngừng đến trường. Để chủ động về mặt thời gian và đảm bảo tiến độ chương trình năm học 2021- 2022, ngành giáo dục đã triển khai nhiều đợt tập huấn chuyên môn liên quan đến dạy học trực tuyến, để giúp giáo viên có thêm nhiều kĩ năng, nhiều lựa chọn vận dụng linh hoạt vào quá trình dạy học, giúp tăng cường hứng thú của học sinh đối với các môn học. Bên cạnh đó chủ động lựa chọn hình thức ra đề kiểm tra thường xuyên, định kỳ phù hợp, bảo đảm việc kiểm tra, đánh giá, chính xác, công bằng, khách quan, trung thực… Các cơ sở giáo dục, giáo viên đã chủ động, linh hoạt liên hệ với cha mẹ học sinh thường xuyên bằng nhiều hình thức để nhắc nhở, phối hợp, đôn đốc việc học của học sinh.

Kết quả kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, đội tuyển học sinh giỏi của tỉnh có 10 học sinh đạt giải (3 giải ba, 7 giải khuyến khích); kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 cấp tỉnh năm học 2020-2021 đạt 355 giải (15 giải nhất, 63 giải nhì, 277 giải ba); cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp tỉnh dành cho học sinh trung học có 47 dự án tham gia dự thi, kết quả có 23 dự án đạt giải chính thức, 1 đơn vị đạt giải tập thể; cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia, tỉnh có 2 dự án dự thi, 1 dự án nhận giải triển vọng của Ban Tổ chức cuộc thi. Tỷ lệ học sinh đậu tốt nghiệp THPT toàn tỉnh đạt 98,53% cao hơn mức bình quân chung của toàn quốc, trong đó hệ THPT đạt tỷ lệ 99,37%.

Trong năm học 2020 - 2021 có 777 em bỏ học, đạt tỷ lệ 0,33% (năm học trước là 930 học sinh, tỷ lệ 0,41%), nguyên nhân số học sinh bỏ học: Do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, có học lực yếu kém và các nguyên nhân khác,...

Năm học 2021-2022, toàn tỉnh có 256 trường tiểu học (trong đó có 87 trường tổ chức dạy học trực tiếp, 150 trường tổ chức dạy học trực tuyến, 165 trường tổ chức học qua truyền hình, không có trường chưa triển khai tổ chức dạy học); 130 trường THCS (trong đó có 29 trường tổ chức dạy học trực tiếp, 101 trường tổ chức dạy học trực tuyến, 13 trường tổ chức học qua truyền hình, không có trường chưa triển khai tổ chức dạy học); 28 trường THPT (trong đó có 01 trường tổ chức dạy học trực tiếp, 27 trường tổ chức dạy học trực tuyến, 28 trường tổ chức học qua truyền hình, không có trường chưa triển khai tổ chức dạy học).

Tổng số trường chuẩn quốc gia toàn tỉnh 269/538 trường công lập, đạt 50% (trong đó có 49/142 trường Mầm non đạt 34,50%, 127/240 trường Tiểu học đạt 52,91%, 79/130 trường THCS đạt 60,76%, 14/26 trường THPT đạt 53,8%. Trong năm 2021 (tính đến 15/12/2021 có thêm 11 trường đạt chuẩn quốc gia (03 trường Mầm non, 03 trường Tiểu học và 05 trường THCS), vượt chỉ tiêu số lượng tỉnh giao 04 trường.

3. Y tế

Công tác khám chữa bệnh tiếp tục đáp ứng được nhu cầu phục vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đã chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân. Các bệnh viện tiếp tục thực hiện tốt công tác phân luồng phòng lây nhiễm Covid-19 trong cấp cứu, khám và điều trị bệnh nhân. Thực hiện tốt các nhiệm vụ sẵn sàng tiếp nhận, điều trị các trường hợp bệnh nhân nhiễm virut Covid-19, chuẩn bị sẵn sàng các khu cách ly, thành lập các đội đáp ứng nhanh hỗ trợ điều trị cho tuyến dưới, chuẩn bị đầy đủ các phương tiện bảo hộ, thuốc, hóa chất phòng chống dịch.

Công tác bảo đảm an toàn thực phẩm: Triển khai thực hiện tốt công tác bảo đảm an toàn thực phẩm trước, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021. Từ đầu năm đến nay xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm([1]).

Trong năm tập trung triển khai thực hiện các công tác phòng, chống dịch Covid-19. Tính đến 27/4/2021 đến 18 giờ ngày 22/12/2021, toàn tỉnh đã ghi nhận 23.946 ca mắc Covid-19 (Phan Thiết 7.658, Tuy Phong 3.858, La Gi 2.607, Hàm Thuận Bắc 2.263, Đức Linh 1.876, Bắc Bình 1.734, Hàm Thuận Nam 1.470, Tánh Linh 1.244, Hàm Tân 744, Phú Quý 492). Trong đó có 5.322 ca đang được điều trị tại cơ sở y tế, 18.388 ca đã điều trị khỏi và xuất viện (Tuy Phong 1.151, La Gi 2.436, Phan Thiết 6.656), 253 ca tử vong (17 ca tử vong tại thành phố Hồ Chí Minh). Số trường hợp cách ly 57.896, trong đó đang cách ly là 2.091, hoàn thành cách ly 55.805 (cơ sở y tế 23.133; khu cách ly tập trung của địa phương 34.446; cơ sở cách ly tập trung có thu phí 317). Có 80.913 trường hợp cách ly tại nhà (đang cách ly 8.287, hoàn thành cách ly 72.626); Có 3.481.351 mẫu đã xét nghiệm; có 1.016.470 người được kiểm tra, giám sát tại các chốt kiểm soát; 32.787 trường hợp F1 và 25.312 trường hợp F2 của các trường hợp mắc Covid-19 đã điều tra giám sát được; 1.656.330 người đã tiêm vắc xin (có 897.894 người đã tiêm mũi 1 và 758.436 người tiêm mũi 2); 65.692 trẻ từ 12 đến 17 tuổi đã tiêm vắc xin (có 65.425 trẻ đã tiêm mũi 1 và 267 trẻ đã tiêm mũi 2).

4. Khoa học - Công nghệ; Bưu chính, viễn thông

Hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được chú trọng. Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh thực hiện theo cơ chế đặt hàng, có cam kết ứng dụng kết quả nghiên cứu ngay từ thời điểm tham gia tuyển chọn. Triển khai thực hiện tốt công tác hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn tỉnh trong 5 năm (2021-2025), hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp tham gia Giải thưởng Chất lượng Quốc gia năm 2021.

Hạ tầng mạng viễn thông 3G, 4G được phát triển mở rộng; đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Mạng lưới bưu chính, viễn thông với 1.260 cơ sở kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông, đạt bán kính phục vụ bình quân 1,4 km/cơ sở. Tổng số thuê bao điện thoại các loại ước đạt 1.857.700 thuê bao (điện thoại cố định là 30.000 thuê bao, điện thoại di động trả sau là 33.000 thuê bao), mật độ điện thoại 148 thuê bao/100 dân, đạt 100% kế hoạch. Tổng số thuê bao Internet ước đạt 150.000 thuê bao, tỷ lệ người sử dụng Internet (quy đổi) là 66% và đạt 100% kế hoạch năm. Hệ thống truyền dẫn cáp quang, mạng internet băng rộng di động và cố định đã phủ đến 100% xã/phường/thị trấn; các doanh nghiệp đã triển khai đầu tư mở rộng nhiều tuyến truyền dẫn quang với khoảng hơn 6,5 triệu km với nhiều vòng ring, hạ tầng truyền dẫn đã triển khai phủ khắp các cấp huyện, cấp xã (riêng huyện Phú Quý hạ tầng truyền dẫn dùng Vệ tinh và 3 tuyến vi ba dùng để truyền từ đất liền ra đảo, mạng cáp quang đã phủ khắp đảo). Tổng số vị trí trạm BTS 1.545 vị trí, với vùng phủ sóng di động 2G, 3G, 4G đạt khoảng 98% dân số trên toàn tỉnh.

5. Lao động - xã hội

Công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm có nhiều cố gắng. Trong năm 2021 chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, lao động đang làm việc trong nền kinh tế giảm mạnh. Tính đến 15/12/2021, tạo việc làm cho 16.000 lao động, đạt 80% so kế hoạch năm; trong đó cho vay vốn giải quyết việc làm cho 1.600 lao động, đạt 114,29% so với kế hoạch năm. Tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp 7.336 người, đạt 122,27% so với kế hoạch năm. Vận động Quỹ Đền ơn đáp nghĩa 9,199 tỷ đồng, đạt 153,3% so với kế hoạch năm, tăng 47,7% so với năm 2020; Quỹ Bảo trợ trẻ em 2 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch năm và bằng 97,5% so với năm 2020.

Chế độ chính sách ưu đãi và hỗ trợ đời sống đối với người có công với cách mạng được quan tâm triển khai tích cực. Đôn đốc xây dựng 10 căn nhà tình nghĩa tại huyện Tánh Linh và Hàm Thuận Nam do Tổng công ty Điện lực Miền Nam tài trợ. Trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 34 đối tượng và trợ cấp mai táng phí cho 44 trường hợp theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công. Tham mưu tỉnh ban hành Quyết định hỗ trợ mai táng phí cho 66 trường hợp thuộc ngân sách tỉnh.

Trên địa bàn tỉnh có 3.285 người 5 nghiện có hồ sơ quản lý; trong đó: đang quản lý, giáo dục, lao động trị liệu và chăm sóc sức khỏe tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh là 190/02 nữ; quản lý trong tại tạm giam, nhà tạm giữ 151 người; tự điều trị bằng thuốc thay thế Methadone tại cơ sở y tế 634 người; 2.310 người đang được các ban, ngành, đoàn thể nơi cư trú quản lý giáo dục. Có 109/124 xã, phường, thị trấn có người sử dụng trái phép chất ma tuý, chiếm 87.9% số xã, phường, thị trấn có người nghiện.

* Kết quả thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ:

- Chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất: Giải quyết tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất cho 13 doanh nghiệp/3.797 lao động, tổng số tiền tạm dừng đóng đến tháng 12/2021 là 22.472,101 triệu đồng.

- Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động: Chưa phát sinh hồ sơ.

- Chính sách hỗ trợ người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương: Phê duyệt hỗ trợ cho 406 doanh nghiệp/8.404 lao động/33.146,6 triệu đồng; trong đó hỗ trợ thêm cho lao động đang mang thai 186 người/ 170 triệu đồng và lao động đang nuôi con dưới 6 tuổi 1.945 người/ 1.945 triệu đồng.

- Chính sách hỗ trợ người lao động ngừng việc: Tỉnh đã phê duyệt hỗ trợ cho 17 doanh nghiệp/879 lao động/1.237 triệu đồng; trong đó hỗ trợ thêm cho lao động đang mang thai 53 người/53 triệu đồng, lao động đang nuôi con dưới 6 tuổi 305 người/305 triệu đồng.

- Chính sách hỗ trợ người lao động chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp: phê duyệt hồ sơ chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 26 người/104,46 triệu đồng, trong đó hỗ trợ thêm cho lao động đang mang thai 1 người/1 triệu đồng; hỗ trợ thêm cho lao động đang nuôi con dưới 6 tuổi 7 người/7 triệu đồng.

- Chính sách hỗ trợ đối với trẻ em và người đang điều trị Covid-19, cách ly y tế: đã phê duyệt hỗ trợ tiền ăn cho 2.457 người (F0)/3.371,24 triệu đồng và 5.115 người (F1)/5.526,48 triệu đồng; hỗ trợ thêm cho 1.247 trẻ em (F0, F1)/1.247 triệu đồng.

- Chính sách hỗ trợ viên chức hoạt động nghệ thuật và người lao động là hướng dẫn viên du lịch: Hỗ trợ cho 02 đơn vị/26 viên chức hoạt động nghệ thuật với số tiền 96,46 triệu đồng; 45 người lao động là hướng dẫn viên du lịch với số tiền 166,95 triệu đồng.

- Chính sách hỗ trợ hộ kinh doanh: Đã phê duyệt hỗ trợ cho 2.652 hộ kinh doanh/7.956 triệu đồng.

- Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất: Tỉnh hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất cho 06 doanh nghiệp/411 người/1.555 triệu đồng.

- Chính sách hỗ trợ lao động không giao kết hợp đồng lao động (lao động tự do) và đối tượng đặc thù khác theo điểm 12, mục II Nghị quyết số 68 của Chính phủ: đã phê duyệt hỗ trợ cho 42.629 người/63.943 triệu đồng.

6. Hoạt động bảo hiểm (đến ngày 30/11/2021)

Tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh diễn biến phức tạp làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế-xã hội của người dân và hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị, doanh nghiệp, gây khó khăn trong công tác BHXH, BHYT, BHTN làm giảm nguồn thu và tăng tỷ lệ nợ. Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch.

Lũy kế 11 tháng (tính đến ngày 30/11/2021), toàn tỉnh có 86.534 người tham gia BHXH bắt buộc, giảm 5,3% so với năm 2020; có 77.884 người tham gia BHTN, giảm 5,2%; số người tham gia BHXH tự nguyện 12.015 người, tăng 53,8%; số người tham gia BHYT 986.824 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 11.161 người), giảm 0,3%. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 87,2% dân số.

Lũy kế 11 tháng đã xét duyệt cho 48.895 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, giảm 14,9% so với cùng kỳ 2020. Trong đó hưởng các chế độ BHXH dài hạn 904 người; hưởng trợ cấp BHTN 8.925 người; hưởng trợ cấp BHXH một lần 12.296 người; hưởng chế độ BHXH ngắn hạn 26.734 lượt người.

Tổng số đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH dài hạn 16.893 người; tổng số thu 2.141,98 tỷ đồng, giảm 0,14% so với năm 2020; tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 180,73 tỷ đồng, tăng 4,64% so với năm 2020; tổng học sinh sinh viên tham gia BHYT 232.394 em, đạt 96,9%, còn 7.435 em chưa tham gia BHYT (chiếm 3,1% trong tổng sĩ số học sinh sinh viên) do tình hình dịch bệnh nên các trường chưa tổ chức nhập học, nên chưa thể vận động các em tham gia và đáo hạn BHYT.

7. Tai nạn giao thông (từ 15/11 - 14/12/2021)

Số vụ tai nạn giao thông 21 vụ, so với tháng trước giảm 03 vụ và so với năm 2020 giảm 09 vụ. Luỹ kế năm 2021, đã xảy ra 258 vụ (trong đó đường sắt không xảy ra), so với năm 2020 giảm 99 vụ.

Số người bị thương 17 người bằng so với tháng trước giảm 04 người và giảm 04 người so với năm 2020. Luỹ kế năm 2021, có 158 người, giảm 95 người so với năm 2020.

Số người chết 07 người, giảm 04 người so với tháng trước và giảm 10 người so với năm 2020. Luỹ kế năm 2021 có 153 người chết, so với cùng kỳ năm trước giảm 42 người.

Trong năm 2021, không xảy ra vụ tai nạn giao thông nào đặc biệt nghiêm trọng. Số vụ tai nạn giảm so với năm 2020 nguyên nhân do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 toàn tỉnh vẫn đang thực hiện phong tỏa, cách ly theo vùng và tạm thời dừng toàn bộ hoạt động của các phương tiện vận tải khách công cộng.

8. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường

- Thiên tai: Trong tháng xảy ra 01 vụ thiên tai gió mạnh, sóng lớn do ảnh hưởng của cơn bão số 9, độ cao sóng khoảng từ 1,5-2,5m; đã làm chết 01 người, chìm, hư hỏng 08 chiếc tàu cá của người dân, ước thiệt hại 1.300 triệu đồng. Lũy cả năm 2021, xảy ra 51 vụ thiên tai; làm chết 06 người, bị thương 04 người; hư hại 237 căn nhà; ngập úng 6.310 ha lúa, 1.509 ha hoa màu; chết 06 con bò và thiệt hại nhiều tài sản khác. Ước tổng giá trị thiệt ban đầu 68.290 triệu đồng.

- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 04 vụ cháy (giảm 04 vụ so với cùng kỳ), không có người bị thương, thiệt hại 85 triệu đồng, không xảy ra nổ. Lũy kế cả năm 2021 có 54 vụ cháy (giảm 23 vụ so cùng kỳ), thiệt hại 5.096,2 triệu đồng.

- Vi phạm môi trường: Trong tháng phát hiện 02 vụ xử phạt 827,1 triệu đồng. Lũy kế cả năm 2021, đã xảy ra 29 vụ (tăng 5 vụ so với cùng kỳ); tổng tiền đã xử phạt 4.447,4 triệu đồng.

* Đánh giá chung:

Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong năm 2021 có chuyển biến tích cực, nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội cao hơn so với cùng kỳ năm 2021, đáng chú ý là:

Thực hiện tốt mục tiêu “kép” vừa phát triển kinh tế - xã hội, vừa phòng, chống dịch Covid-19 có hiệu quả. Sản xuất công nghiệp phát triển ổn định, các công trình, dự án điện được đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Sản xuất nông nghiệp được duy trì, diện tích gieo trồng cây ngắn ngày, cây lâu năm, sản lượng lương thực, cao su, thanh long, số lượng gia súc, gia cầm và sản lượng khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm 2021. Công tác phòng chống dịch bệnh cây trồng, vật nuôi được triển khai tích cực; quản lý bảo vệ rừng, khoáng sản, nguồn lợi thủy sản, xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo. Các chính sách hỗ trợ phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục thực hiện tốt. Các hoạt động thương mại nội địa duy trì tăng trưởng, giá cả hàng hóa giữ được ổn định đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của nhân dân, nhất là trong dịp lễ, tết và đảm bảo đủ nguồn cung ứng phó với dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Xuất khẩu hàng hóa cải thiện rõ rệt (tăng 21,79%).

Thu ngân sách nhà nước, vượt 58,81% so dự toán cả năm, trong đó thu nội địa (trừ dầu) vượt 64,97% so dự toán cả năm. Chi ngân sách bảo đảm cho yêu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, thực hiện các chính sách an sinh xã hội và các nhiệm vụ trọng tâm trong công tác phòng chống Covid-19. Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định.

Công tác đầu tư công được quan tâm chỉ đạo. Hạ tầng giao thông được đẩy mạnh đầu tư, triển khai thi công: Đường cao tốc Bắc - Nam đoạn qua địa bàn tỉnh, đường ĐT.719, đường ĐT.719B, tạo điều kiện quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. Tập trung thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công, nhất là công trình trọng điểm.

Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách. Từ tháng 3/2021 và định kỳ hàng tháng, UBND tỉnh tổ chức làm việc với các doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư, triển khai các dự án và sản xuất kinh doanh. Công tác quản lý quy hoạch, xây dựng và trật tự đô thị trên địa bàn tỉnh luôn được quan tâm chỉ đạo. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất.

Chủ động và tập trung triển khai các biện pháp tích cực phòng chống dịch Covid-19 và xem đây là nhiệm vụ hàng đầu, tích cực, quyết liệt phòng ngừa, có từng bước đi, biện pháp phù hợp từng tình hình. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm, thực hiện tốt. Chất lượng giáo dục, đào tạo được duy trì. Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị, văn hóa, văn nghệ phù hợp, đảm bảo công tác phòng chống dịch Covid-19. Các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, chăm lo các đối tượng chính sách, người nghèo được quan tâm thực hiện tốt.

Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội ở một số lĩnh vực trong năm 2021 vẫn còn khó khăn, hạn chế:

Tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nhiều đến thu hút đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, nhất là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch, vận tải. Hoạt động dịch vụ du lịch, tiêu thụ sản phẩm, thị trường xuất khẩu, nhập khẩu gặp nhiều khó khăn. Lượng khách du lịch và doanh thu từ hoạt động du lịch, xuất khẩu thanh long giảm so với năm trước. Hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước bị gián đoạn, nhiều hoạt động tạm dừng hoặc không thể tổ chức như kế hoạch đề ra.

Tình hình sâu bệnh hại trên cây trồng, dịch bệnh vật nuôi tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh gây hại; tác động của dịch Covid-19 ảnh hưởng đến tiêu thụ và giá cả một số mặt hàng nông, thủy sản; người sản xuất đang ở trong tình trạng khó khăn “kép”, chi phí sản xuất cho đầu vào tăng, trong khi chuỗi tiêu thụ gián đoạn. Tình hình vi phạm lâm luật, bảo vệ nguồn lợi thủy sản vẫn còn diễn biến. Việc phát triển các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế; các mô hình sản xuất theo liên kết chuỗi từng bước được nhân rộng nhưng quy mô chưa nhiều; liên kết giữa sản xuất, chế biến, tiêu thụ còn nhiều khó khăn, bất cập; sự tham gia, đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế.

Sản xuất công nghiệp gặp khó khăn về nguồn nguyên phụ liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ; một số doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động hoặc cắt giảm thời gian làm việc. Tiến độ xây dựng hạ tầng và thu hút dự án đầu tư thứ cấp vào các khu công nghiệp chưa có nhiều chuyển biến. Tiến độ thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của các dự án trọng điểm (kể cả dự án vốn ngoài ngân sách) tuy được chỉ đạo quyết liệt nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế đặt ra.

Hoạt động giáo dục bị gián đoạn do dịch bệnh Covid-19, hình thức học được triển khai học trực tuyến trên thiết bị thông minh, máy vi tính và trên truyền hình. Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục còn nhiều khó khăn, chưa đồng bộ ở các cơ sở giáo dục. Nhiều hoạt động văn hóa, thể thao tại các địa phương đã được chuẩn bị chu đáo nhưng phải tạm dừng hoặc giảm quy mô tổ chức. Giải quyết việc làm không đạt kế hoạch và giảm so với năm 2020. Giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho lao động giảm so cùng kỳ năm trước./.


Website Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận

    Tổng số lượt xem: 738
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)