Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 23 tháng 7 năm 2013.
I. BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG
1. Tình hình thế giới
Bước sang tháng 7 năm 2013, tình hình kinh tế thế giới đã chứng kiến những bức tranh sáng hơn trên con đường hồi phục sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và khủng hoảng nợ công tại Châu Âu. Tại Mỹ, những báo cáo mới nhất về nền kinh tế lớn nhất thế giới 6 tháng đầu năm cho thấy những dấu hiệu lạc quan: ngân sách chính phủ thặng dư ở mức cao nhất kể từ tháng 4/2008, tỷ lệ thất nghiệp chung trong công nhân Mỹ vào tháng 6 giảm so với tháng 5 do nhiều việc làm mới được tạo ra, thị trường nhà đất cũng đã ấm dần lên với lượng mua bán nhà đã qua sử dụng và nhà xây mới đều tăng so với những tháng đầu năm. Trong khi đó, tại khu vực đồng tiền chung Euro, lạm phát tháng 6 tăng tháng thứ 2 liên tiếp, thêm dấu hiệu cho thấy khu vực này bắt đầu hồi phục sau đợt suy thoái kéo dài. Tại Nhật Bản, Ngân hàng Nhật Bản ngày 11/7 nâng mức đánh giá kinh tế Nhật Bản trong tháng thứ 7 liên tiếp và khẳng định kinh tế Nhật Bản “bắt đầu phục hồi ở mức vừa phải” trong bối cảnh niềm tin của các doanh nghiệp cải thiện và tiêu dùng gia tăng vững chắc. Tuy nhiên, sự phát triển quá nóng trong hơn một thập kỷ trước của Trung Quốc cũng đã bắt đầu giảm dần, tăng trưởng GDP của Trung Quốc giảm tốc quý thứ hai liên tục và có nguy cơ còn suy giảm thêm trong bối cảnh tín dụng bị siết chặt nhằm kiểm soát rủi ro xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính, bên cạnh đó là tình trạng lạm phát tăng cao trở lại.
2. Tình hình trong nước
Tình hình thị trường trong nước 7 tháng đầu năm vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi sức mua hàng hóa của người dân yếu, xuất phát từ nguyên nhân kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp giải thể, thu nhập của người dân giảm sút. Tồn kho của doanh nghiệp vẫn còn lớn, sản xuất cũng sụt giảm. Bên cạnh đó, giá cả nhiều loại nhiên liệu liên tục tăng như xăng dầu, gas… khiến cho giá cả nhiều loại hàng hóa thiết yếu cũng tăng theo. Tuy nhiên, do cầu thị trường thấp, nên tại nhiều thời điểm, chỉ số giá tiêu dùng duy trì âm hoặc tăng không đáng kể. Lạm phát 6 tháng đầu năm ở mức 2,4%.
Trong những tháng cuối năm, khi nước ta bước vào mùa mưa bão, cộng với tình hình dịch bệnh ở gia súc, gia cầm vẫn có nguy cơ lan rộng, người chăn nuôi hạn chế tái đàn; giá cả mặt hàng thức ăn chăn nuôi trên thị trường thế giới và trong nước tiếp tục có xu hướng tăng, có thể sẽ khiến giá thực phẩm tăng. Hoạt động sản xuất công nghiệp dự báo vẫn còn nhiều khó khăn do sức mua của người dân chưa phục hồi. Mặc dù lãi suất cho vay đã giảm mạnh trong những tháng đầu năm 2013 nhưng tín dụng vẫn không thể tăng cao do khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đang suy yếu. Trong đó, nguyên nhân chính là do tổng cầu giảm, lượng hàng tồn kho vẫn còn cao đã khiến cho doanh nghiệp không còn nhu cầu và động lực để vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, một số mặt hàng do nhà nước quản lý giá vẫn đang tiếp tục trong lộ trình điều chỉnh tăng giá như giá vé tàu, than, dịch vụ y tế, giáo dục… Chính vì vậy, nhiệm vụ về đảm bảo cung cầu thị trường, đặc biệt là ngăn ngừa nguy cơ lạm phát tăng cao trở lại trong những tháng cuối năm vẫn cần được thực hiện nghiêm túc, quyết liệt.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN THÁNG 7 VÀ 7 THÁNG ĐẦU NĂM 2013
1. Phát triển các ngành du lịch
Tháng 7 tiếp tục là mùa du lịch cao điểm trong năm của nước ta đặc biệt là du lịch nghỉ dưỡng tắm biển. Thời gian này vẫn đang là thời điểm đi du lịch mùa hè, cộng với các công ty du lịch liên tục đưa ra các chương trình khuyến mãi giảm giá, trung bình giá tour giảm từ 10-20% nên số lượng khách du lịch nội địa vẫn tăng. Nhiều điểm đến hấp dẫn như Sa Pa, Nha Trang, Đà Nẵng, Phú Quốc, Hạ Long…những ngày cuối tuần đều ”cháy” phòng khách sạn.
Sự kiện TripAdvisor - trang web du lịch lớn nhất thế giới đã bầu chọn 4 địa điểm du lịch của Việt Nam nằm trong top 25 điểm đến hấp dẫn ở châu Á, 3 bảo tàng Việt Nam vào top 25 bảo tàng hấp dẫn nhất Châu Á… đã khẳng định vị thế của du lịch Việt Nam trong lòng du khách quốc tế.
Để thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển hơn nữa, Tổng cục du lịch tiếp tục triển khai Chương trình kích cầu du lịch với chủ trương thúc đẩy mạnh mẽ du lịch nội địa và thu hút khách quốc tế, các hoạt động trên đã mang lại những kết quả nhất định từ đầu năm tới nay.
Bên cạnh đó các địa phương trên cả nước cũng nỗ lực thu hút khách dulịch bằng các hoạt động thiết thực như: biểu diễn thử nghiệm chương trình nghệ thuật phục vụ khách du lịch tại Quảng Ninh; họp báo phát động Cuộc thi Logo và Slogan Du lịch Đà Nẵng 2013; tổ chức tổ chức Hội thi Hướng dẫn viên du lịch giỏi năm 2013 tại Sa Pa, Lào Cai, v.v...
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 7 ước đạt 550.000 lượt tăng 7,36% so với cùng kỳ năm 2012. Tổng số khách du lịch quốc tế trong 7 tháng ước đạt hơn 4 triệu lượt khách, tăng 3,18% so cùng kỳ năm ngoái.
Khách du lịch quốc đến Việt Nam trong tháng 7 chủ yếu từ một số thị trường như: Trung Quốc,Hàn Quốc, Đài Loan, Úc, Pháp, Campuchia,…
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 7 bằng đường hàng không tăng 5% so với tháng trước, khách du lịch đi bằng đường bộ giảm 1%, khách du lịch đi bằng đường biển tăng 10%.
Xét theo mục đích chuyến đi, số lượng khách du lịch đi theo mục đích nghỉ ngơi, du lịch tăng 6% so với tháng trước, tiếp đến là khách du lịch đi theo mục đích thăm thân nhân tăng 15% và cuối cùng là khách đi theo mục đích công việc tăng 4%.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hoá
2.1. Xuất khẩu
7 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu ước đạt 72,7 tỷ USD, tăng 14,3%so với cùng kỳ năm 2012; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 44 tỷ USD, tăng 26,3% và chiếm 60,4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 48,2 tỷ USD, tăng 22%. Xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 24,5 tỷ USD, tăng 1,6%.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 7 tháng năm 2013 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt gần 4 triệu tấn, giảm 4,5% về lượng và giảm 9% về kim ngạch; than đá ước đạt 8,3 triệu tấn, tăng 6,1% về lượng và giảm 15,5% về kim ngạch; điện thoại các loại và linh kiện đạt 11,6 tỷ USD, tăng 87%; dệt may đạt gần 9,6 tỷ USD, tăng 16,3%; da giày đạt 4,8 tỷ USD, tăng 15,6%; gỗ và sản phẩm gỗ 2,9 tỷ USD, tăng 11,6%; hàng điện tử và linh kiện điện tử đạt 5,7 tỷ USD, tăng 40,4%; thuỷ sản 3,4 tỷ USD, giảm 0,2%; gạo gần 4,3 triệu giảm 9,9% về lượng và giảm 13,1% về kim ngạch; cà phê 887 ngàn tấn, giảm 23,9% về lượng và giảm 22,8% về kim ngạch; cao su 500 ngàn tấn, xấp xỉ về lượng và giảm 17,5% về kim ngạch...
Về thị trường xuất khẩu, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 16,8% và chiếm tỷ trọng 17,9% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 25,7% và chiếm tỷ trọng 19%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 14,6% và chiếm tỷ trọng 14,8%; xuất khẩu vào Nhật Bản giảm 2,9% và chiếm tỷ trọng 10,1%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 1,1% và chiếm tỷ trọng 10%.
2.2. Nhập khẩu
7 tháng đầu năm 2013, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước ước đạt 73,5 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 41,3 tỷ USD, tăng 24% và chiếm 56,3% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhập khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 32,1 tỷ USD, tăng 5,2%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 7 tháng năm 2013 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 4,3 triệu tấn, giảm 25,9% về lượng và giảm 28% về kim ngạch; sắt thép 5,5 triệu tấn, tăng 23,8% về lượng và tăng 10,5% về kim ngạch; phân bón 2,4 triệu tấn, tăng 19,8% về lượng và tăng 7,9% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt 10,1 tỷ USD, tăng 8,5%; máy tính và linh kiện 9,9 tỷ USD, tăng 43,9%; vải đạt 4,7 tỷ USD, tăng 18,8%; nguyên phụ liệu dệt may 2,1 tỷ USD, tăng 18,5%...
7 tháng năm 2013, nhập khẩu từ châu Á chiếm hơn 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 27%, tỷ trọng ước đạt 27%), ASEAN (tăng 2,5%, tỷ trọng 16,7%), Hàn Quốc (tăng 36,7%, tỷ trọng 15,8%), Nhật Bản (giảm 1,2%, tỷ trọng 8,8%) và EU (tăng 20,1%, tỷ trọng 7,5%).
2.3. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 7 tháng:
- Xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn giữ vai trò quan trọng góp phần vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chung. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng trưởng 25,8% so với cùng kỳ, trong khi đó nhóm hàng nông sản, thủy sản giảm 8,6% và nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm 15%.
- Khu vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng năm 2013 của cả nước tăng thêm 9,1 tỷ USD so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng 8,7 tỷ USD (đóng góp hơn 95% kim ngạch tăng thêm). Các mặt hàng có kim ngạch lớn và có tốc độ tăng trưởng cao đều do sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện đóng góp 99%; máy vi tính linh kiện và điện tử 98%; giầy dép 77%; hàng dệt may 60%; máy ảnh 99,6%.
- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 7 tháng năm 2013 của khu vực FDI là 24% cao hơn so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chung (15%) của cả nước, do các mặt hàng chủ lực của khu vực này chủ yếu là gia công, lắp ráp, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nhập khẩu của cả nước tăng 9,6 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu của khu vực FDI tăng 8 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng của khối doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng cao gồm điện thoại các loại và linh kiện 87,5%; máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện 92%; vải các loại 61%; nguyên phụ liệu dệt may, da giầy 67%.
- 7 tháng năm 2013, cả nước nhập siêu 733 triệu USD, bằng 1% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu 2,6 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, khu vực FDI xuất siêu khoảng 6,9 tỷ USD.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 7/2013 ước đạt khoảng 213.303 tỷ đồng, tăng 0,36% so với tháng 6/2013. Tính cả 7 tháng đầu năm 2013, tổng mức cả nước ước đạt 1.487.915 tỷ đồng, tăng 12,01% so với cùng kỳ năm 2012.
Trong các thành phần kinh tế tham gia thị trường, thành phần kinh tế cá thể vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 50,4%, tiếp đó là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước với tỷ trọng tương ứng là 35,2% và 10%. Giá trị đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,3%, trong khi khu vực kinh tế tập thể chiếm 1,1%.
Đối với tăng trưởng kinh tế, do tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ bằng khoảng 72% GDP nên tác động đến tăng trưởng kinh tế theo 2 chiều: Nếu tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ (sau khi loại trừ yếu tố tăng giá tiêu dùng) chậm lại, thì tốc độ tăng trưởng GDP cũng chậm lại theo và ngược lại. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ cùng với vốn đầu tư, xuất khẩu, xuất - nhập siêu là những yếu tố cầu kéo, tác động đến lạm phát cũng theo hướng tỷ lệ thuận với chỉ số giá tiêu dùng.
Tốc độ tăng của tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trong 7 tháng đầu năm thấp so với nhiều năm trước là một trong những yếu tố làm cho tốc độ tăng tồn kho sản phẩm tuy có chậm lại nhưng vẫn còn ở mức cao so với tốc độ tăng của sản xuất. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tính theo phân ngành cho thấy, ngành thương nghiệp thuần túy vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với khoảng gần 77%. Điều này chứng tỏ, trong điều kiện người tiêu dùng vẫn còn phải hạn chế chi tiêu, việc mua bán hàng hóa thuần túy và thiết yếu vẫn được ưu tiên lựa chọn.
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Theo Tổng Cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2013 tăng 0,27% so với tháng 6/2013, đưa chỉ số giá tiêu dùng trong 7 tháng đầu năm 2013 lên 2,68% so với tháng 12/2012.
Một số yếu tố tác động tới CPI tháng 7 như: (1) giá dầu thô và xăng dầu thành phẩm trên thị trường thế giới có xu hướng tăng trở lại; (3) Giá xăng dầu bán lẻ liên tục tăng 02 lần trong tháng 6 (ngày 14/6 và 28/6/2013- đều thuộc kỳ tính chỉ số giá tiêu dùng của tháng 7); (3) Cung lương thực, thực phẩm vẫn ổn định; (4) Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chưa thực hiện điều chỉnh tăng phí dịch vụ giáo dục, y tế; (5) Tỷ giá USD/VND có xu hướng tăng, ảnh hưởng tới giá hàng hóa nhập khẩu;
Tuy nhiên, có thể thấy chỉ số giá trong 7 tháng đầu năm tăng không quá cao là do tổng cầu chung của nền kinh tế vẫn còn yếu.
3.3. Kết quả thực hiện của một số ngành hàng trọng yếu
a. Xăng dầu
- Thế giới: từ nửa cuối tháng 6 đến giữa tháng 7 gần đây, giá xăng dầu trên thị trường thế giới có nhiều biến động, chủ yếu theo xu hướng tăng và luôn dao động ở mức cao. Cụ thể: giá xăng RON 92: 117,47 USD/thùng; dầu điêzen 0,05S: 121,60 USD/thùng; dầu hỏa: 118,91 USD/thùng, dầu madut 3,5S: 612,24 USD/tấn. Giá dầu thô thế giới kể từ đầu tháng tới nay đã tăng được gần 12%, trong đó cuộc khủng hoảng tại Ai Cập đã đóng vai trò phần lớn vào sự đi lên này. Tuy nhiên, hiện nay giá dầu thô đang có dấu hiệu giảm xuống, tính đến thời điểm cuối ngày 22/7/2013, giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 8 trên sàn giao dịch hàng hóa New York đã giảm xuống còn 106,91 USD mỗi thùng.
- Trong nước:Kể từ 20 giờ ngày 17/7/2013, giá bán lẻ xăng dầu đã tăng thêm từ 420 đến 470 đồng/lít. Để hạn chế mức tăng giá xăng dầu, Bộ Tài chính yêu cầu các DN giảm 2/3 lợi nhuận định mức và cho phép các doanh nghiệp xăng dầu đầu mối tiếp tục sử dụng Quỹ bình ổn. Giá bán lẻ xăng dầu trong nước hiện ở mức 24.570 đồng/lít đối với xăng A92 (tăng 460 đồng/lít so với giá cũ), dầu Diesel là 22.700 đồng/lít (tăng 480 đồng/lít) và dầu hỏa là 22.020 đồng/lít (tăng 420 đồng/lít).
Lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 7 ước đạt 500 nghìn tấn, tương đương 476 triệu USD, giảm 25,9% so với cùng kỳ năm 2012 về lượng, tương đương với mức giảm 28% về giá trị.
Giá trị xuất khẩu dầu thô và sản phẩm xăng dầu tháng 7 ước đạt 693 triệu USD, tương đương với 850 nghìn tấn. Trong đó, lượng dầu thô xuất khẩu đạt 750 nghìn tấn, giảm 4,5% so với cùng kỳ và lượng xăng dầu xuất khẩu đạt 100 nghìn tấn, giảm 35% so với cùng kỳ.
b. Sắt thép
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam, sản xuất thép 6 tháng đầu năm 2013 của các thành viên đều giảm 1,4% so với cùng kỳ 2012, tuy nhiên lượng tiêu thụ tăng 0,8% so với cùng kì năm 2012.
Về giá bán:
Trên thị trường thế giới, do nhu cầu yếu trong khi sản xuất ổn định, khiến cho cung vượt cầu, giá thép thành phẩm các loại, thép phế, phôi thép đều có xu hướng giảm. Do vậy, cùng với sự trầm lắng của ngành xây dựng trong nước, giá thép trong nước đều có xu hướng ổn định, và giảm trong những tháng gần đây. Trong 15 ngày đầu tháng 7, giá bán lẻ thép ổn định, tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung dao động từ 15.400 - 15.900 đồng/kg; tại các tỉnh miền Nam từ 15.300 -15.800 đồng/kg.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, sản lượng thép nhập khẩu thực hiện tháng 6/2013 đạt 821 nghìn tấn, ước tháng 7/2013 đạt 600 nghìn tấn, đạt trị giá 456 triệu USD; tính cả 7 tháng đầu năm ước đạt 5.477 nghìn tấn, tăng 23,8% về lượng so với cùng kỳ năm 2012.
c. Xi măng
Trong 7 tháng đầu năm 2013, sự trầm lắng của thị trường bất động sản khiến cho ngành xi măng gặp nhiều khó khăn. Sản xuất và tiêu thụ xi măng đều giảm so với cùng kỳ năm 2012. Dự kiến sản xuất và tiêu thụ xi măng cả năm 2013 sẽ ở mức 56-57 triệu tấn, giữ nguyên mức kế hoạch đầu năm và tăng 14%-16,67% so với năm 2012.
Về giá bán: giá xi măng bán lẻ trong cả nước 7 tháng đầu năm khá ổn định. Trong 15 ngày đầu tháng 7, giá bán xi măng tại các Công ty sản xuất xi măng thuộc Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam ổn định, giá bán lẻ tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung phổ biến từ 1.280.000 -1.560.000 đồng/tấn; tại các tỉnh miền Nam phổ biến từ 1.360.000 -1.640.000 đồng/tấn.
d. Phân bón
Thị trường phân bón thế giới 7 tháng đầu năm có xu hướng khá trầm lắng do lượng tồn kho cao, giá nguyên liệu đầu vào thấp nên giá phân bón có xu hướng ổn định và giảm mạnh trong thời gian gần đây.
Trong nước, tình hình tiêu thụ phân bón diễn biến theo mùa vụ sản xuất lúa. Hiện nay, nhu cầu phân bón cho vụ Hè-Thu tại các tỉnh phía Nam và miền Trung vẫn tiếp tục tăng. Về giá cả: trong 15 ngày đầu tháng 7: Giá phân Urê tại miền Bắc dao động khoảng 9.500-9.850 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; tại miền Nam giá phổ biến khoảng 9.400-9.900 đồng/kg, giảm 150 đồng/kg.
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Hải quan, ước tính tháng 7/2013, lượng phân bón nhập khẩu đạt 420 nghìn tấn, trị giá khoảng 148 triệu USD.
đ) Lương thực
- Thế giới:
Gạo 5% tấm tại các nước: Thái Lan giá chào gạo xuất khẩu hiện phổ biến ở mức 475-485 USD/ tấn giảm khoảng 15-20 USD/tấn so với tháng trước, Pakistan 420-430 USD/tấn giảm khoảng 20-25USD/tấn so với tháng 6, gạo Ấn Độ 435-445USD/tấn giảm khoảng 5 -10USD/tấn so với tháng trước, Việt Nam ở mức 385-395 USD/tấn tăng khoảng từ 5-10USD/tấn so với tháng 6 do bước vào thực hiện Chương trình mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo của Chính phủ và dân giữ gạo lại, hy vọng giá bán sẽ tăng lên trong thời gian tới.
Gạo 25% tấm: Thái Lan 450-460 USD/tấn giảm khoảng 30 USD/tấn so với tháng 6 ở mức (480-490USD/tấn), gạo Ấn Độ 390-400 USD/tấn giảm 5 USD/ tấn so với tháng 6 ở mức (395-405USD/tấn), Pakistan 370-380 USD/tấn giảm khoảng 20 USD/tấn so với tháng 6 ở mức (390-400USD/tấn), Việt Nam ở mức 350-360 USD/tấn 355 đến 365 USD/tấn, giảm khoảng 5 USD/tấn.
Như vậy, giá lúa gạo thế giới tháng 7 có xu hướng giảm nhẹ do nguồn cung dồi dào và do Chính phủ Thái Lan dự kiến sẽ bán khoảng 350.000 tấn gạo trong tuần tới, và sẽ bán thêm từ kho dự trữ nên tác động đến giá gạo thế giới giảm nhẹ.
- Trong nước:
Hiện giá lúa gạo phổ biến ở mức:
Đơn vị: đồng/kg
|
Lúa tẻ thường
|
Gạo tẻ thường
|
Phía Bắc
|
7.000 - 7.500
|
12.500 - 13.500
|
Phía Nam
|
4.800 - 4.900
|
7.500 - 7.600
|
- Về xuất khẩu gạo: Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam dự kiến sẽ xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo trong nửa cuối năm 2013, đưa tổng lượng xuất khẩu cả năm lên khoảng 7,5 triệu tấn.
- Về tồn kho gạo: Tính đến tháng 30/6/2013 tồn kho gạo cả nước khoảng 1,75 triệu tấn, chưa kể gạo tồn trong dân.
- Dự báo: Giá lúa gạo thế giới và trong nước tiếp tục ổn định và có xu hướng giảm nhẹ do nguồn cung dồi dào và nhu cầu chưa tăng cao.
e) Thực phẩm
- Giá các loại thực phẩm, rau, củ, quả: Tháng 7/2013 giá thực phẩm và các loại rau củ quả tiếp tục ổn định và có xu hướng giảm nhẹ do thời tiết thuận lợi và nguồn cung dồi dào. Các loại thực phẩm tươi sống như thịt bò, thịt lợn, thịt gà, thủy hải sản … giá ổn định, riêng trứng gia cầm có giảm nhẹ so với tháng trước từ 20000-30000đ/chục quả.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM 2013
1. Về du lịch
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các địa phương, các Hiệp hội trong việc thúc đẩy nâng cao chất lượng giao thông vận tải, môi trường, văn hóa...
- Triển khai quyết liệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Chương trình hành động quốc gia về du lịch và chương trình xúc tiến du lịch quốc gia giai đoạn 201202015 đã được phê duyệt nhằm tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch.
- Bộ Văn hoa Thể thao và Du lịch hướng dẫn các địa phương, các vùng sớm điều chỉnh quy hoạch phát triển du lịch cho phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển du lịch.
- Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tạo ra sản phẩm độc đáo, đặc trưng của du lịch từng vùng cũng như của du lịch Việt Nam; nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm du lịch và tăng cường xuất khẩu tại chỗ.
- Phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển du lịch. Đào tạo, tăng cường nhân lực, nghiệp vụ du lịch trong các hoạt động kinh doanh để thích ứng được yêu cầu phát triển du lịch.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước, hoàn thiện công tác phối hợp trong quản lý nhà nước về du lịch ở các cấp, đặc biệt công tác kiểm tra giám sát.
- Tăng cường đầu tư phát triển du lịch, tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài và các thành phần kinh tế cùng đầu tư phát triển cơ sở vật chât kỹ thuật phục vụ du lịch.
- Đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh quy định về lệ phí visa và tiếp tục duy trì chính sách miễn thị thực nhập cảnh cho khách du lịch một số nước là thị trường du lịch trọng điểm của du lịch Việt Nam.
- Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2013 cho các doanh nghiệp du lịch và thương mại dịch vụ tham gia Chương trình kích cầu du lịch năm 2013,
- Áp dụng thí điểm hoàn thuế giá trị gia tăng cho khách du lịch, đồng thời tiếp tục đề xuất chính sách ưu đãi, khích lệ khách du lịch tăng cường mua sắm tại Việt Nam.
- Các địa phương chủ động đưa ra chính sách biện pháp kích cầu như bãi bỏ quy định cấm hoặc cấp giấy phép con đối với xe vận chuyển khách du lịch, tạo điều kiện cho xe vận chuyển khách du lịch lưu thông trong và ngoài đô thị; đảm bảo an ninh, an toàn cho khách du lịch, đặc biệt giảm tối thiểu tình trạng cướp giật, lừa đảo khách du lịch ở các trung tâm du lịch, điểm du lịch.
2. Về xuất nhập khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu
- Chú trọng nâng cao chất lượng để tăng giá trị với nhóm hàng sản xuất truyền thống (đặc biệt là nông, lâm, thủy sản) không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng. Mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, có đóng góp quan trọng thực hiện kế hoạch xuất khẩu, giải quyết việc làm, ổn định xã hội.
- Tăng cường xúc tiến thương mại, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các đối tác, mở rộng thị trường xuất khẩu, không để lệ thuộc quá lớn vào một thị trường. Nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường; sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
- Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
Kiểm soát nhập khẩu
- Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
- Bộ Công Thương chủ trì xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường sử dụng máy móc vật tư, thiết bị sản xuất trong nước theo chỉ đạo của Chính phủ.
- Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.
- Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
- Tăng cường công tác hậu kiểm về chất lượng, an toàn vệ sinh đối với sản phẩm nhập khẩu và lưu thông theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn; thực hiện các biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và tạo hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu, kiểm soát việc nhập nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu...
- Rà soát các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã ký kết và cẩn trọng trong việc đẩy mạnh đàm phán ký kết các Hiệp định mới. Các Hiệp định thương mại quốc tế một mặt tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho hàng Việt Nam, mặt khác cũng gây nguy cơ nhập siêu nếu không đàm phán chặt chẽ.
- Tiếp tục nhấn mạnh nhóm biện pháp thông tin tuyên truyền, nhất là chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, coi đây là một kênh gián tiếp nhằm tăng tỷ lệ sử dụng hàng Việt Nam, qua đó giảm tỷ lệ hàng nhập khẩu.
3.Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
- Các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục khẩn trương triển khai các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 01/NĐ-CP và 02/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ, nhằm hiện thực hóa các chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước khôi phục và thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng.
- Tập trung cho công tác xúc tiến thương mại thị trường trong nước, ưu tiên triển khai nhiều chương trình trong khuôn khổ của cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” như tổ chức các hội chợ, triển lãm, đưa hàng hoá về nông thôn... nhằm kích thích tiêu dùng, đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm, giải quyết tồn kho cho doanh nghiệp,tháo gỡ khó khăn cho sản xuất. Đặc biệt, cần đẩy mạnh chương trình đưa hàng hóa về nông thôn, một mặt đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người dân (người dân ở nông thôn có tích lũy, tiết kiệm nhưng ít có điều kiện tiếp xúc với các hàng hóa có chất lượng tốt, đa dạng về mẫu mã chủng loại, hàng Việt Nam chất lượng cao... ), mặt khác sẽ giúp doanh nghiệp giảm được hàng tồn kho, thu lại được vốn, quay vòng cho sản xuất kinh doanh.
- Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tính toán các yếu tố đầu vào, tiết giảm chi phí, khơi thông đầu ra cho hàng hóa bằng cách củng cố hệ thống phân phối để sản phẩm hàng hóa từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng ở mức giá thấp nhất, giảm tồn kho sản phẩm.
- Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo, đặc biệt là đối với các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, xi măng, sắt thép, dược phẩm. Rà soát và tăng các chế tài xử phạt đối với các hành vi gian lận thương mại; đầu cơ; sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến lĩnh vực thương mại, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm quản lý và đẩy mạnh phát triển hệ thống phân phối bán lẻ. Nghiên cứu cơ chế chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển hệ thống đại lý phân phối tại các tỉnh, thành phố, hỗ trợ các địa phương xây dựng các chợ dân sinh...
Một trong những giải pháp để tháo gỡ khó khăn về đầu ra cho doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề tồn kho cần phải kích tổng cầu của nền kinh tế, trong đó có đầu tư công của Chính phủ và tiêu dùng của người dân ngay tại thị trường nội địa:
- Trước hết, phải tăng thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán của dân cư. Việc điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu kể từ tháng 7 năm 2013 của Chính phủ là một cố gắng lớn trong điều kiện ngân sách còn nhiều khó khăn, bội chi ngân sách còn lớn.
- Thứ hai, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đến độ tuổi lao động.
- Thứ ba, kích cầu đầu tư thông qua việc đẩy mạnh giải ngân thi công các công trình, xử lý nợ xấu, tăng trưởng tín dụng, hạ lãi suất cho vay, trả nợ xây dựng cơ bản, phát hành trái phiếu Chính phủ… Kích cầu tiêu dùng, nhưng phải vào việc tiêu dùng các hàng hóa sản xuất trong nước, đẩy mạnh hơn nữa phong trào tích cực hưởng ứng Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
- Về phía doanh nghiệp, để giải quyết hàng tồn kho, không chỉ giảm giá mà phải chú trọng khâu chăm sóc khách hàng, thậm chí chấp nhận lợi nhuận ít, tạo điều kiện để doanh nghiệp đối tác có vốn.
3.2. Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
- Bộ Công Thương khẩn trương hoàn chỉnh dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu trình Chính phủ xem xét, ban hành để có cơ sở điều hành về giá bán lẻ xăng dầu phù hợp trong thời gian tới.
- Bộ Tài chính cần sớm xây dựng Thông tư hướng dẫn về việc trích lập, sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu làm cơ sở cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu áp dụng trong từng thời điểm, đảm bảo tính ổn định, công khai, minh bạch.
- Tăng cường công tác nghiệp vụ, chuyên môn về dự báo và phân tích, đánh giá, nhận định thị trường về giá dầu thô thế giới.
b) Sắt thép
- Xây dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế thép rẻ kém chất lượng thâm nhập thị trường trong nước.
- Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước tập trung đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành để đảm bảo cạnh tranh được với thép kém chất lượng nhập từ nước ngoài.
- Bộ Công Thương cần phối hợp với Hiệp hội thép nghiên cứu giá bán điện, than phù hợp để giúp các doanh nghiệp phục hồi sản xuất, đồng thời giảm giá thành sản phẩm.
- Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thép và hạn chế nhập siêu.
c. Phân bón
- Các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị nguồn hàng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu, tránh tăng giá đột biến, đặc biệt khi bước vào cao điểm mùa vụ.
- Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt.
- Theo dõi chặt chẽ giá phân bón thế giới để có biện pháp điều tiết nhập khẩu và sản xuất phù hợp, không để xảy ra tình trạng thiếu phân bón gây sốt giá cục bộ, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
- Tăng cường công tác hải quan tại các cửa khẩu, đặc biệt là tại các tỉnh có đường biên giới nhằm giảm buôn lậu phân bón qua đường tiểu ngạch và hạn chế nhập khẩu phân bón từ nước ngoài.
d) Xi măng
- Áp dụng quy trình sản xuất kỹ thuật cao nhằm nâng cao năng suất, giảm tiêu thụ năng lượng, tránh gây ô nhiễm môi trường.
- Rà soát quy hoạch ngành xi măng, nhằm đảm bảo cân bằng cung – cầu, ổn định giá bán, không để tình trạng mất cung vượt cầu quá lớn gây lãng phí tài nguyên của đất nước, gây ô nhiễm môi trường trong khi xuất khẩu chưa thực sự hiệu quả.
đ) Lương thực, thực phẩm
- Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với Hiệp hội lương thực Việt Nam và các tỉnh có số lượng gạo xuất khẩu lớn chủ động tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu gạo, ổn định giá xuất khẩu đảm bảo hài hòa lợi ích các thành phần tham gia. Bên cạnh đó, chỉ đạo Hiệp hội lương thực Việt Nam và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo tuân thủ chặt chẽ giá sàn xuất khẩu.
- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn phối hợp với các Bộ, ngành, Hiệp hội lương thực và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có số lượng gạo xuất khẩu lớn đẩy nhanh việc nghiên cứu, xây dựng cơ chế tạm trữ lúa gạo mới theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 232/TB-VPCP ngày 03/7/2013 của Văn phòng Chính phủ.
- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tăng cường công tác chỉ đạo sản xuất với cơ cấu gieo trồng hợp lý, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, nâng cao chất lượng bảo quản, chế biến lúa gạo, từng bước xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
- Các địa phương chú trọng hơn nữa việc thực hiện chế độ báo cáo cập nhật thông tin tình hình sản xuất, mùa vụ thu hoạch để có những giải pháp điều hành phù hợp, linh hoạt hơn trong thời gian tới./.
File đính kèm: BCKTDichvuT7.13.pdf
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư