Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 27/03/2009-14:07:00 PM
Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp Quý I năm 2009
a/ Về tình hình thực hiện quý I/2009:
Tháng 3 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 53.218 tỷ đồng tăng 2,6% so với tháng 02 năm 2009 và tăng 2,4% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 3,9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 6%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,1% so với cùng kỳ (trong đó dầu khí tăng 24,3%, các ngành khác tăng 0,5%).
Tính chung quý I/2009 GTSXCN ước đạt 152.947 tỷ đồng tăng 2,1% so với cùng kỳ (thấp hơn nhiều so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 3,2%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,9%. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương giảm 3,3%, công nghiệp địa phương tăng 3,4%.
Phân theo ngành kinh tế cấp I: công nghiệp khai thác tăng 6,1%, công nghiệp chế biến tăng 1,8%, công nghiệp điện, ga, nước tăng 3,6%.
Quý I/2009 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN tăng cao hơn mức kế hoạch ngành (16,5%) có dầu thô khai thác tăng 16,9%; các sản phẩm có tăng trưởng nhưng thấp hơn mức kế hoạch ngành (16,5%) gồm: khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 3,9%, sữa bột tăng 7,9%, đường kính tăng 3%, bia tăng 10,4%, thuốc lá tăng 6,6%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 0,6%, giày thể thao tăng 3,4%, xà phòng giặt tăng 4,3%, xi măng tăng 10%, tủ lạnh, tủ đá đạt 4,4%, điện sản xuất tăng 3,5%, nước máy thương phẩm tăng 5,9% so cùng kỳ năm trước.
Các sản phẩm giảm so với cùng kỳ có than sạch đạt 93,3%, khí hóa lỏng (LPG) đạt 92,4%, thuỷ hải sản chế biến đạt 88%, phân hóa học đạt 77,9%, dầu thực vật tinh luyện đạt 85,5%, vải dệt từ sợi bông đạt 61,7%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 83,5%, sơn hoá học đạt 93%, lốp ô tô, máy kéo đạt 62,1%, lốp mô tô, xe máy, xích lô đạt 83,6%, săm đạt 64,6%, kính thuỷ tinh đạt 58,2%, gạch xây bằng đất nung đạt 93,3%, gạch lát ceramic đạt 67,1%, thép tròn đạt 96,7%, que hàn đạt 93,1%, điều hoà nhiệt độ đạt 84,9%, máy giặt đạt 91,1%, bình đun nước nóng đạt 80,9%, biến thế điện đạt 72,2%, tivi đạt 98%, ô tô đạt 80,4% (riêng xe tải tăng 7,4%), xe máy đạt 87,3% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ quý I/2009 nhiều tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng nhưng thấp hơn kế hoạch toàn ngành gồm: Tp. Hà Nội tăng 5,3%; Hải Phòng tăng 6,9%; Quảng Ninh tăng 0,4%; Thanh Hóa tăng 9,6%; Khánh Hoà tăng 5,4%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 1,9%; Bình Dương tăng 4%; Đồng Nai tăng 6,6%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 5,6%; Cần Thơ tăng 6,7%. Một số tỉnh, thành phố giảm so cùng kỳ gồm: Vĩnh Phúc đạt 82,4%; Hải Dương đạt 93,7%; Phú Thọ đạt 80,3%; Đà Nẵng đạt 86,2% so cùng kỳ.
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
- Trong quý I/2009, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã có tác động tiêu cực rõ rệt lên sản xuất công nghiệp trong nước. Nhiều doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm nên đã cắt giảm sản xuất, cắt giảm số lượng người lao động ảnh hưởng đến đời sống của một bộ phận người lao động và tình hình ổn định về kinh tế – xã hội nói chung. Theo thống kê của Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa thì hiện nay có các doanh nghiệp gặp khó khăn trung bình chiếm 70%, các doanh nghiệp rất khó khăn chiếm 20% (số doanh nghiệp ngừng hoạt động chiếm 10% và số tuyên bố phá sản khoảng 7000 doanh nghiệp). Việc các doanh nghiệp phá sản hoặc dừng sản xuất sẽ tạo ra tình trạng thất nghiệp ảnh hưởng đến đời sống của một bộ phận người lao động và an sinh xã hội (riêng ngành dệt may dự báo có khoảng 10-15% số lao động của ngành/ngoài Tập đoàn dệt may Việt Nam không có việc làm với số lượng có thể lên tới 200.000 người). Các doanh nghiệp sản xuất phôi thép và cán thép trong nước cũng gặp nhiều khó khăn do nhu cầu trong nước chưa tăng mạnh đồng thời phải đối mặt với hàng nhập khẩu với mức bảo hộ chưa cao hiện nay (thuế nhập khẩu đối với phôi thép 5%, thép xây dựng 12%), vì vậy các doanh nghiệp luyện phôi thép đang kiến nghị tăng thuế nhập khẩu lên mức cao hơn (mức đề xuất là 17% bằng với cam kết WTO). Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng xảy ra tình trạng đóng cửa hoặc tạm dừng sản xuất do không có đơn hàng xuất khẩu tiêu biểu như các doanh nghiệp của Nhật bản tại KCN Thăng Long (Hà Nội), KCN Quế Võ (Bắc Ninh) như Canon, Panasonic,...
- Về giá trị sản xuất công nghiệp chỉ tăng trưởng ở mức rất thấp so với cùng kỳ (2,1%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước đã giảm so với cùng kỳ, hai khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đầu tư nước ngoài chỉ đạt tăng trưởng ở mức thấp. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp và các địa phương đều có mức tăng trưởng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ.
- Về giá cả các sản phẩm công nghiệp như xi măng, sắt thép, xăng dầu đã giảm so với mức cao của năm 2008 nhưng do nhu cầu tiêu thụ thấp nên chỉ tăng trưởng thấp hoặc giảm so cùng kỳ. Việc tăng giá điện vào tháng 3/2009 với mức tăng từ 6,5 - 7% đối với điện sản xuất và 13% đối với điện sinh hoạt sẽ tạo động lực để các doanh nghiệp đầu tư sản xuất điện nhưng đồng thời tăng chi phí sản xuất của các ngành khác cũng như ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân.
- Lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đã giảm xuống mức 10%/năm, tuy nhiên các doanh nghiệp hiện đang thiếu đầu ra cho sản phẩm nên nhu cầu vay vốn cũng chưa cao. Riêng đối với các dự án đầu tư dài hạn thì đây là thời điểm thích hợp (lãi suất vay thấp, giá nguyên vật liệu giảm) để các doanh nghiệp thúc đẩy tiến độ đầu tư, đón đầu cho giai đoạn tăng trưởng sắp tới của nền kinh tế (dự kiến phục hồi vào cuối năm 2009, đầu năm 2010).
Về xuất nhập khẩu:
- Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước quý I/2009 ước đạt 13,48 tỷ USD tăng 2,4% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 4,47 tỷ USD giảm 13% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 4,26 triệu tấn tăng 22,4%; than đá đạt gần 5,3 triệu tấn giảm 12,2%; hàng dệt may đạt 1,9 tỷ USD gần bằng mức cùng kỳ; hàng giày dép đạt 915 triệu USD giảm 10,7%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 495 triệu USD giảm 13%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 159 triệu USD giảm 12%; dây và cáp điện đạt 128 triệu USD giảm 55%; sản phẩm nhựa đạt 173 triệu USD giảm 11% so cùng kỳ, máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 342 triệu USD, sắt thép và sản phẩm đạt 189 triệu USD; riêng đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt gần 2,3 tỷ USD (chiếm tới 17% kim ngạch xuất khẩu) tăng hơn 50 lần so với cùng kỳ.
- Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước quý I/2009 ước đạt 11,83 tỷ USD giảm 45% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu đạt 4,33 tỷ USD giảm 32,3% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: xăng dầu các loại đạt 2,94 triệu tấn giảm 18%; phân bón đạt 946 nghìn tấn giảm 16,5%; thép các loại đạt 1,27 triệu tấn giảm 71%; bông các loại đạt 33 nghìn tấn giảm 55%; sợi các loại đạt 98 nghìn tấn giảm 7,5%; ôtô nguyên chiếc đạt hơn 6 nghìn chiếc giảm 72,4%; linh kiện ôtô đạt 166 triệu USD giảm 66%; xe máy nguyên chiếc đạt hơn 23 nghìn chiếc giảm 51%; linh kiện xe máy đạt 98 triệu USD giảm 34,3%; chất dẻo nguyên liệu đạt 460 nghìn tấn tăng 5,5%; giấy các loại đạt 178 nghìn tấn giảm 34,5%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 2,38 tỷ USD giảm 30%.
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong quý I/2009 giảm chủ yếu là do giảm nhu cầu trong nước giảm cả về nguyên, nhiên liệu sản xuất (xăng dầu, phân bón, thép, bông, sợi, giấy các loại), máy móc thiết bị và phụ tùng, hàng tiêu dùng (ôtô, xe máy nguyên chiếc). Nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu, sản xuất và tiêu dùng của thị trường trong nước.
Trong quý I/2009, cán cân thương mại có xuất siêu với lượng xuất siêu đạt 1,65 tỷ USD bằng 12,2% kim ngạch xuất khẩu, tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu kim loại quý, đá quý và sản phẩm gần 2,3 tỷ USD vượt so với lượng xuất siêu.
Về các kiến nghị, giải pháp đảm bảo hoàn thành kế hoạch đề ra:
- Chính phủ xem xét việc điều chỉnh kế hoạch tăng trưởng năm 2009 bao gồm cả về tốc độ tăng GDP và các ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ), chỉ tiêu xuất nhập khẩu trên cơ sở thực hiện quý I/2009 và dự báo tăng trưởng cả năm.
- Trong thời gian tới Chính phủ nên thực hiện một số giải pháp sau:
+ Về đầu tư: cần đẩy nhanh các biện pháp kích cầu (gói kích cầu về kinh tế: giảm lãi suất vay vốn lưu động), tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư công bằng nguồn vốn ngân sách, vốn vay ưu đãi, vốn ODA để tạo việc làm và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp trong nước; đẩy nhanh việc thực hiện các dự án FDI (thông qua việc giảm thủ tục hành chính, hỗ trợ đầu tư hạ tầng) để kích thích tăng trưởng kinh tế.
+ Về kiểm soát thị trường: đối với các mặt hàng nhà nước có thể kiểm soát được và ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và đời sống như xăng dầu, điện, xi măng, sắt thép,... đề nghị chưa tăng giá trong năm 2009.
+ Về bảo hộ thuế quan: thực hiện việc bảo hộ các doanh nghiệp Việt Nam trong khuôn khổ cam kết hội nhập WTO (như giảm thuế VAT nhập khẩu đối với nguyên phụ liệu ngành dệt may, tăng thuế nhập khẩu phôi thép lên mức 10 - 15%).
+ Về thị trường xuất khẩu: cần tiếp cận và thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường mới như Nga và Đông Âu, Châu Phi, Trung cận đông.
+ Về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa: cần có chính sách hỗ trợ về vốn đầu tư, trợ cấp người lao động để tránh tình trạnh phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, làng nghề dẫn đến tình trạng thất nghiệp với số lượng lớn người lao động, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế – xã hội và môi trường đầu tư.

File đính kèm:
Bao cao cong nghiep quy I nam 2009.pdf

Vụ Kinh tế Công Nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1422
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)