1/ Tình hình chung:
Tháng 5 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 56.566 tỷ đồng tăng 1,8% so với tháng 4 năm 2009 và tăng 6,8% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 3,8%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 10,6%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,3% so với cùng kỳ (trong đó dầu khí tăng 19,4%, các ngành khác tăng 3,6%).
Tính chung năm tháng đầu năm 2009 GTSXCN ước đạt 265.639 tỷ đồng tăng 4% so với cùng kỳ (thấp hơn nhiều so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 0,1%, chiếm trọng 23,4% toàn ngành; khu vực ngoài quốc doanh tăng 7,3%, chiếm tỷ trọng 36,2% toàn ngành; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,7% (trong đó dầu khí tăng 15,8%, các ngành khác tăng 2,1%) chiếm tỷ trọng 40,4% toàn ngành. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 1,3%, công nghiệp địa phương tăng 5,6%.
Về chỉ số phát triển công nghiệp (khối lượng sản phẩm tính gộp) theo phân ngành cấp 4: công nghiệp khai thác mỏ tăng 9,4%; công nghiệp chế biến tăng 1,3%; sản xuất, phân phối điện, nước, gas tăng 5,4%.
Năm tháng đầu năm 2009 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng gồm: dầu thô khai thác tăng 19,9%, khí đốt thiên nhiên tăng 8,6%, khí hóa lỏng (LPG) tăng 2,7%, bia tăng 7,4%, thuốc lá điếu tăng 10,7%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 1,9%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 10,2%, xà phòng giặt tăng 8,7%, xi măng tăng 17,4%, thép tròn các loại tăng 13,2%, điều hoà nhiệt độ tăng 17,3%, tủ lạnh, tủ đá tăng 12,5%, máy giặt tăng 2,7%, tivi tăng 3%, điện sản xuất tăng 5,7%, nước máy thương phẩm tăng 7,1% so cùng kỳ năm trước.
Các sản phẩm giảm so với cùng kỳ có than sạch đạt 93,2%, thuỷ hải sản chế biến đạt 91,8%, sữa bột đạt 88%, đường kính đạt 81,6%, vải dệt từ sợi bông đạt 73,9%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 80,1%, giày thể thao đạt 99,5%, giấy, bìa các loại đạt 71,2%, phân hóa học đạt 87%, sơn hoá học đạt 90,4%, lốp ô tô, máy kéo đạt 81,1%,kính thuỷ tinh đạt 91,2%, gạch xây bằng đất nung đạt 97,5%, gạch lát ceramic đạt 76,4%, bình đun nước nóng đạt 77,3%, ô tô đạt 79,3% trong đó xe tải đạt 97%, xe máy đạt 96,1% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ năm tháng đầu năm 2009 nhiều tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng gồm: Tp. Hà Nội tăng 4,4%; Hải Phòng tăng 6,7%; Quảng Ninh tăng 10,3%; Thanh Hóa tăng 5,1%; Khánh Hoà tăng 7,2%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 3,4%; Bình Dương tăng 5,1%; Đồng Nai tăng 6,9%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 10,5%; Cần Thơ tăng 6,9%.
Một số tỉnh, thành phố giảm so cùng kỳ gồm: Vĩnh Phúc đạt 85,8%; Hải Dương đạt 95,1%; Phú Thọ đạt 88,7%; Đà Nẵng đạt 95,8% so cùng kỳ.
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
Trong năm tháng đầu năm 2009, khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn tiếp tục tác động tiêu cực đến sản xuất công nghiệp trong nước, đặc biệt khu vực doanh nghiệp nhà nước bị ảnh hưởng nhiều nhất với mức tăng trưởng âm, khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng nhưng tốc độ chưa cao;theo phân ngành cấp 4, sản lượng của ngành khai khoáng và sản xuất, phân phối điện, nước, gas có tốc độ tăng trưởng khá, trong khi công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn (88,7%) chỉ tăng trưởng ở mức thấp (1,3%) do nhu cầu giảm.
Về các sản phẩm công nghiệp đáng lưu ý là các sản phẩm xi măng, thép xây dựng tăng khá để đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng theo chủ trương kích cầu của Chính phủ, đồng thời việc điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu các sản phẩm thép xây dựng đã có tác động bảo hộ giúp các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh được với thép nhập khẩu.
2. Về xuất nhập khẩu:
- Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước năm tháng đầu năm 2009 ước đạt 22,8 tỷ USD giảm 6,8% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 8,28 tỷ USD giảm 10,2% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 6,9 triệu tấn tăng 22,5%; than đá đạt 9,69 triệu tấn giảm 4,7%; hàng dệt may đạtgần 3,2 tỷ USD giảm 1,6%; hàng giày dép đạt 1,6 tỷ USD giảm 10,1%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 909 triệu USD giảm 9,3%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 323 triệu USD giảm 3,3%; dây và cáp điện đạt 240 triệu USD giảm 41,7%; sản phẩm nhựa đạt 303 triệu USD giảm 13,4%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 660 triệu USD; sắt thép và sản phẩm thép đạt 345 triệu USD.
- Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước năm tháng đầu năm 2009 ước đạt 23,9 tỷ USD giảm 37% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu đạt 11,6 tỷ USD giảm 27% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: xăng dầu các loại đạt gần 5,5 triệu tấn giảm 5%; phân bón đạt 2 triệu tấn giảm 0,8%; thép các loại đạt 3 triệu tấn giảm 60,7%; bông các loại đạt 84 nghìn tấn giảm 32,8%; sợi các loại đạt 192 nghìn tấn tăng 8,47%; ôtô nguyên chiếc đạt hơn 17,2 nghìn chiếc giảm 55,6%; linh kiện ôtô đạt 405 triệu USD giảm 55,9%; xe máy nguyên chiếc đạt hơn 50,5 nghìn chiếc giảm 32,2%; linh kiện xe máy đạt 177 triệu USD giảm 32,4%; chất dẻo nguyên liệu đạt 832 nghìn tấn tăng 8,05%; giấy các loại đạt 100 nghìn tấn giảm 23,6%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 4,44 tỷ USD giảm 23,9% so cùng kỳ.
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong năm tháng đầu năm 2009 giảm chủ yếu là do nhu cầu trong nước giảm cả về nguyên, nhiên liệu sản xuất (xăng dầu, phân bón, thép, bông, giấy các loại), máy móc thiết bị và phụ tùng, hàng tiêu dùng (ôtô, xe máy nguyên chiếc). Nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu, sản xuất và tiêu dùng của thị trường trong nước. Tuy nhiên, có một số nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất có dấu hiệu tăng nhẹ như nhập khẩu sợi tăng 8,47%, chất dẻo nguyên liệu tăng 8,05% cho thấy nền kinh tế đang có sự dịch chuyển theo chiều hướng tốt.
3. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
- Tháng 5 năm 2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,43 triệu tấn tăng 0,5% so với tháng 4 năm 2009 nhưng tăng 22,9% so với cùng kỳ, lũy kế năm tháng đầu năm dầu thô khai thác ước đạt 7,3 triệu tấn tăng 19,9% so với cùng kỳ. Lượng dầu thô xuất khẩu 5 tháng đạt 6,95 triệu tấn tăng 22,5% so cùng kỳ.
- Sợi các loại nhập khẩu là nguyên liệu chủ yếu trong ngành dệt may, đạt 192 nghìn tấn trong năm tháng đầu năm 2009, tăng 8,47%. Cuối tháng 4 năm 2009, Công ty cổ phần Hoá dầu và Xơ sợi dầu khí (PVTex) thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) cùng các đối tác đó khởi công xây dựng nhà máy sản xuất xơ sợi Polyester Đình Vũ - Hải Phòng. Đây là nhà máy sản xuất xơ sợi đầu tiên ở miền Bắc, với công suất thiết kế 500 tấn xơ sợi mỗi ngày, trong hơn 2 năm tới, nhà máy sẽ đáp ứng 40% nhu cầu xơ sợi của cả nước, trong đó, Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) sẽ tiêu thụ khoảng 60% sản lượng của nhà máy này.
- Than đá sản xuất năm tháng đầu năm ước đạt 17,5 triệu tấn giảm 6,8% so với cùng kỳ, lượng than xuất khẩu 5 tháng đạt 9,7 triệu tấn (bằng 55% lượng than sản xuất) giảm 18,8% so với cùng kỳ (điều này một phần do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tuy nhiên phù hợp với chủ trương hạn chế xuất khẩu than đá để dành cho các dự án nhiệt điện trong nước), về kim ngạch xuất khẩu đạt 479 triệu USD.
- Điện sản xuất năm tháng đầu năm đạt 31,8 tỷ kwh tăng 5,7% so với cùng kỳ, đây là mức tăng thấp so với các năm trước (thường ở mức 12-15%) chủ yếu do nhu cầu không tăng nhiều vì ảnh hưởng của việc cắt giảm sản xuất của các doanh nghiệp sử dụng nhiều điện như: luyện thép, hóa chất, dệt may, cơ khí.
- Phân hóa học năm tháng đầu năm sản xuất ước đạt 1247 nghìn tấn giảm 13% so cùng kỳ. Lượng phân bón nhập khẩu đạt gần 2 triệu tấn giảm 0,84% so với cùng kỳ, về kim ngạch nhập khẩu ước đạt 638 triệu USD. Cuối tháng 4 năm 2009, Dự án DAP Hải Phòng đó cho ra tấn sản phẩm phân bónđầu tiên, đây là nhà máy sản xuất phân bónphức hợp chất lượng cao, Theo tính toán ban đầu, nhà máy sẽ đạt doanh thu khoảng 330 triệu USD/năm, nộp ngân sách 6,6 triệu USD/năm, góp phần tiết kiệm nguồn khoảng 165 triệu USD/năm do thay thế được sản phẩm cùng loại nhập khẩu.
- Thép tròn các loại năm tháng đầu năm sản xuất đạt 1,84 triệu tấn tăng 13,2% so cùng kỳ.
- Xi măng sản xuất trong nước tăng khá, năm tháng đầu năm ước đạt 17,1 triệu tấn tăng 17,4% so cùng kỳ.
File đính kèm: BAO CAO T5.unicode.pdf
Vụ Kinh tế công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư