Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 05/05/2014-16:12:00 PM
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện của các ngành thương mại - dịch vụ tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2014
Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 23 tháng 4 năm 2014

I. ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. Tình hình thế giới

Bước sang tháng 4/2014, thị trường hàng hóa thế giới được hỗ trợ nhờ sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế Mỹ sau các thông báo chính thức về tình hình kinh tế tháng 3 của nước này, cùng với đó là căng thẳng chính chị tại Ukraine mặc dù chưa được giải quyết nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Cụ thể: Giá dầu nhẹ giao tháng 5 tăng 0,1% lên 104,37 USD/thùng trên sàn Nymex, hợp đồng giao tháng 6 với giá giao dịch ở 103,65 USD/thùng, tăng 28 xu/thùng. Mặc dù vậy, những căng thẳng trong quan hệ giữa Nga, Mỹ và EU vẫn tiếp tục dẫn tới những lệnh trừng phạt lẫn nhau, đã có tác động trực tiếp tới sự tăng trưởng của các nước EU, vốn vẫn đang chật vật trên con đường thoát khỏi khủng hoảng nợ công, và khả năng khủng hoảng của kinh tế Nga trong trường hợp bị cô lập bởi các nước phương Tây.

Dự báo trong Quý II/2014, giá một số hàng hóa nhiên liệu trên thị trường thế giới tiếp tục bị tác động bởi các yếu tố bất ổn chính trị tại một số khu vực, tình hình biến động của thời tiết, cộng với nhu cầu hàng hóa trên thị trường dự báo ở mức không cao nên nhìn chung giá hàng hóa sẽ có khả năng ổn định hơn.

2. Tình hình trong nước

Tình hình các ngành kinh tế trong nước tháng 4/2014 chịu tác động của một số yếu tố như: sản xuất nông nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh trên vật nuôi vẫn chưa được kiểm soát hoàn toàn (đặc biệt là dịch cúm gia cầm), khô hạn diễn ra tại khu vực miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ; trong khi công nghiệp đang hy vọng phục hồi sản xuất sau kỳ nghỉ lễ dài từ đầu năm, cộng với việc thị trường bất động sản đang có xu hướng ấm dần lên tạo điều kiện cho các ngành vật liệu xây dựng hồi phục; ngành dịch vụ được hỗ trợ bởi các dịp Lễ và kỳ nghỉ dài trong tháng 4 và tháng 5 như giỗ Tổ Hùng Vương, dịp 30/4, 1/5 và giai đoạn thời tiết chuyển từ mùa xuân sang mùa hè… Bên cạnh đó, giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới chỉ có biến động nhẹ, cùng với việc cân đối cung – cầu trong nước được đảm bảo, sức mua chưa có gia tăng đột biến nên dự kiến giá hàng hóa, dịch vụ tiếp tục ổn định và có thể giảm nhẹ trong tháng này.

II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 4 NĂM 2014

1. Tình hình phát triển ngành du lịch

Tháng 4/2014 hoạt động du lịch đã sội động ngay từ ngày đầu tháng do thời gian này là tháng khởi động chuẩn bị bước vào mùa nghỉ hè trên cả nước. Nhiều hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch đã được tổ chức ở nhiều nơi như: Lễ hội Đền Hùng, Festival Huế 2014, Tuần văn hóa du lịch lễ hội Chợ tình Khâu Vai năm 2014-Hà Giang, Hội chợ Du lịch Quốc tế Việt Nam – VITM Hà Nội 2014,v.v...

Tháng Tư năm nay đang được xem là "tháng vàng" để các doanh nghiệp lữ hành tung ra những sản phẩm mới hút khách du lịch với thời gian nghỉ lễ giỗ Tổ Hùng Vương và nghỉ lễ trong dịp lễ 30/4 và 1/5.

Với chương trình kích cầu du lịch năm 2014 do Bộ VHTTDL phát động, một số chính chính sách tích cực nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước như: giá phòng khách sạn cao cấp tại một số khu nghỉ dưỡng có giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Vietnam Airlines sẽ triển khai tăng tải trên một số đường bay nội địa nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân trong dịp cao điểm nghỉ lễ 30/4 và 1/5. Một số chặng bay nội địa đã được các hãng hàng không Việt Nam áp dụng chương trình khuyến mại giảm giá vé,… Những hoạt động này góp phần thu hút một lượng du khách lớn trong và ngoài nước đến tham quan.

Với dịp nghỉ lễ Giổ tổ Hùng Vương và 30/4-1/5 kéo dài, góp phần làm sôi động thị trường Tour du lịch trong và ngoài nước ngay từ đầu tháng 4. Một số Tour du lịch có giá giảm so với cùng kỳ năm ngoái (khoảng 5%-10%). Đối với các Tour du lịch đi Hạ Long, Sapa, Cửa Lò, Nha Trang, Đà Lạt, Phan Thiết, Đà Nẵng,v.v... số lượng khách du lịch trong nước và quốc tế đăng ký tăng gấp đôi ngày thường, cụ thể vé máy bay đi các nước trên hầu như đã kín hết chỗ trong dịp này.

Trong dịp nghỉ lễ, số lượng khách du lịch Việt Nam đi du lịch nước ngoài khá lớn, đặc biệt là ở hai Thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Công tác tổ chức đón khách quốc tế cũng như việc đưa khách Việt Nam đi du lịch trong nước, nước ngoài được thực hiện tốt với sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan nhà nước và nhân dân.

Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 4 đạt khoảng 745.980 lượt khách, tăng 5,1% so với tháng trước, tăng khoảng 21,5% so với cùng kỳ năm trước, lượng khách du lịch quốc tế trong 4 tháng đầu năm khoảng 3,073 triệu lượt khách, tăng 27,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 4 tháng đầu năm chủ yếu từ một số thị trường như: Trung Quốc tăng 46%, Hồng Kông tăng 70,2%, Đài Loan tăng 24,3%, Nhật tăng 8,5%, Hàn Quốc tăng 6,7%, Campuchia tăng 32,2%, Lào tăng 27,7%, Malaysia tăng 15,8%, Philipines tăng 116,9%, Singapore tăng 12,5%, Thái Lan tăng 7,9%, Mỹ tăng 6,7%, Canada tăng 10,5%, Đức tăng 114,5%, Anh tăng 22,5%, Thụy sĩ tăng 12,5%, Italia tăng 20,7%, Hà Lan tăng 14,9%, Đan Mạch tăng 16%, Nga tăng 37,4%, Tây Ban Nha tăng 30%,v.v...

Trong 4 tháng đầu năm, xét theo phương tiện đi lại, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chủ yếu bằng đường hàng không (tăng 23,5% so với cùng kỳ), đường bộ (tăng 68% so với cùng kỳ). Xét theo mục đích chuyến đi của khách du lịch, khách du lịch theo mục đích nghỉ ngơi tăng 25,3%, khách du lịch theo công việc tăng 27,2% và khách đi du lịch thăm thân nhân tăng 33,1% so với cùng kỳ.

Trong dịp này công suất sử dụng phòng đạt mức cao trên 70%, nhiều khách sạn cao cấp xếp hạng 4-5 sao tại các trung tâm du lịch như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang... đạt công suất 80-90%.

2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

2.1. Xuất khẩu

4 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu ước đạt 45,7 tỷ USD, tăng 16,9%so với cùng kỳ năm 2013; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 28,2 tỷ USD, tăng 20,1% và chiếm 61,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 30,35 tỷ USD, tăng 17,2%. Xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 15,4 tỷ USD, tăng 16,2%.

Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 4 tháng năm 2014 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt 2,4 triệu tấn, giảm 11% về lượng và giảm 10,9% về kim ngạch; than đá ước đạt 3,4 triệu tấn, giảm 30,4% về lượng và giảm 25,9% về kim ngạch; điện thoại các loại và linh kiện đạt 7,7 tỷ USD, tăng 29,2%; dệt may đạt 5,9 tỷ USD, tăng 20%; da giày đạt 2,85 tỷ USD, tăng 21,9%; gỗ và sản phẩm gỗ 1,9 tỷ USD, tăng 22,4%; hàng điện tử và linh kiện điện tử đạt 2,9 tỷ USD, giảm 5,7%; thuỷ sản 2,2 tỷ USD, tăng 32%; gạo 2,1 triệu tấn, giảm 3,7% về lượng và giảm 1,6% về kim ngạch; cà phê 0,82 triệu tấn, tăng 39% về lượng và tăng 29,5% về kim ngạch; cao su 196 ngàn tấn, giảm 14,8% về lượng và giảm 36% về kim ngạch...

Về thị trường xuất khẩu 4 tháng năm 2014, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 26,8% và chiếm tỷ trọng 18,4% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 14,3% và chiếm tỷ trọng khoảng 18%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 3,3% và chiếm tỷ trọng 13,5%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 23% và chiếm tỷ trọng 11%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 26,5% và chiếm tỷ trọng 10,8%.

2.2. Nhập khẩu

4 tháng đầu năm 2014, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước ước đạt 45,05 tỷ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 26,26 tỷ USD, tăng 18,2% và chiếm 58,3% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhập khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 18,8 tỷ USD, tăng 8%.

Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 4 tháng đầu năm 2014 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 2,8 triệu tấn, tăng 13,3% về lượng và tăng 13% về kim ngạch; sắt thép gần 3,1 triệu tấn, giảm 1,6% về lượng và giảm 7,6% về kim ngạch; phân bón 1,05 triệu tấn, giảm 5,5% về lượng và giảm 26,5% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt 6,7 tỷ USD, tăng 26,7%; máy tính và linh kiện 5,8 tỷ USD, tăng 4,5%; vải đạt 2,75 tỷ USD, tăng 15,9%; nguyên phụ liệu dệt may 1,4 tỷ USD, tăng 32,5%...

4 tháng đầu năm 2014, nhập khẩu từ Châu Á chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 19,1%, tỷ trọng ước đạt 27,5%), ASEAN (tăng 7,6%, tỷ trọng 16,3%), Hàn Quốc (tăng 12,3%, chiếm tỷ trọng 15,8%), Nhật Bản (giảm 2,8%, chiếm tỷ trọng 7,6%) và EU (giảm 16,8%, chiếm tỷ trọng 5,7%).

2.3. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 4 tháng:

- Xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn giữ vai trò quan trọng góp phần vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chung.Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng trưởng khoảng 19,4%so với cùng kỳ. Đóng góp chủ yếu cho nhóm hàng này gồm các mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may, hàng giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ là các mặt hàng có kim ngạch lớn và đều có tốc độ tăng trưởng trên 20%. Nhóm hàng nông sản, thủy sản tăng 14%với sự tăng trưởng khá cao của các mặt hàng thủy sản (32%), cà phê (29,5%), hạt tiêu (41,3%), rau quả (23%). Nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm 10,5% với sự sụt giảm cả về lượng và kim ngạch của dầu thô và than đá.

- Khu vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2014 của cả nước tăng thêm 6,6 tỷ USD so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng khoảng 4,7 tỷ USD (đóng góp hơn 70% kim ngạch tăng thêm). Các mặt hàng có kim ngạch lớn và có tốc độ tăng trưởng cao đều do sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 99,6% tổng kim ngạch mặt hàng này của cả nước); máy vi tính linh kiện và điện tử (98,4%); giầy dép (76,7%); hàng dệt may (60%)...

- Tăng trưởng của xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước tuy thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung, nhưng đang có xu hướng tăng dần[1]. Tăng trưởng xuất khẩu 4 tháng đầu năm của khu vực này tăng 16,2% so với cùng kỳ, trong khi 3 tháng đầu năm tăng 13,1%; 2 tháng đầu năm tăng 10,1%.

- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 4 tháng năm 2014 của khu vực FDI là 18,2% cao hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chung (13,7%) của cả nước, do các mặt hàng chủ lực của khu vực này chủ yếu là gia công, lắp ráp, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.Nhập khẩu của cả nước tăng 5,4 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu của khu vực FDI tăng 4 tỷ USD. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của khối doanh nghiệp FDI là điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 86% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của cả nước); máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện (92,4%); vải các loại (62%); nguyên phụ liệu dệt may, da giầy (70%).

- 4 tháng đầu năm 2014, cả nước xuất siêu khoảng 684 triệu USD[2], bằng 1,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu gần 2 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, khu vực FDI xuất siêu gần 4,1 tỷ USD. Nhập siêu của khu vực doanh nghiệp trong nước ước đạt gần 3,4 tỷ USD.

3. Phát triển thị trường trong nước

3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 4/2014 ước đạt khoảng 238.934 tỷ đồng, tăng 2,38% so với tháng 3/2014. Tính 4 tháng đầu năm 2014, tổng mức bán lẻ cả nước ước đạt 939.632 tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2013.

(Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê)

3.2. Chỉ số giá tiêu dùng

Theo Tổng Cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2014 tăng 0,08% so với tháng 3/2014. Đây là mức tăng thấp so với cùng kỳ nhiều năm trở lại đây.

Trong đó, có 02 nhóm gồm dịch vụ bưu chính viễn thông và nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng giảm lần lượt là 0,14% và 0,56%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác cũng chỉ tăng thấp: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,15% (trong đó nhóm lương thực giảm 0,26%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 23%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,26%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,02%; nhóm giao thông tăng 0,33%. ...

(Theo số liệu của Tổng cục thống kê)

3.3. Tình hình cung – cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu

a) Xăng dầu

Thị trường thế giới:

Kể từ đầu năm 2014, giá dầu đã tăng khá cao nhờ hệ thống ống dẫn được mở rộng. Tuy nhiên, Morgan Stanley cho dự báo, giá dầu sẽ giảm xuống trong quý II do các nhà máy lọc dầu đang trong thời gian đóng cửa để bảo trì. Dự báo, nguồn cùng toàn cầu trong năm 2014 sẽ tăng lên với tốc độ nhanh nhất trong 10 năm.

Giá dầu nhẹ giao tháng 5 tăng lên 104,37 USD/thùng trên sàn Nymex và Hợp đồng dầu giao tháng 5 trên sàn này cũng đã hết hạn vào ngày 22/4. Hiện nay giao dịch trên thị trường đều là hợp đồng giao tháng 6 với giá giao dịch khoảng 103,65 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 6 tăng lên 109,95 USD/ thùng trên sàn ICE. Giá dầu tăng nhờ sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế Mỹ và căng thẳng địa chính trị tại Ukraine vẫn nằm trong kiểm soát.

Thị trường trong nước:

Trong bối cảnh giá xăng dầu thế giới tiếp tục biến động do tình hình hình căng thẳng của Nga và Ukaraine, tại thị trường trong nước kể từ 12 giờ ngày 22/4 giá bán lẻ mặt hàng xăng cũng đã được điều chỉnh tăng lên 210 đồng/lít, kế đến là dầu diesel 170 đồng/lít và dầu hỏa 130 đồng/lít. Riêng dầu mazut giảm 60 đồng còn 18.300 đồng/kg. Mức giá xăng Ron A 95 tại vùng 1 (tại các đô thị lớn) hiện có giá 25.400 đồng/lít, xăng Ron A 92 là 24.900 đồng/lít, đây là mức giá cao nhất từ trước tới nay.

Như vậy, kể từ đầu năm đến nay, giá xăng đã được điều chỉnh tăng 4 lần với mức tăng tổng cộng 680 đồng/lít. Thời điểm điều chỉnh tăng giá xăng lần này dự kiến sẽ ảnh hưởng đến giá dịch vụ ngành vận tải trong dịp nghỉ lễ 30/4 – 1/5 sắp tới.

Theo Bộ Tài chính, tính đến hết Quý I/2014, số dư quỹ bình ổn giá khoảng 842,016 tỷ đồng, trong đó: số trích Quỹ BOG trong Quý I/2014: khoảng 1.043,504 tỷ đồng. Số sử dụng Quỹ BOG trong Quý I/2014: khoảng 370,707 tỷ đồng.

Lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 4 ước đạt 720 nghìn tấn, tương đương 739 triệu USD, tăng 7,5% so với tháng trước; lũy kế 4 tháng đầu năm 2014 đạt 2.774 nghìn tấn, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước. Lượng dầu thô xuất khẩu tháng 4 ước đạt 616 nghìn tấn, tương đương 520 triệu USD, tăng 0,7% so với tháng trước. Lũy kế 4 tháng đầu năm đã xuất 2.412 nghìn tấn, tương đương 88,9% so với cùng kỳ năm 2013.

b) Sắt thép

Ước sản lượng thép xây dựng sản xuất trong tháng 4/2014 ổn định so với tháng trước, trong đó sản lượng sản xuất ước đạt 460 nghìn tấn, sản lượng tiêu thụ khoảng 480 nghìn tấn.

Về giá cả: giá thép xây dựng 15 ngày đầu tháng 4/2014 tiếp tục giữ ổn định, tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung dao động từ 15.400 - 16.000 đồng/kg; tại các tỉnh Miền Nam từ 15.300 -15.900 đồng/kg.

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, sản lượng thép nhập khẩu thực hiện tháng 3/2014 đạt 828 nghìn tấn, ước tháng 4/2014 đạt 860 nghìn tấn, tăng 3,9% về lượng so với tháng trước. Tính cả 4 tháng đầu năm 2014, lượng thép nhập khẩu đạt khoảng 3060 nghìn tấn, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước.

c) Xi măng

Theo Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam, ước lượng sản xuất, tiêu thụ của toàn ngành xi măng nửa đầu tháng 4/2014 đều tăng so với cùng kỳ tháng trước. Cụ thể, tổng sản lượng sản xuất toàn ngành xi măng ước đạt khoảng 2,4 triệu tấn, tăng khoảng 0,24triệu tấn; tổng sản lượng tiêu thụ ước đạt khoảng 2,6 triệu tấn, tăng khoảng 0,9 triệu tấn.

Về giá bán: Giá xi măng tại các nhà máy của Tổng Công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam và giá bán lẻ xi măng ổn định: tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung phổ biến từ 1.050.000 -1.500.000 đồng/tấn; tại các tỉnh miền Nam phổ biến từ 1.460.000-1.800.000 đồng/tấn.

d) Phân bón

Trên thị trường thế giới, giá ure 15 ngày đầu tháng 4/2014 giảm nhẹ so với cùng kỳ tháng trước, cụ thể tại thị trường Yuzhny giảm 20-25 USD/tấn, thị trường Baltic giảm khoảng 20 USD/tấn.

Giá ure 15 ngày đầu tháng 4/2014 có tiếp tục có xu hướng ổn định so với cùng kỳ tháng trước, cụ thể: Giá phân bón Ure tại miền Bắc giá phổ biến khoảng 8.500-8.700 đồng/kg, tại miền Nam, mức giá phổ biến khoảng 8.400-8.700 đồng/kg.

Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 4/2014, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 270 nghìn tấn với trị giá 83 triệu USD; tính cả 4 tháng đầu năm 2014, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 1045 nghìn tấn với trị giá 334 triệu USD, giảm 5,4% so với cùng kỳ năm 2013.

e) Lương thực, thực phẩm

Lương thực

Trên thị trường thế giới: Tháng 4/2014, giá gạo thế giới không tăng, mặc dù một số nước bắt đầu mở thầu mua nhiều gạo như Philipine dự kiến mua khoảng 01 triệu tấn gạo và doanh nghiệp Việt Nam đã trúng thầu xuất khoảng 800.000 tấn sang Philipne trong kỳ hạn từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2014, nhưng giá gạo vẫn ổn định, không có biến động lớn. Hiện giá gạo phổ biến ở mức giá như sau: Gạo trắng hạt dài, chất lượng cao Thái Lan 5% tấm mức 390-395USD/tấn fob; Ấn Độ 405-410 USD/tấn fob; Việt Nam 380-390USD/tấn giảm khoảng 5-10USD/tấn chênh lệch từ 5-10 USD/tấn so với gạo cùng loại của Thái Lan.

Tại thị trường trong nước: Tại miền Bắc, giá thóc tẻ thường dao động phổ biến ở mức 6.000-8.500 đồng/kg, giá gạo tẻ thường dao động phổ biến ở mức 8.000-12.500 đồng/kg. Tại Nam Bộ, giá lúa dao động ở mức 5.000-5.750 đồng/kg, giảm khoảng 50 đồng/kg. Giá lúa gạo giảm nhẹ do các tỉnh phía nam mới kết thúc thu hoạch vụ Đông Xuân nên nguồn cung dồi dào và chương trình mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo của Chính phủ được triển khai nhưng diễn ra chậm tại các địa phương.

Dự báo trong tháng tới, giá lúa gạo thế giới và trong nước tiếp tục ổn định.

Thực phẩm

Giá thịt lợn hơi có diễn biến tăng nhẹ do dịch cúm gia cầm bùng phát mạnh, người dân chuyển sang dùng thịt lợn thay cho thịt gà, nhu cầu thị trường tăng đã tác động làm giá thịt lợn hơi tăng; cụ thể: miền Bắc giá phổ biến khoảng 43.000-45.000 đồng/kg; miền Nam giá phổ biến khoảng 44.000-50.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng/kg. Thịt bò thăn ổn định: miền Bắc giá phổ biến khoảng 250.000-265.000 đồng/kg; miền Nam giá phổ biến khoảng 250.000-270.000 đồng/kg.

Giá một số loại rau củ quả giảm nhẹ so với cùng kỳ tháng 3/2014 là do thời tiết ấm áp, thuận lợi cho sự phát triển của rau xanh, cụ thể: bắp cải 10.000-15.000 đồng/kg, giảm 2.000-5.000 đồng/kg; khoai tây 15.000-17.000 đồng/kg, giảm 2.000-3.000 đồng/kg; cà chua 15.000-17.000 đồng/kg, giảm 3.000 đồng/kg.

Giá một số mặt hàng thuỷ hải sản như cá, tôm… ổn định. Cụ thể: Cá chép 70.000-80.000 đồng/kg; tôm sú 180.000-185.000 đồng/kg; cá quả 110.000-120.000 đồng/kg.

III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2014

1. Về phát triển ngành du lịch

- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các địa phương, các Hiệp hội trong việc thúc đẩy nâng cao chất lượng giao thông vận tải, môi trường, văn hóa...

- Triển khai quyết liệt Quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Chương trình hành động quốc gia về du lịch và chương trình xúc tiến du lịch quốc gia giai đoạn 2012-2015 đã được phê duyệt nhằm tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch.

- Bộ Văn hoa Thể thao và Du lịch hướng dẫn các địa phương, các vùng sớm điều chỉnh quy hoạch phát triển du lịch cho phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển du lịch.

- Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tạo ra sản phẩm độc đáo, đặc trưng của du lịch từng vùng cũng như của du lịch Việt Nam; nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm du lịch và tăng cường xuất khẩu tại chỗ.

- Phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển du ịch. Đào tạo, tăng cường nhân lực, nghiệp vụ du lịch trong các hoạt động kinh doanh để thích ứng được yêu cầu phát triển du lịch.

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước, hoàn thiện công tác phối hợp trong quản lý nhà nước về du lịch ở các cấp, đặc biệt công tác kiểm tra giám sát.

- Tăng cường đầu tư phát triển du lịch, tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài và các thành phần kinh tế cùng đầu tư phát triển cơ sở vật chât kỹ thuật phục vụ du lịch.

- Đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh quy định về lệ phí visa và tiếp tục duy trì chính sách miễn thị thực nhập cảnh cho khách du lịch một số nước là thị trường du lịch trọng điểm của du lịch Việt Nam.

2. Một số giải pháp điều hành xuất nhập khẩu năm 2014

- Đối với mặt hàng nông sản, bên cạnh việc nâng cao khả năng dự trữ tạo điều kiện cho việc ứng phó và điều tiết trước những biến động về giá trên thị trường thế giới, cần chú trọng hơn nữa về chất lượng sản phẩm để tăng giá trị các nhóm hàng sản xuất truyền thống không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng cũng như nâng cao được khả năng cạnh tranh.

- Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại với các hoạt động chủ yếu là: tổ chức các gian hội chợ, triển lãm chuyên ngành, hoạt động giao thương xúc tiến các ngành hàng xuất khẩu có tiềm năng như thực phẩm chế biến, thủy sản, nông sản nhằm củng cố, phát triển thị trường xuất khẩu truyền thống, tiềm năng như EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... và khai thác thị trường xuất khẩu mới ở Tây Á; hỗ trợ công tác thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.

- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tìm kiếm cơ hội kinh doanh, ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông lâm thủy sản.

- Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.

- Tiếp tục rà soát, xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật quản lý chất lượng hàng hóa, bảo đảm kiểm soát được chất lượng, phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế như: biên soạn 08 quy chuẩn Việt Nam cho sản phẩm và hàng hóa nhóm; triển khai các thủ tục xây dựng Thông tư quy định về quản lý chất lượng sản phẩm và Thông tư quy định hoạt động xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn quốc gia và quy chuẩn quốc gia; xây dựng và công bố Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải kiểm tra việc bảo đảm chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật, an toàn thực phẩm trước khi thông quan và hướng dẫn cụ thể việc kiểm tra, xác nhận chất lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

- Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.

- Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.

- Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.

3. Về phát triển thị trường trong nước

3.1. Giải pháp chung

a. Các giải pháp phát triển thị trường và bảo đảm cung - cầu hàng hóa

- Nắm bắt kịp thời các diễn biến của thị trường, dự báo đúng và sớm các tình huống có thể xảy ra để có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả.

- Các tỉnh, thành phố tiếp tục triển khai các biện pháp nhằm bảo đảm nguồn cung, bình ổn giá cho thời đầu năm 2014.

-Tăng cường các biện pháp kiểm tra, quản lý thị trường bảo đảm cân đối cung cầu, chống đầu cơ, buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, sắt thép…

- Tiếp tục triển khai đưa hàng hóa về các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để mở rộng thị trường, nâng cao thị phần của hàng nội.

- Tiếp tục khai thác tốt năng lực sản xuất và nhu cầu thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu ra các thị trường.

- Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án đầu tư phát triển sản xuất các mặt hàng thiết yếu để đưa vào vận hành, tạo nguồn cung đáp ứng đủ cho nhu cầu của thị trường.

- Kịp thời trình Chính phủ phương án xuất cấp lương thực và các phương tiện tìm kiếm cứu nạn dự trữ nhà nước cho các địa phương, nhất là các tỉnh miền Trung để hỗ trợ khắc phục kịp thời hậu quả thiên tai, đảm bảo an sinh xã hội.

b. Các giải pháp nhằm bình ổn, tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả

- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2014.

- Tại các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cần tiếp tục mở rộng các chương trình khuyến mại, giảm giá đã phát huy hiệu quả trong thời gian qua nhằm kích thích tiêu dùng, tạo động lực cho các doanh nghiệp sản xuất và phân phối trong nước.

- Quản lý chặt chẽ việc cung cấp thông tin, phát hiện và xử lý nghiêm khắc các trường hợp tung tin thất thiệt, gây hoang mang trong tâm lý nhân dân, tạo biến động giá xấu, ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ.

- Tính toán lộ trình điều chỉnh giá các hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá và là đầu vào của các ngành sản xuất (xăng dầu, điện, than, y tế, giáo dục...) đồng bộ với các chính sách liên quan để vừa đảm bảo theo tín hiệu thị trường vừa phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chấp hành pháp luật về giá (đăng ký giá, kê khai giá, công khai thông tin về giá) gắn với kiểm tra, thanh tra, chấp hành chấp hành về thuế, phí, lệ phí; ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm đặc biệt là việc điều chỉnh giá bất hợp lý các mặt hàng thiết yếu như thức ăn chăn nuôi, vật tư nông nghiệp, sữa dành cho trẻ em, thuốc chữa bệnh.

- Tiếp tục triển khai các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn, về mở rộng thị trường, về thủ tục hành chính... để giúp các doanh nghiệp dự trữ hàng hóa, chuẩn bị đủ chân hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong các dịp lễ.

- Các Bộ chuyên ngành chỉ đạo các Tổng công ty và doanh nghiệp thực hiện nhiều biện pháp nhằm tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất, giảm định mức tiêu hao từ đó giúp hạ giá thành sản phẩm.

- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thông qua khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước.

3.2. Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu

a) Xăng dầu

- Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trong Quy hoạch phát triển hệ thống sản xuất và hệ thống phân phối xăng dầu giai đoạn 2010 – 2020, định hướng đến năm 2025.

- Theo dõi sát sao thị trường dầu thế giới để kịp thời điều chỉnh giá xăng dầu bán lẻ trong nước hợp lý, vừa đảm bảo được quyền lợi của người tiêu dùng cũng như doanh nghiệp phân phối.

- Bảo đảm nguồn dầu nguyên liệu, đáp ứng tối đa yêu cầu về công suất của nhà máy lọc dầu Dung Quất.

- Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về việc trích lập, sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu làm cơ sở cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu áp dụng trong từng thời điểm, đảm bảo tính ổn định, công khai, minh bạch.

b) Sắt thép

- Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước, khuyến khích các công ty ngoài quốc doanh bố trí thời gian sản xuất phù hợp để tiết kiệm chi phí sử dụng điện, xây dựng hệ thống phân phối hiệu quả, giảm các tầng nấc trung gian nhằm hạ giá thành sản phẩm.

- Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thép.

- Xây dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế thép rẻ kém chất lượng thâm nhập thị trường trong nước.

c. Phân bón

- Các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị nguồn hàng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu, tránh tăng giá đột biến, đặc biệt khi bước vào cao điểm mùa vụ.

- Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt.

d) Xi măng

-Theo dõi chặt chẽ giá phân bón thế giới để có biện pháp điều tiết nhập khẩu và sản xuất phù hợp, không để xảy ra tình trạng thiếu phân bón gây sốt giá cục bộ, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.

- Tăng cường công tác hải quan tại các cửa khẩu, đặc biệt là tại phía Bắc nhằm giảm buôn lậu phân bón qua đường tiểu ngạch.

đ) Lương thực, thực phẩm

Các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp theo Chỉ thị 25/CT-TTg ngày 05/12/2013 và Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Thủ tướng chính phủ. Đối với ngành hàng lương thực, thực phẩm là mặt hàng thiết yếu trong đời sống xã hội của nhân dân, các cơ quan liên quan cần tăng cường công tác quản lý, điều hành, giám sát nhằm bình ổn giá cả thị trường, các doanh nghiệp và địa phương chủ động bảo đảm cung ứng đủ lượng hàng phục vụ nhân dân.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục tăng cường công tác chỉ đạo sản xuất với cơ cấu gieo trồng hợp lý, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, trong trồng trọt và chăn nuôi, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước và gia tăng giá trị xuất khẩu.

Bộ Công thương (Cục Quản lý thị trường) phối hợp với các cơ quan liên quan tại các địa phương tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc vận chuyển, buôn bán, gia súc, gia cầm trên địa bàn và qua các cửa khẩu, đường tiểu ngạch biên giới, nhằm hạn chế nhập lậu các loại thực phẩm không rõ nguồn gốc, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm...

--------------------------------------------------------------------------------


[1] Tăng trưởng xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước 4 tháng đầu năm 2013 đạt 1,7% so với cùng kỳ năm 2012.

[2] 4 tháng năm 2013, cả nước nhập siêu 488 triệu USD.


Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1804
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)