I. BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG
Kinh tế thế giới trong 9 tháng đầu năm tiếp tục trên con đường hồi phục, tuy nhiên vẫn rất chậm chạp. Mặc dù ở thời điểm đầu năm, một số nền kinh tế lớn vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ công tại Châu Âu, tuy nhiên bước sang Quý II, tình hình đã trở nên sáng hơn khi kinh tế Mỹ, Nhật Bản và các nước EU bắt đầu có bước hồi phục rõ nét. Đặc biệt là đối với Nhật Bản, ngày 11/7/2013, Ngân hàng Nhật Bản nâng mức đánh giá kinh tế Nhật Bản trong tháng thứ 7 liên tiếp và khẳng định kinh tế Nhật Bản “bắt đầu phục hồi ở mức vừa phải” trong bối cảnh niềm tin của các doanh nghiệp cải thiện và tiêu dùng gia tăng vững chắc. Mặc dù vậy, tại Trung Quốc, sự phát triển quá nóng trong hơn một thập kỷ trước cũng đã bắt đầu giảm dần, tăng trưởng GDP của Trung Quốc giảm tốc quý thứ hai liên tục và có nguy cơ còn suy giảm thêm trong bối cảnh tín dụng bị siết chặt nhằm kiểm soát rủi ro xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính, thêm vào đó tình trạng lạm phát tăng cao trở lại. Bên cạnh những tin tức về tình hình của các nền kinh tế lớn thế giới, sự bất ổn về chính trị tại Trung Đông, Ai Cập… và các tranh chấp về chủ quyền tại một số khu vực cũng gây ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế thế giới.
Trước bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới và kinh tế trong nước nói chung, ngày 07/01/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 và Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Trên cơ sở đó, các Bộ, ngành và địa phương đã tích cực triển khai 02 Nghị quyết nêu trên. Chính vì vậy, sau 8 tháng đầu năm, kinh tế vĩ mô nước ta cũng đã có những chuyển biến tích cực. Đặc biệt, lạm phát được kiểm soát chặt chẽ, tình hình tiêu dùng có được cải thiện. Mặc dù vậy, kinh tế nước ta vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, lạm phát vẫn có nguy cơ tăng cao trở lại, khi tất cả các tỉnh, thành phố thực hiện tăng giá dịch vụ y tế, học phí (Hà Nội thực hiện tăng giá dịch vụ y tế, thành phố Hồ Chí Minh tăng học phí từ đầu tháng 8); giá một số mặt hàng do nhà nước quản lý được điều chỉnh tăng như xăng dầu, điện… kéo theo sự tăng giá của nhiều hàng hóa và dịch vụ thiết yếu như lương thực, thực phẩm, dịch vụ vận tải, dịch vụ ăn uống ngoài gia đình… Ngoài ra, tình hình mưa bão, dịch bệnh trong những tháng cuối năm sẽ ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và nguồn cung lương thực, thực phẩm cho những tháng cuối năm, khi mà tiêu dùng của người dân thường có xu hướng tăng cao, từ đó sẽ dẫn tới khả năng tăng giá của các mặt hàng thiết yếu này.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN THÁNG 9 VÀ 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2013
1. Phát triển các ngành du lịch
Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ trong 9 tháng đầu năm 2013 ước đạt 6,2% so với cùng kỳ năm 2012. Như vậy, khu vực dịch vụ vẫn có mức đóng góp cao nhất vào tăng trưởng GDP. Trong đó một số lĩnh vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá như: dịch vụ thông tin và truyền thông, dịch vụ lưu trú và ăn uống, dịch vụ vận tải và kho bãi.
Xuất khẩu dịch vụ 9 tháng đầu năm 2013 ước đạt khoảng 7,3 tỷ USD
(Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ)
a. Du lịch
Trong 9 tháng đầu năm 2013, tình hình bệnh dịch gia súc, thực phẩm bẩn diễn biến phức tạp ở nhiều địa phương trên cả nước, tai nạn giao thông nghiêm trọng có chiều hướng gia tăng đã gây tác động không nhỏ đến ngành du lịch. Mặc dù có những khó khăn nhất định, hoạt động du lịch đã sôi động ngay từ những tháng đầu năm.
Toàn ngành du lịch triển khai mở rộng thị trường du lịch trong nước và quốc tế, tăng cường quảng bá xúc tiến du lịch, thu hút khách trên cơ sở nâng cấp hoàn thiện, bổ sung các chương trình du lịch như: Lễ hội Đền Hùng, Hội chợ du lịch quốc tế Việt Nam 2013-VITM 2013, Festival Nghề truyền thống Huế 2013, Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư 2013, Lễ hội làng Sen năm 2013 tại Nghệ An, triển lãm ảnh với chủ đề “Vẻ đẹp của cuộc sống, con người và đất nước Việt Nam - Nhật Bản”, lễ hội đền Suối Mỡ tại Khu du lịch Suối Mỡ tỉnh Bắc Giang, Lễ hội Hoa phượng đỏ Hải Phòng.
Bên cạnh đó, sự kiện TripAdvisor - trang web du lịch lớn nhất thế giới đã bầu chọn 4 địa điểm du lịch của Việt Nam nằm trong top 25 điểm đến hấp dẫn ở châu Á, 3 bảo tàng Việt Nam vào top 25 bảo tàng hấp dẫn nhất Châu Á… đã khẳng định vị thế của du lịch Việt Nam trong lòng du khách quốc tế.
Với chương trình kích cầu du lịch năm 2013 do Bộ VHTTDL phát động, một số chính sách tích cực nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước như: giá phòng khách sạn cao cấp tại các khu nghỉ dưỡng đã giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Một số chặng bay nội địa đã được các hãng hàng không Việt Nam áp dụng chương trình khuyến mại giảm giá vé,…. Những hoạt động này góp phần thu hút một lượng du khách lớn trong và ngoài nước đến tham quan.
Chín tháng năm 2013, số lượt khách quốc tế đến Việt Nam, ước đạt khoảng trên 5 triệu lượt, tăng khoảng 6% so với cùng kỳ năm 2012. Hầu hết thị trường trọng điểm khách quốc tế đến Việt Nam 9 tháng đầu năm đều tăng trưởng so với cùng kỳ năm ngoái như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Malaixia, Thái Lan, Anh, Nga, Úc, Niudilân.
Trong dịp nghỉ lễ 30/4, 1/5 và quốc khánh 2/9, do có đợt nghỉ kéo dài nên số lượng khách du lịch Việt Nam đi du lịch nước ngoài và các địa danh du lịch nổi tiếng trong nước khá lớn, đặc biệt là ở hai Thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Công tác tổ chức đón khách quốc tế cũng như việc đưa khách Việt Nam đi du lịch được thực hiện tốt với sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan nhà nước và nhân dân.
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 9 tháng chủ yếu vẫn bằng đường hàng không, khách du lịch đi bằng đường bộ, khách du lịch đi bằng đường biển.
Tiếp nối đà tăng trưởng của năm 2012, thị trường khách du lịch nội địa tiếp tục chuyển biến mạnh mẽ trong 6 tháng đầu năm 2013. Số lượt khách du lịch nội địa 9 tháng ước đạt 26 triệu lượt tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu 9 tháng đầu năm của ngành du lịch ước đạt khoảng 110 tỷ đồng, tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm 2012.
Tuy nhiên, trong 9 tháng đầu năm 2013, tại một số trung tâm du lịch vẫn còn xảy ra tình trạng mất an ninh, an toàn cho khách du lịch, trật tự vệ sinh môi trường tại các điểm du lịch, đặc biệt là tình trạng cướp giật, lừa đảo chặt chém khách du lịch, taxi dù, ăn xin, bán hàng rong, chèo kéo khách du lịch, xả xác, chất thải, nước thải gây ô nhiễm môi trường…
Để giải quyết vấn nạn trên, ngành du lịch đã kiến nghị Chính phủ xem xét, thành lập lực lượng cảnh sát du lịch, ngoài ra kiến nghị Chính phủ giao cho các địa phương tăng cường công tác quản lý, đảm bảo an ninh, an toàn cho du khách tại các khu điểm du lịch.
(Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ)
b. Dịch vụ viễn thông:
Mạng lưới bưu chính công cộng ước 9 tháng có khoảng gần 13.612 điểm phục vụ bưu chính. Bán kính phục vụ bình quân trên 01 điểm phục vụ bưu chính là 3 km; bình quân mỗi điểm phục vụ bưu chính là khoảng gần 7.000 người dân.
Hạ tầng mạng lưới viễn thông, internet của Việt Nam tiếp tục được đầu tư phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là mạng di động 3G. Các doanh nghiệp như VinaPhone, MobiFone, Viettel đã tập trung đẩy nhanh tiến độ đầu tư mạng lưới và cung cấp dịch vụ như đã cam kết. Số thuê bao Internet băng rộng (xDSL) có dây trong chín tháng đầu năm ước tính tăng 120 ngàn thuê bao. Số thuê bao điện thoại cả nước 9 tháng ước tính đạt 147 triệu thuê bao, bao gồm: điện thoại cố định 9,4 triệu thuê bao; di động 2G, 3G là 137,6 triệu thuê bao.
c. Vận tải:
Khối lượng vận tải hàng hoá dự kiến đạt 691,8 triệu tấn, khối lượng luân chuyển đạt khoảng 135.714 triệu T.Km; sản lượng vận tải hành khách dự kiến đạt 2.156 triệu lượt hành khách, khối lượng luân chuyển đạt 92.642 triệu HK.Km. So với cùng kỳ năm 2012 đạt 104,8% về vận chuyển hàng hoá, 101,4 % về luân chuyển hàng hoá 104,7% về vận chuyển hành khách và 104,7% về luân chuyển hành khách.
2. Xuất, nhập khẩu
a. Xuất khẩu
9 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu ước đạt 96,5 tỷ USD, tăng 15,7%so với cùng kỳ năm 2012; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 58,4 tỷ USD, tăng 27% và chiếm 60,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 63,9 tỷ USD, tăng 22,4%. Xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 32,5 tỷ USD, tăng 4,4%.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 9 tháng năm 2013 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt gần 6,4 triệu tấn, giảm 8,9% về lượng và giảm 11,8% về kim ngạch; than đá ước đạt 9 triệu tấn, giảm 12,1% về lượng và giảm 25,3% về kim ngạch; điện thoại các loại và linh kiện đạt 15,1 tỷ USD, tăng 75,5%; dệt may đạt 13,1 tỷ USD, tăng 18%; da giày đạt 6 tỷ USD, tăng 16,3%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,8 tỷ USD, tăng 13,8%; hàng điện tử và linh kiện điện tử đạt 7,8 tỷ USD, tăng 45,3%; thuỷ sản 4,7 tỷ USD, tăng 5,1%; gạo 5,5 triệu tấn, giảm 12,3% về lượng và giảm 14,6% về kim ngạch; cà phê hơn 1 triệu tấn, giảm 22,5% về lượng và giảm 21,9% về kim ngạch; cao su 725 ngàn tấn, tăng 0,9% về lượng và giảm 16,1% về kim ngạch...
Về thị trường xuất khẩu 9 tháng năm 2013, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 10,6% và chiếm tỷ trọng 16,7% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 25,7% và chiếm tỷ trọng 18,5%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 12,6% và chiếm tỷ trọng 14,5%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 3,2% và chiếm tỷ trọng 10,4%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 3% và chiếm tỷ trọng 9,9%.
b. Nhập khẩu
9 tháng đầu năm 2013, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước ước đạt 96,6 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 54,5 tỷ USD, tăng 24,8% và chiếm 56,4% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhập khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt gần 42,1 tỷ USD, tăng 5,3%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 9 tháng năm 2013 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 5,6 triệu tấn, giảm 23% về lượng và giảm 25,4% về kim ngạch; sắt thép 7,1 triệu tấn, tăng 26,4% về lượng và tăng 11,7% về kim ngạch; phân bón 3,4 triệu tấn, tăng 22,5% về lượng và tăng 6,9% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt 13,2 tỷ USD, tăng 9,3%; máy tính và linh kiện 13 tỷ USD, tăng 40,5%; vải đạt 6,1 tỷ USD, tăng 19,1%; nguyên phụ liệu dệt may hơn 2,7 tỷ USD, tăng 19,6%...
9 tháng năm 2013, nhập khẩu từ Châu Á chiếm hơn 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 28,9%, tỷ trọng ước đạt 27,6%), ASEAN (tăng 2,8%, tỷ trọng 16,4%), Hàn Quốc (tăng 33,7%, chiếm tỷ trọng 15,5%), Nhật Bản (giảm 1,4%, chiếm tỷ trọng 8,8%) và EU (tăng 15,4%, chiếm tỷ trọng 7,5%).
c. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 9 tháng:
- Xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn giữ vai trò quan trọng góp phần vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chung, trong đó có 2 mặt hàng là điện thoại các loại và linh kiện và máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện góp phần làm kim ngạch tăng thêm 8,9 tỷ USD.Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng trưởng khoảng 26,4% so với cùng kỳ, trong khi đó nhóm hàng nông sản, thủy sản giảm 6,5% và nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm 17,1%.
- Khu vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng năm 2013 của cả nước tăng thêm 13,1 tỷ USD so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng 12,4 tỷ USD (đóng góp hơn 95% kim ngạch tăng thêm). Các mặt hàng có kim ngạch lớn và có tốc độ tăng trưởng cao đều do sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện đóng góp 99%; máy vi tính linh kiện và điện tử 98,2%; giầy dép 76,4%; hàng dệt may 60%; máy ảnh 99%.
- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 9 tháng năm 2013 của khu vực FDI là 24,8% cao hơn so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chung (15,5%) của cả nước, do các mặt hàng chủ lực của khu vực này chủ yếu là gia công, lắp ráp, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nhập khẩu của cả nước tăng 13 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu của khu vực FDI tăng 10,8 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng của khối doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng cao gồm điện thoại các loại và linh kiện 87,9%; máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện 92,3%; vải các loại 61%; nguyên phụ liệu dệt may, da giầy 67%.
- 9 tháng năm 2013, cả nước nhập siêu 124 triệu USD, bằng 0,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu gần 4 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, khu vực FDI xuất siêu khoảng 9,45 tỷ USD. Nhập siêu của khu vực doanh nghiệp trong nước ước đạt gần 9,6 tỷ USD.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Theo Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 ước đạt 223.288 tỷ đồng, tăng 1,87% so với tháng 8, đưa tổng mức cả 9 tháng đầu năm 2013 lên 1.932.012 tỷ đồng, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2012, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì chỉ tăng 5,3%.
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Theo Tổng Cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2013 tăng 1,06% so với tháng 8/2013, trong cơ cấu CPI tháng 9, nhóm có mức tăng cao nhất là nhóm giáo dục, tăng 9,38%, tiếp đến là nhóm các hàng hóa khác tăng 1,33%... Tính cả 9 tháng đầu năm 2013, CPI cả nước đã tăng 4,63% so với tháng 12/2012.
3.3. Kết quả thực hiện của một số ngành hàng trọng yếu
(1) Xăng dầu
Giá dầu thô thế giới tính đến thời điểm hiện nay đang giao dịch quanh mức 106,4 USD/thùng trên thị trường New York và đang có dấu hiệu giảm nhẹ do những dự báo về tình hình lạc quan của nền kinh tế Mỹ mặc dù trước đó đã có thời điểm giá dầu lên mức cao nhất (108,99 USD/thùng ngày 18/9). Như vậy, kể từ đầu năm đến nay, giá dầu thế giới mặc dù có nhiều đợt tăng giảm mạnh nhưng tính chung đến thời điểm hiện nay, giá dầu thô thế giới đã tăng khoảng 15,7% so với thời điểm đầu năm.
Tại thị trường trong nước, giá bán lẻ xăng dầu cũng đã có 4 lần điều chỉnh tăng và 4 lần điều chỉnh giảm kể từ đầu năm. Trong đó, mặt hàng xăng A92 hiện đang được bán lẻ ở mức 24.270 đồng/lít, tăng 1.120 đồng/lít (tương đương với 4,83% về giá) so với thời điểm đầu năm ; dầu diesel 0,25% hiện đang được bán với giá 22.260 đồng/lít, tăng 760 đồng/lít so với đầu năm (tương đương với mức tăng 3,53% về giá).
Tình hình sản xuất trong nước, ước thực hiện 9 tháng lượng dầu thô xuất khẩu đạt 6,359 triệu tấn, tương đương với 5.500 triệu USD, bằng 91,1% so với cùng kỳ về lượng và bằng 88,2% về giá. Lượng xăng dầu nhập khẩu 9 tháng ước đạt 5,577 triệu tấn, tương đương 5.255 triệu USD, giảm 23% so với cùng kỳ.
(2) Sắt thép
+ Sản xuất: Theo Hiệp hội Thép, sản lượng sản xuất thép toàn ngành tháng 9/2013 đạt 380.000 tấn, tăng 5.352 tấn (+1,18 %) so với tháng trước. Ước 9 tháng đạt 3,005 triệu tấn, tăng 38.280 tấn (+1,27%) so với cùng kỳ năm trước.
+ Xuất nhập khẩu: Nhập khẩu thép tháng 8 ước đạt 700.000 tấn, tăng 7,8% so với tháng trước.Ước nhập khẩu sắt thép các loại 9 tháng 2013 đạt 7,079 triệu tấn, tăng 26,4% với cùng kỳ 2012 về lượng, tăng 11,6% về giá trị.
+ Tiêu thụ: Ước lượng thép tiêu thụ tháng 8 đạt 355.000 tấn, giảm khoảng 40.000 tấn (-10,15%) so với tháng trước và giảm 1.235 tấn ( -0,35) so với cùng kỳ. Ước 9 tháng đạt 3,775 triệu tấn, tăng 55.000 tấn (+ 5,37%) so với cùng kỳ 2012.
+ Tồn kho: Theo Bộ Công thương, tồn kho thép thành phẩm đến 30/8/2013 khoảng 320.000 tấn, giảm 6.000 tấn (-1,84%) và giảm 5.372 tấn (-1,65%) so với cùng kỳ 2012.
+ Về giá bán:
Giá thế giới: Giá thép trên thị trường thế giới đến tháng 9/2013 có xu hướng tăng nhẹ, tại Nhật bản giá chào khoảng 370-390 USD/tấn, tăng 10-22 USD/tấn. Tại các nước Đông Nam Á giao động ở mức 525-540 USD/tấn, tăng khoảng 10 USD/tấn.
Trong nước: Giá thép có xu hướng giảm do thị trường bất động sản trầm lắng, nhiều doanh nghiệp thực hiện khuyến mại để kích cầu như tăng triết khấu hoặc hỗ trợ vận chuyển hoặc giảm giá cạnh tranh. Giá bán buôn phổ biến từ 12,5-13,5 triệu đồng/tấn, giá bán lẻ tại miền bắc từ 15,5-17,8 triệu đồng/tấn, tại miền nam 15,3-17 triệu đồng/tấn.
(3) Xi măng
+ Sản xuất: Theo Bộ Xây dựng, ước tổng sản lượng xi măng sản xuấttháng 9 đạt 4,25 triệu tấn, giảm (-0,12) triệu tấn so với tháng 7 và tăng 0,58 triệu tấn (+15,05%) so với cùng kỳ. Ước 9 tháng đạt 42 triệu tấn, bằng 70% kế hoạch, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2012.
+ Xuất khẩu xi măng và Clinke: Theo báo cáo của Hiệp hội xi măng đến 30/8/2013 ngành xi măng đã xuất khẩu được 2,87 triệu tấn xi măng và 5,57triệu tấn Clinke.
+ Tiêu thụ: Tiêu thụ xi măng tháng 9 ước đạt 3,92 triệu tấn, giảm 0,05 triệu tấn (- 0,01%) so với tháng trước và tăng 0,22 triệu tấn (+6,20%) so với cùng kỳ. Ước 9 tháng đạt 35,28 triệu tấn, giảm 0,08 triệu tấn (- 0,3%) % so với cùng kỳ năm 2012.
+ Tồn kho: Đến tháng 9/2013 xi măng 0,60 triệu tấn, Clinke 2,01 triệu tấn, tương đương tháng 7/2013.
+ Về giá bán: Giá bán xi măng trong nước tiếp tục ổn định hiện dao động ở mức: PCB 30 từ 1.170.000-1.180.000 tấn; PCB 40 từ 1.150.000-1.555.000 tấn. Giá bán lẻ ổn định, tại miền bắc 1.150.000-1.500.000 đồng/tấn, miền nam 1.500.000-1.800.000 đồng/tấn.
(4) Phân bón
- Thị trường thế giới: Giá phân bón trên thị trường thế giới có xu hướng giảm do áp lực tồn kho và ảnh hưởng từ giá một số mặt hàng nông sản. Giá chàotuần từ 16-20/9 phân URE tại Yuzhnyy là 280-295 USD/tấn giảm 45 USD/tấn so với tháng trước; tại Trung Đônglà 300-320 USD/tấn giảm 5-15 USD/tấn so với tháng trước; tại Trung Quốc là 290-300 USD/tấn giảm 5-10 USD/tấn so với tháng trước.
- Trong nước: Do nguồn cung trong nước đã cơ bản đáp ứng nhu cầu nên giá phân bón ổn định, phổ biến ở mức Ure là 8.500-9.500đ/kg giảm 500-1.000đ/kg so với tháng 8; Kali 11.000-12.000đ/kg giảm 500đ/kg so với tháng 8; DAP là 13.500-14.500đ/kg giảm 300đ/kg; NPK từ 11.000-12.000đ/kg giảm 200đ/kg.
Dự báo trong những tháng tới giá phân bón tiếp tục ổn định, giá có thể sẽ tăng nhẹ khi các tỉnh phía nam bước vào vụ Đông Xuân 2013-2014.
(5) Lương thực, thực phẩm
a) Lương thực
- Thế giới: Giá gạo thế giới đến tháng 9/2013 tiếp tục ổn định và có xu hướng giảm do nhu cầu yếu và nguồn cung tăng, tại Thái Lan gạo 100% B là 485 USD/tấn, gạo 5% tấm 475 USD/tấn. Cùng loại tại Việt Nam là 395 USD/tấn (giảm 10 USD/tấn so với tháng trước) và tại Ấn Độ là 425-445 USD/tấn, giảm từ 15-20USD/tấn so với tháng trước.
Trong nước: Giá lúa gạo có xu hướng giảm nhẹ do kết thúc đợt mua tạm trữ và do thị trường xuất khẩu vẫn trầm lắng, giá lúa gạo trong nước phổ biến ở mức:
|
Lúa tẻ thường
|
Gạo tẻ thường
|
Phía Bắc
|
7.000 - 7.500
|
12.500 - 13.500
|
Phía Nam
|
5.000 – 5.200
|
7.500 - 7.800
|
- Về xuất khẩu gạo: Theo Tổng cục Hải Quan xuất khẩu gạo đến tháng 9/2013 đạt 6,1 triệu tấn, đạt giá trị 2,617 tỷ USD. Giá xuất khẩu trung bình khoảng 429 USD/tấn FOB.
- Về tồn kho gạo: Tính đến tháng 30/8/2013 tồn kho gạo cả nước khoảng 1,62 triệu tấn, chưa kể gạo tồn trong dân.
b) Thực phẩm
+ Giá các loại thực phẩm, rau, củ, quả: Tháng 9/2013 do ảnh hưởng mưa bão kéo dài gây nảh hưởng đến nguồn cung nên giá thực phẩm và các loại rau củ quả tăng từ 50-70% so với tháng 8, tại Hà Nội trong một số khu chợ như Thành Công, Long Biên tăng trên 70%, các loại thực phẩm tươi sống như thịt bò tăng ở mức 250.000-280.000đ/kg, thịt lợn (thịt mông sấn 95.000-110.000đ/kg, thịt ba chỉ 90.000-100.000đ/kg), thịt gà, thủy hải sảnđều tăng so với tháng trước, các loại rau củ quả tăng mạnh do ảnh hưởng dây truyền, giá rau các loại tăng từ 5.000-10.000đ/mớ, các loại củ quả tăng từ 8.000-12.000đ/kg.
Dự báo trong tháng tới giá thực phẩm và rau củ quả các loại vẫn tiếp tục tăng.
III. ƯỚC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 2013
Trong những tháng cuối năm, dự báo tình hình kinh tế thế giới sẽ tiếp tục có những chuyển biến tích cực hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Do đó, những ảnh hưởng tích cực này từ kinh tế thế giới cùng với tác dụng của việc thực hiện Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ, cụ thể là chính sách hỗ trợ như giảm lãi xuất, giãn thuế, giảm thuế sẽ giúp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sự chủ động của các doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng cường xúc tiến mở rộng thị trường trong và ngoài nước cũng sẽ là các biện pháp vượt qua khó khăn, khôi phục và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Trong bối cảnh như vậy, dự kiến tình hình thực hiện kế hoạch năm 2013 của ngành thương mại – dịch vụ như sau:
Ước năm kế hoạch năm 2013 tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt khoảng 6,6%, thấp hơn so với kế hoạch đề ra (6,9%-7,6%), caohơn kết quả thực hiện của năm 2012 (6,42%). Cơ cấu khu vực dịch vụ ước đạt khoảng 38%.
Xuất khẩu dịch vụ ước đạt 10,5 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 10% so với năm 2012, thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu khoảng 2,5 tỷ USD [1].
a. Du lịch
Đến hết năm 2013 ước đạt 41,7 triệu lượt khách du lịch, trong đó khoảng 7,2 triệu lượt khách quốc tế, tăng 10,7% so với năm 2012, khách du lịch nội địa đạt khoảng 34,5 triệu lượt, tăng 7,8% so với năm 2012; thu nhập của du lịch đạt khoảng 190 nghìn tỷ đồng, tăng 26,6% so với năm 2012.
b. Dịch vụ vận tải.
Khối lượng vận tải hàng hoá dự kiến đạt 792 triệu tấn, tăng 13,24% so với năm 2012; khối lượng luân chuyển đạt khoảng 42.645 triệu T.Km, tăng 8,7% so với năm 2012. Sản lượng vận tải hành khách dự kiến đạt 2.748 triệu lượt hành khách, khối lượng luân chuyển đạt 94.000 triệu HK.Km.
c. Dịch vụ viễn thông
Ước cả năm 2013, tổng doanh thu toàn ngành ước đạt khoảng: 510.000 tỷ đồng, bằng 102% kế hoạch. Tổng số máy điện thoại ước đạt 152 triệu máy đạt 105% kế hoạch, trong đó cố địnhước đạt 12 triệu máy. Ước số điện thoại trên 100 dân đạt 140 máy. Số thuê bao internet băng thông rộng cố định ước đạt 5 triệu thuê bằng 125% kế hoạch, số thuê bao internet/100 dân đạt 18 thuê bao, bằng 150% kế hoạch .
2. Xuất, nhập khẩu hàng hoá
Ước nhập khẩu năm 2013 đạt 131,5 tỷ USD, tăng 15,6% so với năm 2012; trong đó xuất khẩu của khu vực FDI đạt 74,5 tỷ USD, tăng 24,3% và chiếm tỷ trọng 56,6% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Nhập siêu cả năm 2013 ước đạt 500 triệu USD, bằng 0,4% tổng kim ngạch xuất khẩu.
3. Phát triển thị trường trong nước
Năm 2013, dự kiến tổng mức bán lẻ ước đạt khoảng 2620-2670 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 14-16% so với năm 2012. (Số liệu dự báo của Vụ Kinh tế dịch vụ).
Về hạ tầng phân phối – bán lẻ:
Những tháng cuối năm 2013, đón đầu sự tăng trưởng trở lại của nền kinh tế, các nhà bán lẻ tiếp tục kế hoạch đẩy mạnh mở rộng cơ sở bán lẻ trên cả nước. Saigon Co.op thì đặt mục tiêu có thêm 9 siêu thị Co.op và 24 cửa hàng thực phẩm Co.op Food trong năm 2013. Maximark cũng đưa vào dự án trung tâm thương mại tại TPHCM ngoài 5 siêu thị đã có trong hệ thống, nằm tại TPHCM, Cần Thơ và Khánh Hòa. LOTTE Mart cũng đang xúc tiến xây dựng để đưa hai trung tâm thương mại (trong đó có siêu thị) mới đi vào hoạt động vào cuối năm nay. Đó là LOTTE Mart Bình Dương nằm thị xã Thuận An và LOTTE Mart Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận. Như vậy, đến cuối năm, LOTTE sẽ có 6 siêu thị trên địa bàn cả nước.
3.3. Kết quả đối với một số mặt hàng trọng yếu
(1) Xăng dầu
Dự kiến kết thúc năm 2013, lượng dầu xuất khẩu ước đạt 9 triệu tấn, tương đương 7.700 triệu USD, giảm 3% so với năm trước. Lượng xăng dầu nhập khẩu ước đạt 7,5 triệu tấn, tương đương 7.000 triệu USD, bằng 81% so với lượng xăng dầu nhập khẩu năm 2012.
Dự kiến từ nay đến cuối năm, giá xăng dầu thế giới có thể sẽ tiếp tục có xu hướng giảm nhẹ. Giá dầu thô trung bình năm 2013 theo IEA dự kiến sẽ giảm xuống ở mức 91,92 USD/thùng.
Về tình hình sản xuất trong nước, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng dự kiến sản lượng khai thác quy dầu đạt 25 triệu tấn, trong đó, dầu thô đạt 16 triệu tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ 2012.
(2) Sắt thép
Theo dự báo Quý III năm 2013 sức tiêu thụ thép trên toàn thị trường được sẽ yếu trong suốt Quý 3 do đây là thời gian trùng với mùa mưa bão và tháng 7 âm lịch nên nhu cầu xây dựng sẽ giảm, đặc biệt giảm mạnh tại thị trường xây dựng dân dụng, tuy nhiên, đến quý IV nhu cầu tiêu thụ thép có khả năng tăng trở lại do đây là thời điểm mùa xây dựng và kinh tế trong nước cũng như quốc tế có xu hướng tăng trưởng cao hơn ở những tháng cuối năm.
Ước sản lượng sản xuất sắt thép thô năm 2013 đạt khoảng 2,86 triệu tấn giảm 4,4% so với năm 2012; thép cán đạt 3 triệu tấn, tăng 1,5%; thép thanh, thép góc đạt 3,45 triệu tấn, tăng 5,7%. Trong đó, sản lượng thép thành phẩm của Tổng Công ty Thép Việt Nam ước đạt 1.406.000 tấn (thép xây dựng đạt 1,18 triệu tấn, thép dẹt đạt 150 nghìn tấn), hoàn thành 88,2% KH năm, giảm 7,1% so với năm 2012.
(3) Xi măng
Trên cơ thực hiện 7 tháng đầu năm 2013 có tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2012; dự báo trong quý III năm 2013 tình hình đầu tư xây dựng sẽ giảm do đây là mùa mưa. Tốc độ tăng trưởng trở lại vào quý IV, dự kiến sản lượng xi măng năm 2013 ước đạt 59 triệu tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ.
(4) Phân bón
Năm 2013, nhu cầu phân bón các loại của nước ta khoảng 10,3 triệu tấn, trong đó phân đạm ure khoảng 2 triệu tấn, phân NPK 3,8 triệu tấn, phân bón chứa lân 1,8 triệu tấn, sunphat amon (SA) 850.000 tấn, kali 950.000 tấn, DAP 900.000 tấn. Tuy nhiên, nguồn cung phân bón tại thị trường trong nước khá dồi dào, tính riêng phân urê, đến thời điểm hiện tại, nước ta có Nhà máy đạm Cà Mau công suất 800.000 tấn/năm, Nhà máy đạm Phú Mỹ công suất 800.000 tấn/năm, Nhà máy đạm Ninh Bình công suất 560.000 tấn/năm. Nhà máy đạm Hà Bắc công suất 180.000 tấn/năm và hiện đang thực hiện dự án mở rộng lên 500.000 tấn/năm sẽ đi vào hoạt động năm 2014. Do đó, khác với với mọi năm, từ một nước luôn phải phụ thuộc phần lớn vào nguồn phân đạm urê nhập khẩu, Việt Nam đã chủ động được nguồn cung phân đạm urê trên thị trường phân bón và hướng tới xuất khẩu, không còn xảy ra tình trạng đầu cơ tích trữ dẫn tới khan hiếm hàng sốt giá.
Ước cả năm 2013, lượng phân bón các loại nhập khẩu đạt khoảng 4 triệu tấn, trị giá 1,4 tỷ USD, tăng 1% về lượng và giảm 5,5% về giá so với năm 2012.
(5) Lương thực, thực phẩm
a) Lương thực
- Năm 2013, diện tích gieo trồng lúa khoảng 7,6 triệu ha, sản lượng khoảng 43,5 triệu tấn, bảo đảm đủ lương thực cho tiêu dùng trong nước và khối lượng gạo xuất khẩu.
- Về xuất khẩu gạo: Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam dự kiến sẽ xuất khẩu khoảng 7 triệu tấn gạo trong năm 2013, đưa giá trị xuất khẩu gạo đạt 3,5 tỷ USD bằng 100% kế hoạch năm.
- Về tồn kho gạo: Dự kiến giảm tồn kho gạo cả nước còn khoảng 1,5 triệu tấn, chưa kể gạo tồn trong dân.
b) Thực phẩm
- Chăn nuôi: Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, năm 2013 sản lượng thịt hơi đạt 4,2 triệu tấn, tăng 2,4% so với 2012. Trong đó sản lượng thịt trâu tăng 0,8%; sản lượng thịt bò tăng 2,4%; sản lượng thịt lợn tăng 2%; sản lượng thịt gia cầm tăng 4,8%; sản lượng sữa tươi đạt 379,1 nghìn tấn, tăng 9,8% so với năm 2013; sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp quy đổi đạt 12,5 triệu tấn, tăng 5,9% so với năm 2012.
- Thủy sản: Sản lượng thủy sản năm 2013 ước đạt 5,7 triệu tấn, tăng 5,1% so với năm 2012, bao gồm: sản lượng nuôi trồng đạt 3.110,7 nghìn tấn, tăng 6,1% so với năm 2012; sản lượng khai thác ước đạt 2.622,2 nghìn tấn, tăng 4,3%, trong đó khai thác biển đạt 2.418 nghìn tấn, tăng 4,8% so với năm 2012.
b) Thực phẩm
+ Giá các loại thực phẩm, rau, củ, quả: Năm 2013 giá thực phẩm và các loại rau củ quả có biến động tăng giảm khác nhau trong từng thời điểm, cụ thể là trong quý I/2013 trùng vào dịp tết nên giá các loại thực phẩm tăng nhẹ, sau tết giảm và ổn định, đến mùa mưa bão giá lại tăng và cộng thêm mức tăng một số loại mặt hàng khác như xăng, điện…nên giá các loại thực phẩm có hiện tượng tát nước theo mưa tăng theo. Tuy nhiên chưa xảy ra hiện tượng tăng đột biến gây sôt giá khan hàng.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM 2013
1. Về du lịch
- Triển khai quyết liệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Chương trình hành động quốc gia về du lịch và chương trình xúc tiến du lịch quốc gia giai đoạn 2012-2015 đã được phê duyệt nhằm tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch.
- Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch hướng dẫn các địa phương, các vùng sớm điều chỉnh quy hoạch phát triển du lịch cho phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển du lịch.
- Đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh quy định về lệ phí visa và tiếp tục duy trì chính sách miễn thị thực nhập cảnh cho khách du lịch một số nước là thị trường du lịch trọng điểm của du lịch Việt Nam.
- Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2013 cho các doanh nghiệp du lịch và thương mại dịch vụ tham gia Chương trình kích cầu du lịch năm 2013,
- Áp dụng thí điểm hoàn thuế giá trị gia tăng cho khách du lịch, đồng thời tiếp tục đề xuất chính sách ưu đãi, khích lệ khách du lịch tăng cường mua sắm tại Việt Nam.
- Các địa phương chủ động đưa ra chính sách biện pháp kích cầu như bãi bỏ quy định cấm hoặc cấp giấy phép con đối với xe vận chuyển khách du lịch, tạo điều kiện cho xe vận chuyển khách du lịch lưu thông trong và ngoài đô thị; đảm bảo an ninh, an toàn cho khách du lịch, đặc biệt giảm tối thiểu tình trạng cướp giật, lừa đảo khách du lịch ở các trung tâm du lịch, điểm du lịch.
2. Về xuất nhập khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu
- Chú trọng nâng cao chất lượng để tăng giá trị với nhóm hàng sản xuất truyền thống (đặc biệt là nông, lâm, thủy sản) không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng. Mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, có đóng góp quan trọng thực hiện kế hoạch xuất khẩu, giải quyết việc làm, ổn định xã hội.
- Tăng cường xúc tiến thương mại, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các đối tác, mở rộng thị trường xuất khẩu, không để lệ thuộc quá lớn vào một thị trường. Nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường; sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
- Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
Kiểm soát nhập khẩu
- Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
- Bộ Công Thương chủ trì xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường sử dụng máy móc vật tư, thiết bị sản xuất trong nước theo chỉ đạo của Chính phủ.
- Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.
- Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
- Tăng cường công tác hậu kiểm về chất lượng, an toàn vệ sinh đối với sản phẩm nhập khẩu và lưu thông theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn; thực hiện các biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và tạo hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu, kiểm soát việc nhập nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu...
- Rà soát các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã ký kết và cẩn trọng trong việc đẩy mạnh đàm phán ký kết các Hiệp định mới. Các Hiệp định thương mại quốc tế một mặt tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho hàng Việt Nam, mặt khác cũng gây nguy cơ nhập siêu nếu không đàm phán chặt chẽ.
- Tiếp tục nhấn mạnh nhóm biện pháp thông tin tuyên truyền, nhất là chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, coi đây là một kênh gián tiếp nhằm tăng tỷ lệ sử dụng hàng Việt Nam, qua đó giảm tỷ lệ hàng nhập khẩu.
3.Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
- Các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục khẩn trương triển khai các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 01/NĐ-CP và 02/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ, nhằm hiện thực hóa các chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước khôi phục và thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng.
- Tiếp tục triển khai các chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước, ưu tiên triển khai nhiều chương trình trong khuôn khổ của cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” như tổ chức các hội chợ, triển lãm, đưa hàng hoá về nông thôn... nhằm kích thích tiêu dùng, đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm, giải quyết tồn kho cho doanh nghiệp,tháo gỡ khó khăn cho sản xuất. Đặc biệt, cần đẩy mạnh chương trình đưa hàng hóa về nông thôn, một mặt đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người dân (người dân ở nông thôn có tích lũy, tiết kiệm nhưng ít có điều kiện tiếp xúc với các hàng hóa có chất lượng tốt, đa dạng về mẫu mã chủng loại, hàng Việt Nam chất lượng cao...), mặt khác sẽ giúp doanh nghiệp giảm được hàng tồn kho, thu lại được vốn, quay vòng cho sản xuất kinh doanh.
3.2. Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu
a)Xăng dầu
- Bộ Công Thương khẩn trương hoàn chỉnh dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu trình Chính phủ xem xét, ban hành để có cơ sở điều hành về giá bán lẻ xăng dầu phù hợp trong thời gian tới.
- Bộ Tài chính cần sớm xây dựng Thông tư hướng dẫn về việc trích lập, sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu làm cơ sở cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu áp dụng trong từng thời điểm, đảm bảo tính ổn định, công khai, minh bạch.
- Tăng cường công tác nghiệp vụ, chuyên môn về dự báo và phân tích, đánh giá, nhận định thị trường về giá dầu thô thế giới.
b) Sắt thép
- Ngành thép cần thực hiện các biện pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất, giảm định mức tiêu hao, hạ giá thành sản phẩm. Rà soát, tổ chức lại hệ thống lưu thông phân phối thép, giảm các tầng nấc trung gian. Phối hợp xây dựng hàng rào kỹ thuật nhằm hạn chế nhập khẩu thép và tăng cường nâng cao chất lượng đối với thép sản xuất trong nước...
c) Xi măng
- Bắt đầu bước vào mùa xây dựng, ngành xi măng cần chủ động và linh hoạt trong sản xuất và tiêu thụ , nhằm đảm bảo cân bằng cung – cầu, ổn định giá bán, không để tình trạng mất cung vượt cầu quá lớn gây lãng phí tài nguyên của đất nước, gây ô nhiễm môi trường trong khi xuất khẩu chưa thực sự hiệu quả.
d) Phân bón
- Nhu cầu phân bón trong nước đã cơ bản được đáp ứng với chất lượng tốt, giá cả ổn định. Các cơ quan quản lý nên tăng cường kiểm soát nhập khẩu phân bón, đặc biệt là qua đường tiểu ngạch biên giới để hạn chế tối đa nhập lậu phân bón không đạt chất lượng gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng phân bón trong nước và các loại cây trồng…
đ) Lương thực, Thực phẩm
- Tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm, đặc biệt là trong những ngày mưa bão gây tác động ảnh hưởng đến giá các mặt hàng thực phẩm để có biện pháp điều chỉnh, ngăn chặn kịp thời, tránh việc tư thương lợi dụng tăng giá ảo gây ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng.
- Bộ Công Thương chỉ đạo các Chi Cục quản lý thị trường tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, các loại thực phẩm nhập lậu qua đường tiểu ngạch (các loại gia súc, gia cầm, thủy sản, cá tầm, cá trắm…), đồng thời đưa ra các chế tài đủ mạnh, xử lý nghiêm các hành vi nhập lậu thực phẩm kém chất lượng tràn vào thị trường nội địa./.
[1] Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ
File đính kèm: BCKTDichvuT9.13.pdf
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư