Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 22 tháng 8 năm 2014
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Tình hình thế giới
Bước sang tháng 8/2014, thị trường hàng hóa thế giới đã chịu các tác động từ bất ổn về chính trị ở một số các khu vực trên thế giới vẫn chưa có dấu hiệu giảm nhiệt, nhất là tại Ukraine, dải Gaza, Iraq… Căng thẳng giữa phương Tây với Nga ngày càng gay gắt khi các lệnh trừng phạt về kinh tế đối với hai phía đã được đưa ra. Dự báo cả kinh tế Nga và các nước EU sẽ bị ảnh hưởng do sự phụ thuộc lẫn nhau là khá lớn, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản và khí đốt. Theo đó, giá của một số mặt hàng như dầu thô, xăng dầu, đường, khí hóa lỏng, lúa mì, đậu tương… tiếp tục giảm. Về các nền kinh tế lớn: tình hình kinh tế Mỹ cũng có những tín hiệu lạc quan khi thất nghiệp tiếp tục giảm, trong khi tại Châu Âu, lạm phát của khu vực đồng tiền chung Euro tiếp tục duy trì ở mức thấp gây nên những lo ngại cho quá trình phục hồi kinh tế của các nước thành viên. Tại Châu Á, kinh tế Trung Quốc và cả khu vực nói chung đang có dấu hiệu tăng tốc trở lại sau những thông tin kinh tế Quý II được công bố, tuy nhiên Ngân hàng phát triển Châu Á trong báo cáo triển vọng kinh tế 2014 công bố ngày 18/7 lại hạ dự báo về tăng trưởng kinh tế khu vực Đông Nam Á năm 2014 từ mức dự đoán tăng 5% đưa ra hồi tháng 4 xuống 4,7%, do lo ngại diễn biến chính trị phức tạp tại một số quốc gia, cũng như nhu cầu nhập khẩu từ ngoài khu vực giảm.
2. Tình hình trong nước
Bước sang tháng 8, kinh tế nước ta tiếp tục phát triển ổn định sau những thông tin tốt về kết quả phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm. Cụ thể, GDP 6 tháng đầu năm tăng trưởng ở mức 5,18%, cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước (2013: 4,9%) với mức tăng trưởng khá cao của cả 3 khu vực: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,96% (2013: 2,07%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,33% (2013: 5,18%); dịch vụ tăng 6,01% (2013: 5,92%). Lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp, cung cầu hàng hóa được bảo đảm. Những vấn đề ảnh hưởng tới sản xuất tại các khu công nghiệp phía Nam đã cơ bản được khắc phục, hoạt động sản xuất tại các khu vực này đã đi vào ổn định trở lại. Tuy nhiên, tháng 8 là tháng Ngâu và rơi vào tháng 7 âm lịch nên các hoạt động sản xuất, kinh doanh diễn ra không quá sôi động, tuy nhiên dịp lễ Rằm tháng 7 cũng là yếu tố thúc đẩy cho tiêu dùng trong tháng. Bên cạnh đó, mùa mưa bão đã bắt đầu, dự báo sản xuất của ngành nông nghiệp sẽ bị ảnh hưởng, cung – cầu về lương thực, thực phẩm sẽ có những xáo trộn.
Bên cạnh đó, giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới bắt đầu có xu hướng giảm, đặc biệt là giá dầu tiếp tục xu hướng giảm khiến cho giá xăng dầu trong nước đã và dự kiến sẽ tiếp tục giảm theo, cùng với việc cân đối cung – cầu trong nước được đảm bảo, sức mua chưa có gia tăng đột biến nên dự kiến giá hàng hóa, dịch vụ tiếp tục ổn định và chỉ tăng nhẹ so với tháng trước.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 8 NĂM 2014
1. Tình hình phát triển ngành du lịch
Tháng 8/2014 tình hình Biển Đông tiếp tục có những diễn biến khó lường, phía Trung Quốc tiếp tục gây ra các vụ đâm đụng, cướp tàu cá của Việt Nam. Bên cạnh đó, đại dịch Ebola bùng phát nhanh chóng trên thế giới, số lương người chết do bệnh dịch tăng cao, đặc biệt là một số nước ở Châu Phi,v.v... đã gây ra những tác động đáng kể đến ngành du lịch của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong tháng 8 ở một số địa phương ngành du lịch Việt Nam đã tích cực tổ chức các lễ hội lớn nhằm quảng bá và thu hút khách du lịch quốc tế đến với các địa phương này như: Cuộc thi Marathon Quốc tế Đà Nẵng 2014, Hội chợ Quốc tế Thương mại, Du lịch và Đầu tư hành lang kinh tế Đông Tây - Đà Nẵng 2014 (EWEC) tại Đà Nẵng, Triển lãm mỹ thuật khu vực Nam miền Trung và Tây Nguyên tại Kon Tum, Lễ kỷ niệm 2.000 năm ngày sinh Hai Bà Trưng tại Hà Nội, Tuần trải nghiệm văn hóa truyền thống Hàn Quốc tại Hà Nội, Hội nghị quảng bá, xúc tiến đầu tư tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam...
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 8 ước đạt 550.000 giảm 20% so với cùng kỳ năm 2013 và giảm 4% so với tháng 7/2014. Tổng số khách du lịch quốc tế trong 8 tháng ước đạt hơn 5,4 triệu lượt khách, tăng 10% so cùng kỳ năm ngoái.
Khách du lịch quốc đến Việt Nam trong tháng 8 chủ yếu từ một số thị trường như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Malaysisa, Thái Lan, Anh, Hà Lan, Bỉ, Na Uy, Nga, Úc,…
(Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ - Cho đến thời điểm báo cáo TCTK chưa có số liệu chính thức)
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 8 tháng chủ yếu vẫn bằng đường hàng không, tuy nhiên trong 8 tháng số lượng khách du lịch đi bằng đường bộ từ Thái Lan, Campuchia đến Việt Nam qua các cửa khẩu quốc tế tại Hà Tĩnh, Quảng Trị, Tây Ninh, An Giang cũng tăng đáng kể, chính những yếu tố này đã góp phần làm sôi động hơn ngành du lịch của Việt Nam, đặc biệt là khu vực miền Trung. Tháng 8/2014 tình hình Biển Đông tiếp tục có những diễn biến khó lường, phía Trung Quốc tiếp tục gây ra các vụ đâm đụng, cướp tàu cá của Việt Nam. Bên cạnh đó, đại dịch Ebola bùng phát nhanh chóng trên thế giới, số lương người chết do bệnh dịch tăng cao, đặc biệt là một số nước ở Châu Phi,v.v... đã gây ra những tác động đáng kể đến ngành du lịch của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong tháng 8 ở một số địa phương ngành du lịch Việt Nam đã tích cực tổ chức các lễ hội lớn nhằm quảng bá và thu hút khách du lịch quốc tế đến với các địa phương này như: Cuộc thi Marathon Quốc tế Đà Nẵng 2014, Hội chợ Quốc tế Thương mại, Du lịch và Đầu tư hành lang kinh tế Đông Tây - Đà Nẵng 2014 (EWEC) tại Đà Nẵng, Triển lãm mỹ thuật khu vực Nam miền Trung và Tây Nguyên tại Kon Tum, Lễ kỷ niệm 2.000 năm ngày sinh Hai Bà Trưng tại Hà Nội, Tuần trải nghiệm văn hóa truyền thống Hàn Quốc tại Hà Nội, Hội nghị quảng bá, xúc tiến đầu tư tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam,vv...
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 8 ước đạt 618.397 giảm 8,7% so với cùng kỳ năm 2013 và tăng 9,5% so với tháng 7/2014. Tổng số khách du lịch quốc tế trong 8 tháng ước đạt hơn 5,471 triệu lượt khách, tăng 12,2% so cùng kỳ năm ngoái. Riêng đối với thị trường khách du lịch Trung Quốc, trong 8 tháng đạt 1,393 triệu lượt khách, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước.
Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 8 chủ yếu từ một số thị trường như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Malaysisa, Thái Lan, Anh, Hà Lan, Bỉ, Na Uy, Nga, Úc,…
(Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ - Cho đến thời điểm báo cáo TCTK chưa có số liệu chính thức)
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 8 tháng chủ yếu vẫn bằng đường hàng không, tuy nhiên trong 8 tháng số lượng khách du lịch đi bằng đường bộ từ Thái Lan, Campuchia đến Việt Nam qua các cửa khẩu quốc tế tại Hà Tĩnh, Quảng Trị, Tây Ninh, An Giang cũng tăng đáng kể, chính những yếu tố này đã góp phần làm sôi động hơn ngành du lịch của Việt Nam, đặc biệt là khu vực miền Trung.
2. Tình hình phát triển vận tải
Sản lượng vận tải 8 tháng đầu năm: hàng hoá ước đạt đạt 692 triệu tấn hàng, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển đạt khoảng 144.760 triệu T.Km, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng vận tải hành khách đạt 2.019 triệu lượt hành khách, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển đạt 91.700 triệu HK.Km, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước.
3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
a) Xuất khẩu
Tháng 8 năm 2014, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 13 tỷ USD, tăng 0,65% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 8 tỷ USD, tăng 0,68%.
8 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu ước đạt 97 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2013; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 60 tỷ USD, tăng 15,8% và chiếm 61,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 65,2 tỷ USD, tăng 15,6%. Xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 31,8 tỷ USD, tăng 11,1%.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 8 tháng năm 2014 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt gần 6,4 triệu tấn, tăng 11,8% về lượng và tăng 14,3% về kim ngạch; than đá ước đạt 5,1 triệu tấn, giảm 37,8% về lượng và giảm 36,2% về kim ngạch; điện thoại các loại và linh kiện đạt 15,2 tỷ USD, tăng 13,7%; dệt may đạt 13,65 tỷ USD, tăng 19,7%; da giày đạt 6,7 tỷ USD, tăng 23,1%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,87 tỷ USD, tăng 12,8%; hàng điện tử và linh kiện điện tử đạt 6,5 tỷ USD, giảm 4,1%; thuỷ sản 4,97 tỷ USD, tăng 23,6%; gạo 4,5 triệu tấn, giảm 7% về lượng và giảm 3,7% về kim ngạch; cà phê 1,22 triệu tấn, tăng 26,9% về lượng và tăng 22,4% về kim ngạch; cao su 550 ngàn tấn, giảm 9,4% về lượng và giảm 31,7% về kim ngạch...
Về thị trường xuất khẩu 8 tháng năm 2014, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 22,5% và chiếm tỷ trọng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 13,3% và chiếm tỷ trọng 18,5%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 0,5% và chiếm tỷ trọng 12,8%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 12,7% và chiếm tỷ trọng 10,2%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 15,2% và chiếm tỷ trọng 10,1%.
b) Nhập khẩu
Tháng 8 năm 2014, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 12,9 tỷ USD, giảm 0,5% so với tháng trước; trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 7,2 tỷ USD, giảm 0,5%.
8 tháng đầu năm 2014, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước ước đạt 95,3 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 53,4 tỷ USD, tăng 10,9% và chiếm 56% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhập khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 41,9 tỷ USD, tăng 13,4%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 8 tháng đầu năm 2014 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 6,3 triệu tấn, tăng 26,5% về lượng và tăng 26,7% về kim ngạch; sắt thép 7,2 triệu tấn, tăng 14,4% về lượng và tăng 7,1% về kim ngạch; phân bón 2,5 triệu tấn, giảm 14% về lượng và giảm 29,9% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt 14,6 tỷ USD, tăng 24,5%; máy tính và linh kiện 11,2 tỷ USD, giảm 2,8%; vải đạt 6,2 tỷ USD, tăng 16,1%; nguyên phụ liệu dệt may 3,1 tỷ USD, tăng 26,2%...
8 tháng đầu năm 2014, nhập khẩu từ Châu Á chiếm khoảng 81% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 17,3%, tỷ trọng ước đạt 28,9%), ASEAN (tăng 8,4%, tỷ trọng 16%), Hàn Quốc (tăng 5,7%, chiếm tỷ trọng 14,7%), Nhật Bản (tăng 8%, chiếm tỷ trọng 8,5%) và EU (giảm 9,1%, chiếm tỷ trọng 7,3%).
c) Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 8 tháng:
- Xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn giữ vai trò quan trọng góp phần vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chung. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng trưởng khoảng 15,1% so với cùng kỳ, nhóm hàng nông sản, thủy sản tăng 11,8% và nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản tăng 5,3%.
- Kim ngạch xuất khẩu 8 tháng đầu năm 2014 của cả nước tăng thêm 12 tỷ USD so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng khoảng 8,1 tỷ USD (đóng góp khoảng 67,7% kim ngạch tăng thêm). Các mặt hàng có sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 99,6% tổng kim ngạch mặt hàng này của cả nước); máy vi tính linh kiện và điện tử (98,5%); giầy dép (76,5%); hàng dệt may (59,7%); máy ảnh (96%).
- Nhập khẩu của cả nước tăng 10,2 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu của khu vực FDI tăng 5,25 tỷ USD. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của khối doanh nghiệp FDI là điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 84,9% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của cả nước); máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện (91,1%); vải các loại (60,9%); nguyên phụ liệu dệt may, da giầy (68,6%).
- 8 tháng đầu năm 2014, cả nước xuất siêu khoảng 1,7 tỷ USD, bằng 1,75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu 6,28 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, khu vực FDI xuất siêu khoảng 11,86 tỷ USD. Nhập siêu của khu vực doanh nghiệp trong nước ước đạt 10,16 tỷ USD.
4. Phát triển thị trường trong nước
a) Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 7/2014 đạt 238.731 tỷ đồng, tăng 0,33% so với tháng 6/2014. Tính cả 7 tháng đầu năm 2014, tổng mức bán lẻ đạt 1.654.871 tỷ đồng, tăng 11,42% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8 đạt khoảng 239.065 tỷ đồng, tăng khoảng 0,14% so với tháng trước, tính cả 8 tháng đầu năm ước tổng mức bán lẻ tăng khoảng 11,41% so với cùng kỳ năm 2013.
(Số liệu ước của Vụ Kinh tế dịch vụ)
b) Chỉ số giá tiêu dùng
Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 tăng 0,23% so với tháng 6/2014, đưa CPI cả nước 6 tháng đầu năm tăng 1,62% so với tháng 12/2013.
Ước CPI tháng 8 tăng khoảng 0,22% so với tháng trước do giá xăng dầu giảm trong kỳ (ngày 07/7/2014), nhu cầu tiêu dùng của người dân trong tháng 7 âm lịch không quá cao.
(Số liệu ước của Vụ Kinh tế dịch vụ)
c) Tình hình cung – cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
(1) Xăng dầu
Tình hình thị trường xăng dầu thế giới 8 tháng đầu năm chịu nhiều tác động bởi tình hình bất ổn ở các nước trên thế giới, đặc biệt là sự căng thẳng leo thang giữa Nga và các nước phương Tây và Mỹ, cùng với đó là tình hình chiến sự ở Iraq ngày càng diễn biến xấu đi làm ảnh hưởng tới nguồn cung dầu thô thế giới, làm giá dầu thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Giá dầu ngọt, nhẹ giao tháng 10 tăng lên trên 94 USD/thùng trên sàn Nymex. Trong khi đó, giá dầu Brent tăng ở ngưỡng 102,6 USD/thùng trên sàn ICE nhưng bắt đầu có dấu hiệu giảm do nhu cầu tiêu thụ toàn cầu yếu ớt.
Tại thị trường trong nước, tính từ đầu năm đến nay xăng dầu đã trải qua 13 lần điều chỉnh giá với 5 lần tăng và 8 lần giảm và nhiều lần điều chỉnh mức sử dụng quỹ bình ổn và trích lợi nhuận định mức để giữ giá. Đáng chú ý, vào ngày 7/7, xăng có lần tăng giá kỷ lục tới 410 đồng/lít và có giá bán 25.640 đồng mỗi lít A92 (mức giá cao nhất từ trước tới nay). Mới đây vào ngày 7/8, giá xăng A92 đã giảm lần thứ 2 liên tiếp xuống còn 24.810 đồng. Mức sử dụng Quỹ bình ổn giá cho các doanh nghiệp hiện ở mức 300 đồng/lít.
Lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 8 ước đạt 800 nghìn tấn, tương đương 720 triệu USD, giảm 8,3% so với tháng trước; lũy kế 8 tháng đầu năm 2014 đạt 6.291 nghìn tấn, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm trước. Lượng dầu thô xuất khẩu tháng 8 ước đạt 985 nghìn tấn, tương đương 820 triệu USD, tăng 21,6% so với tháng trước. Lũy kế 8 tháng đầu năm đã xuất 6.381 nghìn tấn, tăng 11,8% so với sản lượng cùng kỳ năm 2013.
(2) Sắt thép
Ước sản xuất và tiêu thụ thép trong tháng 8 có xu hướng giảm so với tháng 7 do đã bước vào thời kỳ mưa bão, hoạt động xây dựng không còn sôi động như những tháng trước.
Giá bán lẻ trên thị trường : Giá bán lẻ thép xây dựng 15 ngày đầu tháng 8/2014 ổn định so với cùng kỳ tháng trước; cụ thể: tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung dao động từ 15.400 - 16.000 đồng/kg; tại các tỉnh Miền Nam từ 15.300 -15.900 đồng/kg.
Sản lượng thép nhập khẩu thực hiện tháng 7/2014 đạt 1.061 nghìn tấn, ước tháng 8/2014 đạt 1.100 nghìn tấn, tăng 3,7% về lượng so với tháng trước. Tính cả 8 tháng đầu năm 2014, lượng thép nhập khẩu đạt khoảng 7.184 nghìn tấn, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước.
(3) Xi măng
Ước sản lượng tiêu thụ và sản xuất xi măng tháng 8/2014 có xu hướng giảm nhẹ so với tháng trước do đã bước vào mùa mưa bão nên nhu cầu xây dựng nhà ở bắt đầu có xu hướng chững lại. Giá bán lẻ trên thị trường: Theo báo cáo của Sở Tài chính các tỉnh, thành phố, giá bán lẻ xi măng 15 ngày đầu tháng 8/2014 ổn định so với 15 ngày đầu tháng 7/2014; tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung hiện phổ biến từ 1.050.000 -1.500.000 đồng/tấn; tại các tỉnh miền Nam phổ biến từ 1.460.000 -1.800.000 đồng/tấn.
(4) Phân bón
Trong 15 ngày đầu tháng 8, giá phân bón tại các tỉnh miền Nam tiếp tục ổn định so với cùng kỳ tháng trước, mức giá phổ biến khoảng 8.000 - 8.400 đồng/kg; tại các tỉnh miền Bắc giá phân bón có xu hướng tăng nhẹ.
Trong tháng 8/2014, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 350 nghìn tấn với trị giá 104 triệu USD; tính cả 8 tháng đầu năm 2014, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 2.525 nghìn tấn với trị giá 792 triệu USD, giảm 14% so với cùng kỳ năm 2013.
(5) Lương thực, thực phẩm
Thị trường thế giới: Tháng 8/2014, giá gạo thế giới giảm nhẹ, phổ biến ở mức giá như sau: Gạo 5% tấm của Thái Lan được chào bán với giá 420-430USD/tấn, giảm 10-20 USD/tấn so với tháng trước, Ấn Độ 430-440 USD/tấn fob, giảm nhẹ từ 5-10 USD/tấn so với tháng trước, Việt Nam 445-455USD/tấn, tăng 5-10USD/tấn so với tháng trước và cùng kỳ năm 2013. Tuy nhiên, Gạo 25% tấm giá khoảng 410 – 420 USD/tấn, so với 420 USD/tấn một tuần trước. Các thương gia cho biết giá gạo Việt Nam sẽ tăng trong vài tuần tới sau khi Trung Quốc quay lại mua gạo qua biên giới và Chính phủ Philipine bắt đầu mở thầu mua 500.000 tấn gạo.
Thị trường trong nước:
Trong tháng 8/2014, giá lương thực, thực phẩm ổn định trở lại so với tháng trước (do tâm lý ảnh hưởng bão số 2), không còn hiện tượng tăng giá đột biến và khan hàng ảnh hưởng xấu đến nhu cầu của nhân dân. Giá thóc gạo ổn định tại miền Bắc nhưng tăng nhẹ tại miền Nam, cụ thể như sau:
Tại miền Bắc, giá thóc tẻ thường dao động phổ biến ở mức 6.000 - 6.500 đồng/kg, giá gạo tẻ thường dao động phổ biến ở mức 8.000 - 12.500 đồng/kg. Tại Nam Bộ, giá lúa ở mức 5.400 - 6.050 đồng/kg, gạo thành phẩm xuất khẩu loại 5% tấm mức giá khoảng 8.200 - 8.400 đồng/kg, loại 25% tấm giá khoảng 7.450 - 7.600 đồng/kg. Giá lúa gạo trong mước tăng nhẹ nhờ thông tin từ nước nhập khẩu Philipine bắt đầu mở thầu mua 500.000 tấn gạo từ 6 nhà cung cấp.
Giá thực phẩm tươi sống tháng 8/2014 ổn định. Thịt lợn hơi: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 44.000 - 46.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg; Miền Nam giá phổ biến khoảng 47.000 - 54.000 đồng/kg, tăng 2.000 - 3.000 đồng/kg.
Thịt gà ta và gà công nghiệp làm sẵn có kiểm dịch: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 115.000 - 120.000 đồng/kg, giảm 5.000 đồng/kg; Miền Nam giá phổ biến khoảng 110.000 - 115.000 đồng/kg, giảm 5.000 đồng/kg; gà công nghiệp làm sẵn ở mức 55.000 - 60.000 đồng/kg, ổn định.
Giá một số loại rau, củ, quả nhìn chung ổn định là do thời tiết thuận lợi cho sự phát triển của rau xanh. Cụ thể: bắp cải 8.000 - 10.000 đồng/kg; khoai tây 12.000 -15.000 đồng/kg; cà chua 14.000 - 15.000 đồng/kg.
Giá một số mặt hàng thuỷ hải sản như cá chép, tôm, mực ống… ổn định so với tháng 7/2014: Cá chép 70.000 - 80.000 đồng/kg; tôm sú 180.000 - 185.000 đồng/kg; cá quả 110.000 - 120.000 đồng/kg.
Dự báo tháng 9 và những tháng cuối năm 2014 giá lương thực và thực phẩm có thể tiếp tục xu hướng tăng nhẹ do ảnh hưởng bão, sau đó sẽ ổn định.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2014
1. Về phát triển ngành du lịch
- Tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn, an ninh cho khách du lịch, tăng cường công tác tuyên truyền trong nước, chống tư tưởng bài trừ khách du lịch, đặc biệt khách du lịch đến từ thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông...
- Tăng cường mạnh mẽ hoạt động tuyên truyền thông tại các thị trường quốc tế qua các kênh ngoại giao, đại sứ quán, công ty lữ hành, các tổ chức du lịch nhằm thông tin kịp thời, đầy đủ, giải thích về công tác đảm bảo an toàn, an ninh cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, giữ hình ảnh du lịch của Việt Nam.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các địa phương, các Hiệp hội trong việc thúc đẩy nâng cao chất lượng giao thông vận tải, môi trường, văn hóa... đảm bảo an ninh, an toàn trên các tuyến đường vận chuyển khách du lịch.
- Đề xuất kéo dài thời hạn visa du lịch tại Việt Nam đối với một số thị trường trọng điểm của Việt Nam như: Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản...
- Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép cấp giấp phép hướng dẫn viên du lịch đối với một số số thị trường khách du lịch không nói tiếng Anh như: Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản...
2. Một số giải pháp điều hành xuất nhập khẩu năm 2014
- Đối với mặt hàng nông sản, bên cạnh việc nâng cao khả năng dự trữ tạo điều kiện cho việc ứng phó và điều tiết trước những biến động về giá trên thị trường thế giới, cần chú trọng hơn nữa về chất lượng sản phẩm để tăng giá trị các nhóm hàng sản xuất truyền thống không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng cũng như nâng cao được khả năng cạnh tranh.
- Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại với các hoạt động chủ yếu là: tổ chức các gian hội chợ, triển lãm chuyên ngành, hoạt động giao thương xúc tiến các ngành hàng xuất khẩu có tiềm năng như thực phẩm chế biến, thủy sản, nông sản nhằm củng cố, phát triển thị trường xuất khẩu truyền thống, tiềm năng như EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... và khai thác thị trường xuất khẩu mới ở Tây Á; hỗ trợ công tác thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tìm kiếm cơ hội kinh doanh, ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông lâm thủy sản.
- Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
- Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
- Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.
- Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
3. Về phát triển thị trường trong nước
a) Giải pháp chung
(1) Các giải pháp phát triển thị trường và bảo đảm cung - cầu hàng hóa
- Nắm bắt kịp thời các diễn biến của thị trường, dự báo đúng và sớm các tình huống có thể xảy ra để có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả.
- Đối với tình hình quan hệ với Trung Quốc:
+ Thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền, không để người dân bị hoang mang, bị kích động dẫn tới xáo trộn trong quan hệ cung - cầu hàng hóa trong nước.
+ Các tỉnh, thành phố chú trọng hơn nữa các biện pháp nhằm bảo đảm nguồn cung, không để tình trạng mất cân bằng về cung - cầu hàng hoá, gây tăng giá đột biến, đặc biệt là trong tình hình hiện nay.
- Tăng cường các biện pháp kiểm tra, quản lý thị trường bảo đảm cân đối cung cầu, chống đầu cơ, buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, sắt thép…
- Tiếp tục triển khai đưa hàng hóa về các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để mở rộng thị trường, nâng cao thị phần của hàng nội.
- Tiếp tục khai thác tốt năng lực sản xuất và nhu cầu thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu ra các thị trường.
- Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án đầu tư phát triển sản xuất các mặt hàng thiết yếu để đưa vào vận hành, tạo nguồn cung đáp ứng đủ cho nhu cầu của thị trường.
- Kịp thời trình Chính phủ phương án xuất cấp lương thực và các phương tiện tìm kiếm cứu nạn dự trữ nhà nước cho các địa phương, nhất là các tỉnh miền Trung để hỗ trợ khắc phục kịp thời hậu quả thiên tai, đảm bảo an sinh xã hội.
(2) Các giải pháp nhằm bình ổn, tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2014.
- Tại các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cần tiếp tục mở rộng các chương trình khuyến mại, giảm giá đã phát huy hiệu quả trong thời gian qua nhằm kích thích tiêu dùng, tạo động lực cho các doanh nghiệp sản xuất và phân phối trong nước.
- Quản lý chặt chẽ việc cung cấp thông tin, phát hiện và xử lý nghiêm khắc các trường hợp tung tin thất thiệt, gây hoang mang trong tâm lý nhân dân, tạo biến động giá xấu, ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
- Tính toán lộ trình điều chỉnh giá các hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá và là đầu vào của các ngành sản xuất (xăng dầu, điện, than, y tế, giáo dục...) đồng bộ với các chính sách liên quan để vừa đảm bảo theo tín hiệu thị trường vừa phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chấp hành pháp luật về giá (đăng ký giá, kê khai giá, công khai thông tin về giá) gắn với kiểm tra, thanh tra, chấp hành chấp hành về thuế, phí, lệ phí; ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm đặc biệt là việc điều chỉnh giá bất hợp lý các mặt hàng thiết yếu như thức ăn chăn nuôi, vật tư nông nghiệp, sữa dành cho trẻ em, thuốc chữa bệnh. Đối với một số mặt hàng thiết yếu, nghiên cứu phương án áp giá trần như đối với mặt hàng sữa trẻ em thời gian qua nhằm bảo đảm lợi ích người tiêu dùng và bình ổn thị trường.
- Tiếp tục triển khai các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn, về mở rộng thị trường, về thủ tục hành chính... để giúp các doanh nghiệp dự trữ hàng hóa, chuẩn bị đủ chân hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong các dịp lễ.
- Các Bộ chuyên ngành chỉ đạo các Tổng công ty và doanh nghiệp thực hiện nhiều biện pháp nhằm tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất, giảm định mức tiêu hao từ đó giúp hạ giá thành sản phẩm.
- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thông qua khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước.
b) Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu
(1) Xăng dầu
- Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trong Quy hoạch phát triển hệ thống sản xuất và hệ thống phân phối xăng dầu giai đoạn 2010 – 2020, định hướng đến năm 2025.
- Theo dõi sát sao thị trường dầu thế giới để kịp thời điều chỉnh giá xăng dầu bán lẻ trong nước hợp lý, vừa đảm bảo được quyền lợi của người tiêu dùng cũng như doanh nghiệp phân phối.
- Bảo đảm nguồn dầu nguyên liệu, đáp ứng tối đa yêu cầu về công suất của nhà máy lọc dầu Dung Quất.
- Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về việc trích lập, sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu làm cơ sở cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu áp dụng trong từng thời điểm, đảm bảo tính ổn định, công khai, minh bạch.
(2) Sắt thép
- Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước, khuyến khích các công ty ngoài quốc doanh bố trí thời gian sản xuất phù hợp để tiết kiệm chi phí sử dụng điện, xây dựng hệ thống phân phối hiệu quả, giảm các tầng nấc trung gian nhằm hạ giá thành sản phẩm.
- Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thép.
- Xây dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế thép rẻ kém chất lượng thâm nhập thị trường trong nước.
(3) Phân bón
- Các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị nguồn hàng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu, tránh tăng giá đột biến, đặc biệt khi bước vào cao điểm mùa vụ.
- Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt.
(4) Xi măng
- Theo dõi chặt chẽ giá phân bón thế giới để có biện pháp điều tiết nhập khẩu và sản xuất phù hợp, không để xảy ra tình trạng thiếu phân bón gây sốt giá cục bộ, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
- Tăng cường công tác hải quan tại các cửa khẩu, đặc biệt là tại phía Bắc nhằm giảm buôn lậu phân bón qua đường tiểu ngạch.
(5) Lương thực, thực phẩm
Tháng 9 và các tháng tiếp theo, nước ta có thể phải hứng chịu thêm các cơn bão, lũ lụt và sạt lở đất khó lường, vì vậy, các địa phương cần chủ động trong mọi tình huống ứng phó với thiên tai, bão lũ...và cần tăng cường công tác quản lý, điều hành, giám sát nhằm bình ổn giá cả thị trường, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống cung ứng đủ nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân.
Các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp theo Chỉ thị 25/CT-TTg ngày 05/12/2013 và Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Thủ tướng chính phủ. Chủ động đề phòng bão, lũ, sạt lở đất có thể xảy ra tại các địa phương, có kế hoạch dự phòng và chủ động nhằm nhẹ thiên tai cho nhân dân vùng bão, lũ./.
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư