Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 24 tháng 9 năm 2014
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Tình hình thế giới
Nước Mỹ kỉ niệm lần thứ 13 sự kiện 11/9 trong bối cảnh an ninh của riêng Mỹ và của toàn cầu đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi một tổ chức khủng bố mới IS. Trên khía cạnh kinh tế, điều này sẽ ảnh hưởng tới ngành du lịch toàn cầu do mọi người lo ngại về vấn đề an ninh hàng không, an ninh tại các địa điểm công cộng. Bên cạnh đó, dư âm của các vụ tai nạn hàng không cùng với sự gia tăng của dịch bệnh Ebola khiến ngành du lịch toàn cầu sẽ phải cần thêm nhiều thời gian để lấy lại được nhịp độ tăng trưởng tốt.
Ngày 13/9, Mỹ cùng Liên minh Châu Âu (EU) đã áp đặt thêm các lệnh trừng phạt kinh tế mới đối với Nga, nhằm vào các ngành tài chính, năng lượng và quốc phòng, để đáp trả các lệnh cấm của Nga nhằm vào các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Mỹ và EU. Điều này sẽ gây thiệt hại kinh tế cho tất cả các bên và kìm hãm tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Vấn đề cung cầu của một số loại hàng hóa sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên, nhiều nước trong đó có Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu khi Nga và EU tìm kiếm các thị trường thay thế khác.
2. Tình hình trong nước
Tháng 9 có các lễ hội như Tết Độc lập 2/9, Tết Trung thu cùng với dịp khai giảng năm học mới khiến nhu cầu vui chơi giải trí, mua sắm trong nhân dân tăng cao, gây áp lực tăng giá trên thị trường. Tuy nhiên, do giá các mặt hàng nhập khẩu hiện đang giảm, đặc biệt là giá xăng dầu trong nước liên tục giảm đã phần nào triệt tiêu được áp lực tăng giá. Giá cả các mặt hàng nhìn chung giữ ổn định, cung - cầu hàng hóa được đảm bảo. Cơn bão số 3 diễn ra tuy không gây thiệt hại lớn nhưng cũng khiến sản xuất tại các vùng bị bão gặp khó khăn và ảnh hưởng đến cung - cầu trong nước.
Tình hình biển Đông vẫn tạm thời lắng dịu, kim ngạch thương mại Việt Nam - Trung Quốc tăng trưởng tương đối tốt.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 9 NĂM 2014
1. Một số ngành dịch vụ
a) Dịch vụ du lịch
Doanh thu dịch vụ du lịch trong tháng 9 ước đạt 2,410 tỷ đồng, giảm khoảng 2,51% so với tháng 8/2014 (Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê).
Doanh thu trong 9 tháng ước đạt 22,283 tỷ đồng, tăng khoảng 17,41% so với cùng kì năm 2013 (Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê).
Kết quả đạt được trong 9 tháng đầu năm: tổng số khách du lịch quốc tế trong 9 tháng ước đạt khoảng 6 triệu lượt khách, tăng 9,3% so cùng kỳ năm ngoái. Số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 9/2014 ước đạt 530.000 lượt, giảm 14% so với cùng kỳ năm 2013. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 9 chủ yếu từ một số thị trường như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Campuchia, Lào, Malaysia, Thái Lan, Philipines, Mỹ, Canada, Pháp, Anh, Đức, Thụy Sĩ, Italy, Hà Lan, Bỉ, Na Uy, Nga, Úc…
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 9 tháng bằng đường hàng không tăng 5,1% so với cùng kỳ, khách du lịch đi bằng đường bộ tăng 15% so với cùng kỳ.
Xét theo mục đích chuyến đi, số lượng khách du lịch đi theo mục đích nghỉ ngơi trong 9 tháng năm 2014, du lịch tăng 10% so với cùng kỳ, tiếp đến là khách đi theo mục đích công việc tăng 12% và cuối cùng là khách du lịch đi theo mục đích thăm thân nhân tăng 15% .
b) Dịch vụ vận tải
Sản lượng vận tải 9 tháng đầu năm: hàng hoá ước đạt 780 triệu tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển đạt khoảng 164.700 triệu T.Km, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng vận tải hành khách đạt 2.274,8 triệu lượt hành khách, tăng 7% so với cùng kỳ; khối lượng luân chuyển đạt 102.800 triệu HK.Km, tăng 7,7%.
c) Dịch vụ Thông tin - Truyền thông
Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông 9 tháng đầu năm ước đạt 201.738 tỷ đồng.
Số thuê bao Internet băng rộng (xDSL) có dây tính đến hết tháng 9/2014 ước đạt 5.683 ngàn thuê bao. Thuê bao điện thoại cố định giảm mạnh, trên toàn mạng ước còn khoảng 7 triệu thuê bao. Thuê bao điện thoại di động 2G từ đầu năm giảm khoảng 5 triệu thuê bao, nhưng thuê bao 3G tăng khoảng trên 3 triệu thuê bao. Đáng lưu ý là trong nhóm 3G, số lượng thuê bao trả trước sử dụng điện thoại đang còn tăng cao trong khi số lượng thuê bao sử dụng data card đang trên đà giảm.
Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 9/2014 đạt 130 triệu thuê bao, trong đó điện thoại cố định chiếm khoảng 5,5%.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
a. Xuất khẩu
Tháng 9 năm 2014, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 12,4 tỷ USD, giảm 6,6% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 7,6 tỷ USD, giảm 6,6%.
9 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu ước đạt 109,6 tỷ USD, tăng 14,2%so với cùng kỳ năm 2013; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 67,2 tỷ USD, tăng 14,6% và chiếm 61,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 73 tỷ USD, tăng 14,1%. Xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 36,6 tỷ USD, tăng 14,2%.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 9 tháng năm 2014 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt gần 6,8 triệu tấn, tăng 9,7% về lượng và tăng 8,7% về kim ngạch; than đá ước đạt 5,9 triệu tấn, giảm 34,2% về lượng và giảm 32,8% về kim ngạch; điện thoại các loại và linh kiện đạt 17,1 tỷ USD, tăng 10,1%; dệt may đạt 15,5 tỷ USD, tăng 18,9%; da giày đạt 7,5 tỷ USD, tăng 25,3%; gỗ và sản phẩm gỗ 4,44 tỷ USD, tăng 14,4%; hàng điện tử và linh kiện điện tử đạt 7,4 tỷ USD, giảm 2,8%; thuỷ sản 5,7 tỷ USD, tăng 23%; gạo 5,1 triệu tấn, giảm 3,8% về lượng và giảm 0,1% về kim ngạch; cà phê 1,37 triệu tấn, tăng 33,1% về lượng và tăng 29,2% về kim ngạch; cao su 713 ngàn tấn, giảm 1,4% về lượng và giảm 26,2% về kim ngạch...
Về thị trường xuất khẩu 9 tháng năm 2014, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 22,7% và chiếm tỷ trọng 19,1% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 13% và chiếm tỷ trọng 18,3%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 1,6% và chiếm tỷ trọng 12,8%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 13,3% và chiếm tỷ trọng 10,2%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 16,5% và chiếm tỷ trọng 10,1%.
b. Nhập khẩu
Tháng 9 năm 2014, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 13 tỷ USD, tăng 6,6% so với tháng trước; trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 7,5 tỷ USD, tăng 6,6%.
9 tháng đầu năm 2014, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước ước đạt 107,2 tỷ USD, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 60,3 tỷ USD, tăng 9,8% và chiếm 56,3% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhập khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 46,9 tỷ USD, tăng 12,8%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 9 tháng đầu năm 2014 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 6,6 triệu tấn, tăng 20% về lượng và tăng 20,1% về kim ngạch; sắt thép 8,1 triệu tấn, tăng 14,1% về lượng và tăng 7,5% về kim ngạch; phân bón 2,8 triệu tấn, giảm 16,2% về lượng và giảm 28,1% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt 16,2 tỷ USD, tăng 21,2%; máy tính và linh kiện 13 tỷ USD, giảm 2,4%; vải đạt 6,9 tỷ USD, tăng 15,1%; nguyên phụ liệu dệt may 3,5 tỷ USD, tăng 25,3%...
9 tháng đầu năm 2014, nhập khẩu từ Châu Á chiếm 81% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 15,6%, tỷ trọng ước đạt 29%), ASEAN (tăng 7,5%, tỷ trọng 15,9%), Hàn Quốc (tăng 3,5%, chiếm tỷ trọng 14,6%), Nhật Bản (tăng 7,4%, chiếm tỷ trọng 8,4%) và EU (giảm 7,1%, chiếm tỷ trọng 6,1%).
c. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 9 tháng
Xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng trưởng khoảng 14,6% so với cùng kỳ; nhóm hàng nông sản, thủy sản tăng 15% và nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản tăng 0,8%.
Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2014 của cả nước tăng thêm 13,6 tỷ USD so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng khoảng 8,6 tỷ USD (đóng góp khoảng 63% kim ngạch tăng thêm). Các mặt hàng có sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 99,6% tổng kim ngạch mặt hàng này của cả nước); máy vi tính linh kiện và điện tử (98,6%); giầy dép (76,3%); hàng dệt may (59,5%); máy ảnh (96,4%).
Xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đạt mức tăng trưởng khá (14,2%), cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng 3% của 9 tháng năm 2013. Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy sự phục hồi và phát triển sản xuất, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước.
Nhập khẩu của cả nước tăng 10,7 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu của khu vực FDI tăng 5,4 tỷ USD. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của khối doanh nghiệp FDI là điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 85% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của cả nước); máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện (90,9%); vải các loại (61,1%); nguyên phụ liệu dệt may, da giầy (68,6%).
9 tháng đầu năm 2014, cả nước xuất siêu khoảng 2,47 tỷ USD, bằng 2,25% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu 6,9 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, khu vực FDI xuất siêu khoảng 12,7 tỷ USD. Nhập siêu của khu vực doanh nghiệp trong nước ước đạt 10,23 tỷ USD.
3. Phát triển thị trường trong nước
a) Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Ước tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 đạt khoảng 244.529 tỷ đồng, tăng khoảng 0.69% so với tháng trước; tính cả 9 tháng đầu năm ước tổng mức bán lẻ đạt khoảng 2.145.467 tỷ đồng, tăng khoảng 11,12% so với cùng kỳ năm 2013(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê).
b) Chỉ số giá tiêu dùng
Ước CPI tháng 9 tăng khoảng 0,4% so với tháng 8/2014. Ước 9 tháng đầu năm 2014 CPI cả nước tăng 2,25% so với tháng 12/2013 (Số liệu ước của Vụ Kinh tế dịch vụ).
c) Tình hình cung – cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
(1) Xăng dầu
Do chỉ số giá đô la Mỹ tăng tuần thứ 10 liên tiếp (tính đến 20/9) nên những hàng hóa được giao dịch bằng đô la Mỹ, trong đó có xăng dầu, đều bị áp lực giảm giá. Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York giảm khoảng 66 cent (tương đương 0,7%) xuống mức 92,41 USD/thùng. Giá dầu Brent đã giảm 15 USD/thùng kể từ mức cao nhất hồi giữa tháng 6 trước những lo ngại nguồn cung dồi dào sẽ gây áp lực lên nhu cầu. Giá xăng RBOB giao tháng 10 tăng 5,04 cent (+2%) lên 2,6114 USD/gallon. Trong nửa đầu tháng 9, Giá xăng RON 92 tại thị trường Singapore tương đối ổn định ở mức 109 USD/thùng
Trong tháng 9, giá xăng dầu trong nước đã có thêm 3 lần giảm giá. Cụ thể, giá xăng RON 95 giảm từ 24.810 đ/lít xuống 24.310 đ/l, xăng RON 92 giảm từ 24.210 đ/lít xuống 23.710 đ/lít, xăng sinh học E5 RON 92 giảm từ 24.210 đ/lít xuống 23.710 đ/lít, dầu Diezen 0,05S giảm từ 22.090 đ/lít xuống còn 21,770 đ/lít.
Lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 9 ước đạt 500 nghìn tấn, tương đương 456 triệu USD, giảm 14,7% so với tháng trước; lũy kế 9 tháng đầu năm 2014 đạt 6.564 nghìn tấn, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Lượng dầu thô xuất khẩu tháng 9 ước đạt 580 nghìn tấn, tương đương 450 triệu USD, giảm 32,9% so với tháng trước. Lũy kế 9 tháng đầu năm đã xuất 6.804 nghìn tấn, tăng 9,7% so với sản lượng cùng kỳ năm 2013.
(2) Sắt thép
Tháng 9 là thời điểm bắt đầu mùa mưa bão nên nhu cầu tiêu thụ thép của thị trường trong nước thấp. Cùng với việc thép nhập khẩu từ Trung Quốc ngày càng tăng nên một số nhà máy sản xuất thép khu vực miền Bắc đã phải dừng sản xuất. Sản lượng thép thô ước đạt 280,5 nghìn tấn, tăng 8,9% so với cùng kì năm trước; thép cán ước đạt 291,1 nghìn tấn, tăng 15,6%; thép thanh, thép góc ước đạt 294,6 nghìn tấn, tăng 6,6%. Tính chung 9 tháng, sản lượng thép thô đạt 1,95 triệu tấn, giảm 0,01% so với cùng kì năm trước; thép cán đạt 2,31 triệu tấn, tăng 22,8%; thép thanh, thép góc đạt 2,29 triệu tấn, tăng 5,1%. Giá thép tại nhà máy của Tổng Công ty Thép Việt Nam và giá bán lẻ trên thị trường tương đối ổn định: tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung dao động từ 15.400-16.000 đồng/kg; tại các tỉnh Miền Nam từ 15.300-15.900 đồng/kg.
Ngày 5/9/2014, Bộ Công Thương đã có Quyết định số 7896/QĐ-BC áp dụng biện pháp chống bán phá giá với mức thuế từ 3,07% - 37,29% đối với một số sản phẩm thép không gỉ nhập khẩu từ Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Đài Loan. Cụ thể, thép không gỉ cán nguội nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ chịu mức thuế chống bán phá giá từ 4,64 đến 6,87%; từ Malaysia là 10,71%; từ Đài Loan là 13,79 đến 37,29%, từ Indonesia là 3,07%.
Sản lượng thép nhập khẩu thực hiện tháng 8/2014 đạt 1040 nghìn tấn, ước tháng 9/2014 đạt 1000 nghìn tấn, giảm 3,8% về lượng so với tháng trước. Tính cả 9 tháng đầu năm 2014, lượng thép nhập khẩu đạt khoảng 8060 nghìn tấn, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước.
(3) Xi măng
Thời tiết bước vào tháng 9 có nhiều mưa nên lượng sản xuất, tiêu thụ của toàn ngành xi măng 15 ngày đầu tháng 9 giảm nhẹ so với 15 ngày đầu tháng 8/2014. Tổng sản lượng sản xuất 15 ngày đầu tháng 9/2014 ước đạt khoảng 2,1 triệu tấn, giảm khoảng 0,2 triệu tấn; tổng sản lượng tiêu thụ ước đạt khoảng 2,2 triệu tấn, giảm khoảng 0,2 triệu tấn. 9 tháng đầu năm 2014, lượng xi măng tiêu thụ ước đạt 42,53 triệu tấn, tăng 8% so với cùng kỳ. Cụ thể tiêu thụ xi măng nội địa ước đạt 32,85 triệu tấn, bằng 107% so với cùng kỳ năm 2013, trong khi đó xuất khẩu xi măng vẫn giữ được mức tăng trưởng ổn định 9,68 triệu tấn, bằng 109% so cùng kỳ.
Trong tháng 9 vừa qua, xuất khẩu xi măng và clinker đạt hơn 1,1 triệu tấn, tăng 12% so với tháng 8/2014 và tăng 18,3% so với cùng kỳ, cho thấy một xu hướng phục hồi khá mạnh. Tính đến giữa tháng 9, tổng sản lượng xuất khẩu xi măng và clinker đã đạt hơn 10 triệu tấn. Giá xuất khẩu xi măng và clinker 15 ngày đầu tháng 9/2014 ổn định so với 15 ngày đầu tháng 8/2014; hiện giá xuất khẩu xi măng khoảng 54,5 USD/tấn - 55 USD/tấn và clinker khoảng 38,2 USD/tấn - 39 USD/tấn.
Giá xi măng tại các nhà máy của Tổng Công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam và giá bán lẻ xi măng ổn định: tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung hiện phổ biến từ 1.050.000-1.500.000 đồng/tấn; tại các tỉnh miền Nam phổ biến từ 1.460.000-1.800.000 đồng/tấn.
(4) Phân bón
Trong tháng 9, sản xuất phân ure và phân lân cơ bản đáp ứng nhu cầu trong nước. Trong 9 tháng đầu năm 2014, sản lượng phân đạm urê ước đạt 1.427,8 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2013; phân NPK đạt khoảng 1.621,8 nghìn tấn, giảm 0,6%.
Lượng phân bón nhập khẩu trong tháng 9 ước đạt gần 326 nghìn tấn, trị giá là 105 triệu USD, tăng 2,3% về lượng và tăng 1,9% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết 9 tháng năm 2014, tổng lượng phân bón các loại nhập khẩu vào Việt Nam ước lên đến gần 2,49 triệu tấn, giảm 15,3% so với cùng kì năm trước. Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp phân bón cho Việt Nam trong 9 tháng năm 2014 với 1,28 triệu tấn, giảm 8% và chiếm 51,6% tổng lượng phân bón cả nước nhập về. Dự kiến trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ ban hành mức thuế mới cho phân ure và phân DAP lên mức 6% để bảo vệ sản xuất trong nước.
Giá phân urê ổn định, tại miền Bắc, mức giá khoảng 8.300-8.400 đồng/kg; tại miền Nam, mức giá khoảng 8.000-8.400 đồng/kg.
(5) Lương thực, thực phẩm
Tháng 9/2014, giá gạo thế giới ổn định. Gạo trắng hạt dài cao cấp của các nước như sau: Thái Lan giá 445-455USD/tấn fob, Ấn Độ 435-445 USD/tấn fob, Việt Nam 440-450USD/tấn fob, Campuchia 465-475USD/tấn fob, Pakistan 420-430 USD/tấn fob, Mỹ 525-535USD/tấn fob. Nhìn chung giá gạo thế giới tháng 9/2014 ổn định mặc dù Trung Quốc nhập khẩu gạo trở lại và Philipine mở thầu mua 500.000 tấn gạo từ một số nước.
Trong tháng 9/2014, giá lương thực, thực phẩm có tăng nhẹ so với tháng trước (do tâm lý ảnh hưởng bão số 3 trong các ngày 15-18/9), tuy nhiên do được cảnh báo và chuẩn bị trước nên các địa phương chủ động đảm bảo cung ứng đủ lương thực, thực phẩm cho người dân trong và ngoài vùng chịu ảnh hưởng của bão. Do đó, không có hiện tượng tăng giá đột biến và khan hàng ảnh hưởng xấu đến nhu cầu của nhân dân. Tại miền Bắc, giá thóc tẻ thường dao động phổ biến ở mức 6.000-6.500 đồng/kg, một số loại thóc chất lượng cao hơn giá phổ biến ở mức 7.500–8.500 đồng/kg, giá gạo tẻ thường dao động phổ biến ở mức 8.000-12.500 đồng/kg. Tại miền Nam, Giá lúa dao động ở mức 5.200-5.900 đồng/kg, giảm khoảng 200-400 đồng/kg.
Giá thực phẩm tươi sống nhìn chung ổn định, riêng thịt lợn hơi tăng nhẹ so với cùng kỳ tháng 8/2014: Thịt lợn hơi: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 44.000-47.000 đồng/kg, tăng 2.000 đồng/kg; Miền Nam giá phổ biến khoảng 47.000-53.000 đồng/kg, tăng 2.000-5.000 đồng/kg. So với 15 ngày tháng 8/2014, giá một số mặt hàng thuỷ hải sản như: cá chép, tôm, mực ống… ổn định. Cụ thể: Cá chép 70.000-80.000 đồng/kg; tôm sú 180.000-185.000 đồng/kg; cá quả 110.000-120.000 đồng/kg.
So với cùng kỳ tháng trước, giá một số loại rau, củ, quả ổn định: Bắp cải 8.000-10.000 đồng/kg; khoai tây 12.000-15.000 đồng/kg; cà chua 14.000-15.000 đồng/kg.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2014
1. Về phát triển ngành du lịch
Tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn, an ninh cho khách du lịch, tăng cường công tác tuyên truyền trong nước, chống tư tưởng bài trừ khách du lịch, đặc biệt khách du lịch đến từ thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông...
Tăng cường mạnh mẽ hoạt động tuyên truyền thông tại các thị trường quốc tế qua các kênh ngoại giao, đại sứ quán, công ty lữ hành, các tổ chức du lịch nhằm thông tin kịp thời, đầy đủ, giải thích về công tác đảm bảo an toàn, an ninh cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, giữ hình ảnh du lịch của Việt Nam.
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các địa phương, các Hiệp hội trong việc thúc đẩy nâng cao chất lượng giao thông vận tải, môi trường, văn hóa... đảm bảo an ninh, an toàn trên các tuyến đường vận chuyển khách du lịch.
Đề xuất kéo dài thời hạn visa du lịch tại Việt Nam đối với một số thị trường trọng điểm của Việt Nam như: Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản...
Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép cấp giấp phép hướng dẫn viên du lịch đối với một số số thị trường khách du lịch không nói tiếng Anh như: Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản...
2. Một số giải pháp điều hành xuất nhập khẩu năm 2014
Đối với mặt hàng nông sản, bên cạnh việc nâng cao khả năng dự trữ tạo điều kiện cho việc ứng phó và điều tiết trước những biến động về giá trên thị trường thế giới, cần chú trọng hơn nữa về chất lượng sản phẩm để tăng giá trị các nhóm hàng sản xuất truyền thống không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng cũng như nâng cao được khả năng cạnh tranh.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại với các hoạt động chủ yếu là: tổ chức các gian hội chợ, triển lãm chuyên ngành, hoạt động giao thương xúc tiến các ngành hàng xuất khẩu có tiềm năng như thực phẩm chế biến, thủy sản, nông sản nhằm củng cố, phát triển thị trường xuất khẩu truyền thống, tiềm năng như EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... và khai thác thị trường xuất khẩu mới ở Tây Á; hỗ trợ công tác thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tìm kiếm cơ hội kinh doanh, ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông lâm thủy sản.
Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.
Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
3. Về phát triển thị trường trong nước
a) Giải pháp chung
(1) Các giải pháp phát triển thị trường và bảo đảm cung - cầu hàng hóa
Nắm bắt kịp thời các diễn biến của thị trường, dự báo đúng và sớm các tình huống có thể xảy ra để có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả.
Tăng cường các biện pháp kiểm tra, quản lý thị trường bảo đảm cân đối cung cầu, chống đầu cơ, buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, sắt thép…
Tiếp tục khai thác tốt năng lực sản xuất và nhu cầu thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu ra các thị trường.
(2) Các giải pháp nhằm bình ổn, tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả
Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2014.
Tại các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cần tiếp tục mở rộng các chương trình khuyến mại, giảm giá đã phát huy hiệu quả trong thời gian qua nhằm kích thích tiêu dùng, tạo động lực cho các doanh nghiệp sản xuất và phân phối trong nước.
Quản lý chặt chẽ việc cung cấp thông tin, phát hiện và xử lý nghiêm khắc các trường hợp tung tin thất thiệt, gây hoang mang trong tâm lý nhân dân, tạo biến động giá xấu, ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Tính toán lộ trình điều chỉnh giá các hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá và là đầu vào của các ngành sản xuất (xăng dầu, điện, than, y tế, giáo dục...) đồng bộ với các chính sách liên quan để vừa đảm bảo theo tín hiệu thị trường vừa phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chấp hành pháp luật về giá (đăng ký giá, kê khai giá, công khai thông tin về giá) gắn với kiểm tra, thanh tra, chấp hành chấp hành về thuế, phí, lệ phí; ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm đặc biệt là việc điều chỉnh giá bất hợp lý các mặt hàng thiết yếu.
Tiếp tục triển khai các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn, về mở rộng thị trường, về thủ tục hành chính... để giúp các doanh nghiệp dự trữ hàng hóa, chuẩn bị đủ chân hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong các dịp lễ.
Tiếp tục đẩy mạnh triển khai cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thông qua khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước.
b) Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu
(1) Xăng dầu
Theo dõi sát sao thị trường dầu thế giới để kịp thời điều chỉnh giá xăng dầu bán lẻ trong nước hợp lý, vừa đảm bảo được quyền lợi của người tiêu dùng cũng như doanh nghiệp phân phối.
Bảo đảm nguồn dầu nguyên liệu, đáp ứng tối đa yêu cầu về công suất của nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về việc trích lập, sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu làm cơ sở cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu áp dụng trong từng thời điểm, đảm bảo tính ổn định, công khai, minh bạch.
(2) Sắt thép
Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước, khuyến khích các công ty ngoài quốc doanh bố trí thời gian sản xuất phù hợp để tiết kiệm chi phí sử dụng điện, xây dựng hệ thống phân phối hiệu quả, giảm các tầng nấc trung gian nhằm hạ giá thành sản phẩm.
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thép. Xây dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế thép rẻ kém chất lượng thâm nhập thị trường trong nước.
(3) Phân bón
Theo dõi chặt chẽ giá phân bón thế giới để có biện pháp điều tiết nhập khẩu và sản xuất phù hợp, không để xảy ra tình trạng thiếu phân bón gây sốt giá cục bộ, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt. Kiểm soát chặt các cửa khẩu, đặc biệt là tại phía Bắc nhằm giảm buôn lậu phân bón qua đường tiểu ngạch.
(4) Xi măng
Các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị nguồn hàng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu, tránh tăng giá đột biến. (5) Lương thực, thực phẩm
Tăng cường công tác quản lý, điều hành, giám sát nhằm bình ổn giá cả thị trường, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống cung ứng đủ nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân./.
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư