Phần thứ nhất
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2009
I. Về phát triển kinh tế:
Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn ước 38.480,4 tỷ đồng, tăng 7,7% so cùng kỳ, bằng 97,9% kế hoạch năm; trong đó: khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,8%, bằng 94,5% kế hoạch; khu vực ngoài nhà nước tăng 10,6%, bằng 100,5% kế hoạch; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9%, bằng 97,7% kế hoạch. Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, thị trường tiêu thụ thu hẹp; một số dự án đầu tư sản xuất công nghiệp trọng điểm chậm tiến độ, không đưa vào hoạt động theo kế hoạch (có 19 dự án sản xuất công nghiệp mới đi vào hoạt động, đóng góp vào tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp 1,6%).
Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp: Tổng diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt cả năm giảm 0,8% so với cùng kỳ;diện tích lúa giảm 0,9%, năng suất lúa cả năm ước tăng 3,5%; sản lượng tăng 2,7% so với cùng kỳ. Chăn nuôi trang trại công nghiệp tăng nhanh, ước hết năm 2009 có 618 trang trại, tăng 17% so cùng kỳ. Giá trị sản xuất nông nghiệp ước 2.709,4 tỷ đồng, tăng 4,7% vượt kế hoạch năm (kế hoạch tăng 4 - 4,2%). Sản xuất thuỷ sản: Tổng sản lượng thủy sản ước đạt 86,87 nghìn tấn, tăng 6,1% so với cùng kỳ; trong đó: nuôi trồng tăng 7,3%; khai thác tăng 4,8%. Giá trị sản xuất thủy sản ước 945,9 tỷ đồng, tăng 8,1% so cùng kỳ. Tu bổ đê điều: hoàn thành dự án tu bổ đê điều thường xuyên năm 2009; dự án nâng cấp đê biển I đoạn từ Dương Kinh đến Đồ Sơn. Hoàn thành và đưa vào sử dụng 18 hệ cấp nước tập trung; 1.633 bể nước mưa; 1 công trình xử lý nước thải làng nghề; 1.200 hố xí hợp vệ sinh; đưa tỷ lệ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh lên 86%, đạt kế hoạch.
Hoạt động thương mại - dịch vụ: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ước tăng 22,1% so với cùng kỳ; đạt 105,5% kế hoạch. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước 1.687 triệu USD, tăng 11,7% so với cùng kỳ, đạt 101% kế hoạch (trong đó hàng dệt may và giày dép chiếm 30,4% giá trị kim ngạch xuất khẩu); Tổng kim ngạch nhập khẩu ước 1.655 triệu USD, giảm 14,3 % so với cùng kỳ, đạt 80,2% kế hoạch. Sản lượng hàng qua các cảng trên địa bàn thành phố ước 32,5 triệu tấn, tăng 13,7%, đạt 101,6% kế hoạch (tỷ lệ hàng container qua cảng chiếm 63%).Vận tải: Vận chuyển hàng hoá trên địa bàn ước tăng 2,3% về tấn, luân chuyển hàng hoá tăng 10,6% về tấn km so cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa giảm 29,4% so với cùng kỳ. Vận chuyển hành khách tăng 4,7% về người và 1,8% về người km; doanh thu vận tải hành khách tăng 9,6% so với cùng kỳ. Bưu chính viễn thông: số thuê bao điện thoại phát triển mới trong năm ước đạt 1,4 triệu thuê bao, tăng 200% so với cùng kỳ; thuê bao Internet ước tăng thêm 18.500 thuê bao. Tổng lượng khách du lịch đến Hải Phòng ước tăng 6,2% vượt kế hoạch; trong đó khách quốc tế giảm 5,8% so với cùng kỳ và bằng 90,4% kế hoạch. Tổng doanh thu khách sạn, nhà hàng, du lịch, dịch vụ ước tăng 2,5% so với cùng kỳ.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước 28.500 tỷ đồng, tăng 7,25% so với năm 2009, trong đó: thu thuế hải quan 24.000 tỷ đồng, tăng 19,23% vượt kế hoạch; thu nội địa ước 4.500 tỷ đồng, tăng 15,7%, đạt kế hoạch. Một số nguồn thu có tốc độ tăng khá như: thu tiền sử dụng đất tăng 37,4%; phí xăng dầu tăng 68,4%; thuế nhà đất tăng 14,6%... so với kế hoạch. Tổng chi ngân sách địa phương ước trên 4.609 tỷ đồng, đạt kế hoạch; trong đó chi đầu tư phát triển ước 1.457,595 tỷ đồng, chi thường xuyên ước 3.026,593 tỷ đồng. Tín dụng: Tổng nguồn vốn huy động đến cuối tháng 10/2009 ước tăng 33% so với cùng kỳ; tổng dư nợ cho vay đến hết tháng 10/2009 tăng 46% so với cùng kỳ. Thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất theo các Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/1/2009, Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 04/4/2009 và Quyết định 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, đến ngày 12/11/2009 hệ thống các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã giải ngân cho vay 9.571 tỷ đồng với 8.616 khách hàng, trong đó: cho vay để mua máy móc thiết bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp đạt 1 tỷ đồng với 18 khách hàng. Ngân hàng chính sách Chi nhánh Hải Phòng cho vay hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách theo Quyết định số 579/QĐ-TTG đến ngày 12/11/2009 đã thực hiện tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất là 399 tỷ đồng với 37.027 khách hàng.
Huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển: Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn thành phố cả năm ước thực hiện 27.410 tỷ đồng, tăng 10,5% so cùng kỳ, trong đó: trung ương quản lý 8.404,8 tỷ đồng, tăng 25,9%; địa phương 15.114,4 tỷ đồng, tăng 6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3.890,6 tỷ đồng, tăng 0,7% so cùng kỳ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước thu hút 120 triệu USD, bằng 60% kế hoạch; Tính đến nay trên địa bàn thành phố có 282 dự án FDI còn hiệu lực với số vốn đăng ký 4.262 triệu USD, vốn thực hiện đạt 45% tổng vốn đăng ký. Công tác thẩm định dự án đầu tư: đã thẩm định phê duyệt 123 dự án đầu tư, trong đó: 72 dự án duyệt mới với tổng mức đầu tư là 2.795,2 tỷ đồng; 51 dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng vốn đầu tư là 1.522,78 tỷ đồng. Công tác phát triển doanh nghiệp: ước cả năm cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 3.365 doanh nghiệp với số vốn đăng ký 11.264,7 tỷ đồng, tăng 11,24% về số doanh nghiệp và giảm 38,73% về vốn so với cùng kỳ. Công tác hậu kiểm doanh nghiệp được tập trung chỉ đạo, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng cho các doanh nghiệp, trong năm 2009 đã tiến hành thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của 500 doanh nghiệp.
II. Công tác quản lý và phát triển đô thị, quản lý tài nguyên môi trường
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, đô thị: công bố 07 quy hoạch chi tiết tỉ lệ 1/2000 cho: Khu thuế quan và công nghiệp Nam Đình Vũ; Khu tưởng niệm vương triều nhà Mạc; Trung tâm hành chính quận Lê Chân; Khu công nghiệp An Dương; Dự án nước thải; Quy hoạch điều chỉnh mở rộng thị trấn Vĩnh Bảo; quy hoạch chi tiết huyện đảo Bạch Long Vĩ; công bố quyết định điều chỉnh quy hoạch xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025 tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1448/QĐ-TTg ngày 16/9/2009. Triển khai lập Đề án nhà ở xã hội và nhà ở công vụ; Đề án nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý quỹ nhà công; Đề án xây dựng Trung tâm giao dịch bất động sản.
Giới thiệu địa điểm cho 112 hồ sơ; cấp chứng chỉ quy hoạch cho 230 hồ sơ khối cơ quan với diện tích 2.574,14 ha, cấp giấy phép xây dựng cho 1.971 hồ sơ với diện tích 233.653 m2.
Công tác giao thông vận tải: công tác quản lý, bảo dưỡng thường xuyên tại tất cả các tuyến đường và các tuyến phố nội thành được quan tâm chỉ đạo, đảm bảo an toàn cho các phương tiện tham gia giao thông. Công tác quản lý vận tải hành khách bằng đường thủy, đường bộ được chỉ đạo điều phối đảm bảo đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân, đặc biệt trong các dịp Lễ, Tết. Kiểm tra xử lý giải tỏa chống lấn chiếm hành lang an toàn giao thông, tập trung giải quyết các điểm đen, điểm nguy cơ tiềm ẩn gây mất an toàn giao thông; kịp thời ngăn chặn các vi phạm về trật tự an toàn giao thông, xâm hại đến các công trình giao thông.
Công tác quản lý đất đai, tài nguyên và môi trường:
Thực hiện giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân, giao đất tái định cư, thực hiện các công trình công cộng và các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ với diện tích 643,29 ha, bằng 107% kế hoạch năm 2009; thu hồi 855,59 ha phục vụ 82 dự án đầu tư. Thu hồi quỹ đất 10% của 5 dự án với diện tích 3,06 ha; thẩm định bản đồ địa chính 179 dự án, diện tích 5.629,24 ha; thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng 161 dự án với diện tích 2.154,9 ha, trong đó đã giải phóng mặt bằng bàn giao 822 ha, bố trí 1.183 hộ tái định cư. Đã cấp 24.819 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
Lập quy hoạch xây dựng quy hoạch thăm dò khai thác khoáng sản thành phố đến năm 2025; phê duyệt quy hoạch khoanh vùng cấm hoạt động khoáng sản đến năm 2025 với 579 điểm thuộc các lĩnh vực. Cấp 06 giấy phép thăm dò, 03 giấy phép khai thác, phê duyệt 5 báo cáo đánh giá trữ lượng khoáng sản.
Tổ chức thanh tra, kiểm tra, việc sử dụng các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường tại các doanh nghiệp, đã phát hiện xử phạt hành chính và yêu cầu khắc phục hậu quả đối với 18 đơn vị. Kiểm tra sau đánh giá tác động môi trường 31 doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn các quận Kiến An, Hồng Bàng và các huyện Thủy nguyên, An Dương. Cấp 45 sổ đăng ký Chủ nguồn thải chất thải nguy hại, 18 báo cáo đánh giá tác động môi trường; 32 Đề án bảo vệ môi trường. Hướng dẫn 28 chủ dự án thực hiện các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với các dự án sau khi có quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của Uỷ ban nhân dân thành phố.
III. Lĩnh vực Văn hoá - xã hội:
Công tác giáo dục - đào tạo: Năm học 2008 – 2009 tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp Trung học phổ thông của thành phố đứng thứ 6 toàn quốc, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp Bổ túc trung học phổ thông đứng thứ 4 toàn quốc; số học sinh giỏi quốc tế của Hải Phòng đứng đầu toàn quốc. Tổ chức thành công ngày Hội công nghệ thông tin ngành Giáo dục và Đào tạo lần thứ 4. Tổ chức các lớp bồi dưỡng Hiệu trưởng theo chương trình phối hợp Việt Nam - Singapore cho 100% Hiệu trưởng các trường Trung học phổ thông, Trung học cơ sở. Triển khai giảng dạy Luật thuế, Luật giao thông và phòng chống các tệ nạn xã hội trong các trường học. Triển khai xây dựng đề án “ổn định và phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2009 – 2015 và định hướng đến năm 2020” trình Kỳ họp 17 Hội đồng nhân dân thành phố. Đến nay toàn thành phố đã có 207/733 trường đạt chuẩn quốc gia tỷ lệ 28,24%.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân: Triển khai tích cực các biện pháp phòng chống dịch bệnh: tả, thương hàn, tiêu chảy cấp, sốt xuất huyết… Tình hình dịch cúm A H1N1 đã được giám sát chặt chẽ, đến nay trên địa bàn thành phố có 71 trường hợp dương tính với cúm A H1N1 trên địa bàn 12 quận, huyện, tuy nhiên không có ca bệnh nặng và không có ca nào tử vong. Dịch bệnh sốt xuất huyết đang diễn biến phức tạp xảy ra ở hầu hết các quận huyện, đến nay có 177 ca sốt xuất huyết lâm sàng, trong đó có 76 ca dương tính, các ca mắc lâm sàng có chiều hướng gia tăng. Tổ chức tốtcông tác khám chữa bệnh cho nhân dân, chất lượng khám chữa bệnh được nâng cao; công tác khám chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, bệnh nhân bảo hiểm y tế đã được triển khai ở tuyến xã, phường. Tiếp tục điều chỉnh và tăng cường bác sĩ ở tuyến xã phường; tiếp tục thực hiện tốt Đề án 1816 “cử cán bộ luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ bệnh viện tuyến dưới” nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Tổ chức các đợt thanh kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố, tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm thực hiện các điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đạt 65%. Thực hiện triển khai dự án điều trị thay thế Methadone cho người nghiện được tiến hành theo đúng tiến độ, đúng yêu cầu. Đến nay số người nhiễm HIV mới giảm đáng kể so cùng kỳ.
Công tác dân số, gia đình và trẻ em: Tuyên truyền vận động lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình ở 160 xã, phường; các hoạt động cung cấp các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình được duy trì thường xuyên đảm bảo an toàn và thuận lợi tại các Trung tâm y tế và các Trạm y tế xã, phường. Tiếp tục thực hiện Đề án nâng cao chất lượng Dân số thông qua tuyên truyền, vận động phát hiện, can thiệp sớm tật, bệnh ở thai nhi và sơ sinh trên địa bàn 8 quận, huyện; triển khai thực hiện Đề án kiểm soát Dân số vùng biển, đảo và ven biển năm 2009 tới 42 xã, phường thuộc 8 quận, huyện. Trong năm 2009 số trẻ em là con thứ 3 trở lên là 1.441 cháu, giảm 2,64% so với cùng kỳ.
Công tác văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao: Tổ chức tốt các hoạt động văn hoá, thể thao chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước và thành phố trong năm 2009. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa, thể thao và du lịch được thực hiện tốt, triển khai toàn diện, đạt hiệu quả cao; công tác thanh tra, kiểm tra tiếp tục được duy trì, tăng cường. Thể dục - thể thao: Tổ chức trên 50 giải thi đấu thể thao quần chúng phục vụ nhân dân thành phố, góp phần nâng cao thể chất và tinh thần cho nhân dân. Tổ chức tốt giải Vô địch Bắn cung trẻ toàn quốc, tổ chức thi đấu 02 môn thể thao trong nhà trong hệ thống các môn thi đấu tại Đại hội Thể thao Châu Á trong nhà lần thứ 3 năm 2009 do Việt Nam đăng cai tổ chức. Tiếp tục duy trì tốt công tác đào tạo, huấn luyện, chuẩn bị lực lượng tham gia các giải thi đấu thể thao quốc gia và quốc tế trong thời gian tới. Phát triển du lịch: Đã hoàn chỉnh và ban hành Quy chế tại Khu dữ trự sinh quyển thế giới - quần đảo Cát Bà. Triển khai Đề án nâng cấp 02 tuyến du lịch trên địa bàn thành phố du lịch Nội thành và du khảo đồng quê; triển khai xúc tiến công tác xây dựng và mở tuyến du lịch đường bộ Hải Phòng - Nghệ An - Lào - Thái Lan; tham dự Liên hoan Du lịch Văn hóa quốc tế tại Côn Minh, Vân Nam, Trung Quốc. Công tác quảng bá, đầu tư và xúc tiến du lịch được quan tâm đẩy mạnh.
Công tác lao động - thực hiện chính sách xã hội: Số lao động được giải quyết việc làm năm 2009 ước đạt 45.500 lượt người tăng 0,8% so với năm 2008; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,82%. Năm 2009 số lao động mất việc làm do suy giảm kinh tế là 9.000 lao động, trong đó tại các doanh nghiệp là 5.410 lao động, còn lại là tại các hợp tác xã và làng nghề. Công tác hướng dẫn, quản lý các đơn vị sử dụng lao động về việc thực hiện Bộ luật lao động nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động được tăng cường. Đã xảy ra 03 vụ đình công tập thể với 1.167 người lao động tham gia; xảy ra 11 vụ tai nạn lao động chết người làm 11 người chết. Phong trào đền ơn đáp nghĩa tiếp tục được nhân rộng, đến nay đã xây mới và sửa chữa 523 nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách, đạt 104,6% so với kế hoạch. Đã quyết định cho 817người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học đủ điều kiện hưởng lại trợ cấp theo Quyết định số 26/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; triển khai 02 dự án thí điểm mô hình dạy nghề tạo việc làm tại chỗ cho người nghèo ở Hải Phòng; đã cấp 25.294 thẻ bảo hiểm y tế năm 2009 - 2010 cho đối tượng hộ nghèo. Tổ chức cai nghiện và hỗ trợ sau cai nghiện cho 3.047 đối tượng, tăng 1,26% so với năm 2008. Tổ chức 33 đợt thu gom 541 đối tượng nghiện ma túy lang thang trên địa bàn thành phố đưa vào các Trung tâm Giáo dục Lao động xã hội để cai nghiện, chữa trị, giáo dục phục hồi.
Công tác khoa học - công nghệ: Triển khai 2 dự án lớn đầu tư tăng cường năng lực cho các tổ chức khoa học và công nghệ: dự án xây dựng đầu tư nâng cao năng lực đo lường – thử nghiệm của Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng Duyên hải Bắc bộ và dự án khu trình diễn và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ tại quận Kiến An. Triển khai 2 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ, 30 nhiệm vụ và khoa học cấp thành phố, triển khai các nhiệm vụ hoạt động khoa học và công nghệ thường xuyên tại các quận, huyện và ngành. Trong năm 2009 toàn thành phố có thêm 46 tổ chức, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến; tổng số các tổ chức, doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên địa bàn thành phố là 302 đơn vị. Đẩy mạnh hoạt động của Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị; tổ chức thanh tra về khoa học và công nghệ tại 93 cơ sở sản xuất kinh doanh. Tổ chức cho các đơn vị, doanh nghiệp của thành phố tham gia hội chợ công nghệ Việt Nam ASEAN + 3, giải thưởng Chất lượng quốc gia năm 2009.
Bảo hiểm xã hội: ước thu bảo hiểm xã hội đạt 1.163 tỷ đồng, bằng 105% kế hoạch năm, tăng 29,12% so với cùng kỳ. Chi các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho trên 2 triệu lượt người với tổng số tiền 2.624 tỷ đồng, tăng 16% so với cùng kỳ (trong đó chi lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng cho hơn 118.000 người/tháng, chi giám định thanh toán khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cho 1.396.970 lượt bệnh nhân với số tiền 357.762 triệu đồng); cấp mới 40.000 sổ bảo hiểm xã hội và 1.239.000 thẻ bảo hiểm y tế. Xét duyệt 95.760 hồ sơ chế độ bảo hiểm xã hội các loại đảm bảo đúng chế độ, chính sách. Tổ chức tập huấn Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm y tế. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân cấp một số nội dung công việc cho Bảo hiểm xã hội quận, huyện, giảm khoảng cách đi lại cho các đối tượng phục vụ, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình.
Công tác thông tin và truyền thông: Hoàn thành 02 Đề án Quy hoạch phát triển bưu chính, viễn thông và Đề án Quy hoạch ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2020; hoàn thành việc xây dựng dự án Hội nghị truyền hình thành phố Hải Phòng phục vụ Hội nghị giao ban trực tuyến giữa Ủy ban nhân dân thành phố với các quận, huyện. Nghiệm thu hệ thống Cổng thông tin điện tử thành phần của các sở, ngành, quận, huyện; triển khai dự án mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng và Nhà nước trên địa bàn thành phố. Triển khai kế hoạch kiểm tra các đại lý, điểm truy nhập Internet công cộng; kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong hoạt động phát thanh, truyền hình, hoạt động in ấn xuất bản phẩm, thông tin và truyền thông trên địa bàn thành phố.
IV. Về công tác nội chính:
Công tác cải cách hành chính:Triển khai thực hiện Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ về rà soát, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, thành phố đã ban hành Quyết định công bố Bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền cấp huyện (gồm 286 thủ tục), Bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền cấp xã (gồm 204 thủ tục) và 19 Bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của 19 sở, ngành thành phố (gồm 1.150 thủ tục). Đến ngày 25/11/2009, Ủy ban nhân dân thành phố đã tiếp nhận, xử lý 14.833 văn bản (trong đó có 4.771 văn bản của Trung ương và Chính phủ); ban hành 11.081 văn bản, tăng 6,34% so với cả năm 2008 (10.420 văn bản). Triển khai giai đoạn II Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ về rà soát, đơn giản hóa các thủ tục hành chính. Tiếp tục triển khai mô hình “một cửa” liên thông, hiện đại tại 7 quận, huyện. Kiểm tra và dự thảo báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về cải cách hành chính. Triển khai đề tài nghiên cứu khoa học về “Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn”. Triển khai các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức có đổi mới về nội dung, phương pháp. Thực hiện tinh giản biên chế và tuyển dụng công chức năm 2009. Tiếp tục triển khai một số nội dung bước tiếp theo về thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp huyện, quận, phường. Đến nay đã có 92 cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thực hiện áp dụng tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2000 vào quản lý; tăng 55 đơn vị so với năm 2008. Đang trình Bộ Nội vụ, Chính phủ xin xác định địa giới hành chính một số điểm với các tỉnh Hải Dương và Quảng Ninh.
Hoạt động thi đua khen thưởng: Tổ chức Hội nghị hưởng ứng phát động thi đua hướng về kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Trình Chủ tịch nước tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất cho 1 tập thể; Huân chương độc lập hạng Ba cho 2 cá nhân; Huân chương Lao động hạng Nhất cho 06 tập thể; 178 Kỷ niệm chương cho các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt, tù đày; truy tặng Danh hiệu vinh dự nhà nước cho 19 “bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Biểu dương tôn vinh 10 Danh hiệu Nữ tướng Lê Chân, 10 Doanh nghiệp, 10 Giám đốc Doanh nghiệp tiêu biểu và 10 Gương mặt tiêu biểu nhất năm 2008. Công tác tôn giáo: Tổ chức khóa bồi dưỡng Hoằng pháp cho tăng, ni các tỉnh, thành hội Phật giáo phía Bắc; tổ chức khóa Hạ an cư cho các vị tăng, ni sinh. Tạo điều kiện thuận lợi cho Thành hội Phật giáo hướng dẫn các Ban đại diện Phật giáo tại quận, huyện, các chùa tổ chức lễ Vu Lan (Phật lịch 2553); một số giáo xứ, họ giáo Công giáo tổ chức thánh lễ ra mắt Ban hành giáo vụ nhiệm kỳ 2009-2013 theo đúng quy định. Tổ chức lễ ra mắt Ban Đại diện Phật giáo quận Đồ Sơn, quận Dương Kinh và huyện Cát Hải. Các hoạt động của Công giáo, Hội thánh Tin lành và Hội thánh Cao đài Tây Ninh trên địa bàn thành phố diễn ra ổn định.
Công tác tư pháp: đã thẩm định 59 văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành, tăng 7 văn bản so với năm 2008. Tổ chức 3 đợt kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật năm 2009 gồm 56 văn bản cấp thành phố và kiểm tra theo thẩm quyền 17 văn bản của các quận, huyện, đã ra Quyết định xử lý 3 văn bản vi phạm quy phạm pháp luật. Ban hành Quyết định số 1627/QĐ-UBND ngày 20/8/2009 về việc phân định thẩm quyền công chứng, chứng thực các hợp đồng giao dịch trên địa bàn thành phố. Tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 03/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị số 30-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Công tác thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý có chuyển biến tích cực.
Công tác thanh tra: triển khai 106 cuộc thanh tra, 143 cuộc kiểm tra, phát hiện sai phạm về kinh tế là 43,79 tỷ đồng; xử lý thu hồi về ngân sách nhà nước 3,749 tỷ đồng; tăng giá trị nguồn vốn nhà nước tại doanh nghiệp là 2,584 tỷ đồng; phát hiện 52.600 m2 đất sử dụng không đúng mục đích; thu hồi 666 m2 đất do cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai thẩm quyền, đưa vào quản lý 18.165 m2 đất sử dụng sai mục đích, yêu cầu các doanh nghiệp nợ tiền thuê đất nộp tiền vào ngân sách nhà nước 1,2 tỷ đồng. Khôi phục quyền lợi cho 730 lao động được tham gia bảo hiểm xã hội. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần làm giảm đáng kể các vụ việc phát sinh vượt cấp. Số đơn thư và số lượt công dân đến tăng so với năm 2008, đã tiếp 3.622 lượt người, tăng 16,6%; tiếp nhận và xử lý 1.561 đơn thư các loại. Một số lĩnh vực còn phát sinh nhiều đơn thư kiến nghị, khiếu nại như: thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, áp giá tính toán đền bù, bồi thường, giao - cấp đất tái định cư; chính sách xã hội bảo hiểm, lao động, chất độc da cam; một số đơn tố cáo ở các lĩnh vực quản lý như: quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý thu - chi tài chính, quản lý đất đai. Số vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của các cấp, các ngành Thành phố giảm so với năm 2008 (-6,2%); đã giải quyết 168/183 vụ việc, đạt: 91,7%. Tuy nhiên, còn một số đơn vị thực hiện chưa đầy đủ các quy định trong việc tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, gây bức xúc cho người.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí: tổ chức 28 lớp tập huấn quán triệt chủ trương, chính sách, pháp luật có nội dung về phòng chống tham nhũng cho 2.305 lượt người, trợ giúp pháp lý cho 462 trường hợp. Công khai minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được thực hiện khá nghiêm túc gắn với công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung các định mức tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật, chi tiêu nội bộ, các quy định thực hiện tiết kiệm trong quản lý và trong sản xuất; đã có 770 đơn vị sự nghiệp thực hiện khoán chi phí hành chính trong đó có 498 đơn vị xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ, hàng năm đã tiết kiệm được từ 10 - 15% chi phí, tăng thu nhập cho người lao động từ 7 - 10% ngoài lương cơ bản. Qua công tác thẩm định, các đơn vị hành chính, sự nghiệp thành phố tiết kiệm chi 2.285 triệu đồng.
An ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội: an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; an ninh biên giới cảng, biển được đảm bảo; đảm bảo an toàn tuyệt đối các sự kiện văn hóa, xã hội quan trọng của thành phố; tình hình khiếu kiện vượt cấp giảm, nhiều điểm khiếu kiện phức tạp đã được tập trung giải quyết ổn định, không để phát sinh, hình thành “điểm nóng”. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc phát triển cả bề rộng và chiều sâu, góp phần gữi vững an ninh chính trị. Phạm pháp hình sự được kiềm chế; đã triệt phá được nhiều đường dây ma túy lớn và nhiều điểm phức tạp về ma túy. Phát hiện và xử lý 182 vụ tội phạm kinh tế với 260 đối tượng; bắt giữ, xử lý 426 vụ tội phạm về ma tuý. Xảy ra 857vụ phạm pháp hình sự, giảm 2,7% so với năm 2008. Tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí: số vụ, số người chết và bị thương; trong năm 2009 xảy ra 123 vụ tai nạn giảm 24 vụ, giảm 12 người chết và 31 người bị thương so với năm 2008.
Công tác quân sự địa phương: duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình, xử lý tốt các tình huống bảo đảm an toàn địa bàn. Huấn luyện bộ đội thường trực đạt giỏi, dân quân tự vệ đạt khá; hoàn thành chỉ tiêu tuyển chọn và tổ chức Lễ giao, nhận quân đợt I và đợt II năm 2009 đạt kết quả cao. Tổ chức Hội nghị giao ban đóng quân canh phòng quý I và hiệp đồng phòng chống thiên tai - tìm kiếm cứu nạn năm 2009 đạt kết quả tốt. Tổ chức diễn tập phòng chống lụt bão - tìm kiếm cứu nạn tại các quận, huyện; diễn tập chiến đấu trị an xã, phường, thị trấn năm 2009 bảo đảm an toàn. Sơ kết 2 năm thực hiện đề án góp phần giúp đỡ hội viên Hội Cựu chiến binh ổn định cuộc sống, xây dựng quê hương Thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội và phong trào đền ơn đáp nghĩa; Duy trì nghiêm chế độ kiểm tra, quản lý kho trạm, bảo đảm tuyệt đối an toàn phương tiện kỹ thuật, đồng bộ vũ khí trang bị kỹ thuật cho sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, diễn tập, hội thi, hội thao và các nhiệm vụ đột xuất khác.
Công tác đối ngoại: Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài được quan tâm chỉ đạo; công tác đối ngoại nhân dân tiếp tục được tăng cường, công tác xây dựng, củng cố hoạt động các hội hữu nghị được chú trọng; quản lý nhà nước về đối ngoại được đẩy mạnh. Đón tiếp 150 đoàn khách quốc tế. Mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác, các địa phương như: Quảng Đông, Thiên Tân (Trung Quốc), Kitakyushu (Nhật Bản), Queensland (Australia)… Tổ chức nhiều đoàn công tác xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch tại: Australia, New Zealand, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ca-ta, Cô-oét). Ký văn bản hợp tác 3 bên về đầu tư xây dựng 2 cảng tại cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện với tổng mức đầu tư 250 triệu USD và xây dựng khu dịch vụ hậu cần cảng hiện đại, diện tích 400 ha với tổng mức đầu tư 250 triệu USD. Tổ chức tốt các hoạt động tham gia Lễ hội và Hội chợ toàn cầu năm 2009 tại Incheon, Hàn Quốc. Hiện nay trên địa bàn thành phố có trên 20 doanh nghiệp, dự án liên doanh có sự tham gia của bà con Việt kiều, với tổng số vốn 45,5 triệu USD và gần 100 tỷ đồng Việt Nam; lượng kiều hối ước đạt 150 triệu USD, tăng 5% so với năm 2008. Tổ chức Hội nghị gặp gỡ các nhà tài trợ phi Chính phủ nước ngoài và đã ký cam kết tài trợ với tổng trị giá gần 2,2 triệu USD; đến nay trên địa bàn có 103 dự án và phi dự án viện trợ phi chính phủ nước ngoài với tổng giá trị thực hiện ước đạt 4 triệu USD, bằng 85% kế hoạch.
V. Đánh giá chung:
1. Ước thực hiện các chỉ tiêu kinh tế – xã hội chủ yếu năm 2009 như sau:
1. Tổng sản phẩm trong nước đạt 21.657,3 tỷ đồng, tăng 7,57% so với năm 2008 đạt kế hoạch (kế hoạch tăng 7,5 – 8%), trong đó nhóm ngành nông lâm thuỷ sản tăng 4,57% vượt kế hoạch (kế hoạch tăng 3,7 – 4,0%), nhóm ngành công nghiệp - xây dựng tăng 6,15% không đạt kế hoạch (kế hoạch tăng 7,0 – 7,3%), nhóm ngành dịch vụ tăng 9,29% đạt kế hoạch (kế hoạch tăng 8,6 – 9,3%).
2. Giá trị sản xuất công nghiệp 38.480,4 tỷ đồng, tăng 7,7% không đạt kế hoạch (kế hoạch 39.316 tỷ đồng, tăng 10,0 – 11,0%).
3. Giá trị sản xuất nông nghiệp 2.709,4 tỷ đồng, tăng 4,7% vượt kế hoạch (kế hoạch 2.704,1 tỷ đồng, tăng 4,0 - 4,2%); Giá trị sản xuất ngành thuỷ sản đạt 945,9 tỷ đồng, tăng 8,1% đạt kế hoạch (kế hoạch 931 tỷ đồng, tăng 8,0 – 9,0%).
4. Thu ngân sách nội địa 4.500 tỷ đồng, tăng 15,7% đạt kế hoạch (kế hoạch tăng 15,0 – 16,0%).
5. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 27.410 tỷ đồng, tăng 10,5% vượt kế hoạch (kế hoạch 24.919 tỷ đồng, tăng 8,0 – 9,0%).
6. Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn 1.687 triệu USD tăng 11,7% đạt kế hoạch (kế hoạch 1.670 triệu USD, tăng 11,0 – 12,0%).
7. Sản lượng hàng hoá thông qua các cảng trên địa bàn 32,5 triệu tấn, tăng 13,7% vượt kế hoạch (kế hoạch 32 triệu tấn, tăng 10,0 – 11,0%); trong đó Cảng Hải Phòng 14,6 triệu tấn, tăng 4,5%.
8. Số khách du lịch đến thành phố 4.001,9 nghìn lượt, tăng 6,2% đạt kế hoạch (kế hoạch 4 triệu lượt khách, tăng 2,6%).
9. Giải quyết việc làm cho 45.500 lượt lao động, tăng 0,8% vượt kế hoạch (kế hoạch tăng 0,7%).
10. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,82% vượt kế hoạch (kế hoạch 5,3%).
11. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,95% đạt kế hoạch (kế hoạch <1,0%).
12. Tỷ lệ nhân dân nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh 86% đạt kế hoạch (kế hoạch 86%).
Đánh giá chung
Năm 2009 là năm thứ tư thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Đại hội XIII Đảng bộ thành phố, kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, thời tiết, dịch bệnh diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng xấu tới hoạt động sản xuất kinh doanh, song với sự quyết tâm, nỗ lực cao của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân thành phố, thực hiện được mục tiêu lớn là góp phần cùng cả nước ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế hợp lý, đảm bảo an sinh xã hội; tình hình kinh tế - xã hội thành phố vẫn duy trì được sự ổn định và phát triển, kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng ở hầu hết các ngành và lĩnh vực; an sinh xã hội được tập trung quan tâm, đời sống nhân dân từng bước được ổn định, những kết quả tích cực trên tạo đà thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 đã đề ra.
2. Một số kết quả nổi bật:
Một là, về tăng trưởng và phát triển kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP đạt kế hoạch đề ra, cao gần gấp 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP chung của cả nước. Hầu hết các ngành, lĩnh vực đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra như: thương mại, viễn thông, nông nghiệp, thủy sản, sản lượng hàng hóa qua cảng, thực hiện vốn đầu tư phát triển, thu ngân sách nhất là thu Hải quan, tín dụng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng.
Hai là, một số công trình, dự án trọng điểm có ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng đã hoàn thành đưa vào sử dụng như: công trình cảng biển PTSC Đình Vũ, nhà máy phân bón DAP, nhà máy nước Kiến An, Trung tâm Hội nghị thành phố, Nhà thi đấu đa năng khu liên hợp thể thao, thử nghiệm phát điện thành công tổ máy số 1 Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng 1 hòa vào mạng lưới điện quốc gia; khởi công xây dựng một số dự án lớn như: Nhà máy xơ sợi tổng hợp Polyeste Đình Vũ, Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Hải Phòng, trường trung học phổ thông chuyên Trần Phú, công trình Nút giao thông Quán Mau... Tiến độ các dự án, công trình trọng điểm có chuyển biến tích cực; công tác giải phóng mặt bằng được quan tâm chỉ đạo. Môi trường đầu tư kinh doanh có chuyển biến tích cực, công tác xúc tiến đầu tư, thương mại và đối ngoại được tăng cường. Thành phố tập trung thực hiện kiên quyết và đồng bộ các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết 30/2008/NQ-CP của Chính phủ đã đạt hiệu quả cao. Công tác quản lý quy hoạch được chính quyền các cấp quan tâm. Hạn chế được tình trạng úng, lụt khi trời mưa to, triều cường; hiện tượng ô nhiễm tại hệ thống hồ điều hòa, kênh mương dẫn nước hở giảm nhiều so với những năm trước; công tác vệ sinh môi trường có chuyển biến tích cực, không còn tình trạng tồn đọng rác thải trên các tuyến phố chính.
Ba là, tập trung cải cách hành chính: Công tác cải cách hành chính tiếp tục được nâng cao chất lượng và mở rộng về nội dung, số lượng cơ quan, đơn vị tham gia. Thực hiện Đề án 30 đã công bố bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền, tập trung chỉ đạo giai đoạn 2 với mục tiêu giảm 30% thủ tục, góp phần chấn chỉnh kỷ cương. Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí trên địa bàn thành phố có nhiều chuyển biến và tiếp tục được triển khai khá đồng bộ; xử lý kịp thời các sai phạm phát hiện qua công tác thanh tra. Công tác cải cách hành chính đang dần đi vào thực chất, đang dần tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức, công dân đến giao dịch; từng bước tạo sự chuyển biến về việc chấp hành kỳ luật, kỷ cương hành chính, thực hiện quy tắc ứng xử, giảm bớt tệ phiền hà, sách nhiễu trong cán bộ, công chức.
Bốn là, an sinh xã hội có nhiều mặt tiến bộ, nhiều chính sách hỗ trợ an sinh xã hội của Chính phủ và thành phố đã được triển khai kịp thời có hiệu quả. Tích cực triển khai các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của thành phố và đất nước tạo được không khí phấn khởi, tin tưởng và tự hào về truyền thống “uống nước nhớ nguồn”; thực hiện tốt Chương trình xoá đói giảm nghèo, xây dựng quỹ Bảo trợ trẻ em thành phố, Quỹ vì người nghèo đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân nhiệt tình ủng hộ. Tập trung cao trong công tác phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm. Công tác phòng chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường, quản lý quy hoạch, đô thị, quản lý đất đai được quan tâm chỉ đạo, có chuyển biến tích cực.
Năm là, quốc phòng - an ninh được đảm bảo; an ninh biên giới cảng biển được giữ vững; chủ động phòng ngừa đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và trấn áp các loại tội phạm;giải quyết kịp thời, kiên quyết một số vụ việc vi phạm gây nhiều bức xúc trong xã hội. Tai nạn giao thông từng bước được kiềm chế và giảm trên cả 3 tiêu chí: số vụ tai nạn, số người chết và người bị thương.
Đạt được những thành tích trên là do sự cố gắng vượt bậc của toàn Đảng bộ, quân và dân thành phố, sự điều hành kịp thời, có hiệu quả của Ủy ban nhân dân thành phố trong điều kiện khó khăn bất thường hơn những năm trước, đặc biệt là do khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
*Những tồn tại hạn chế:
- GDP tăng trưởng thấp nhất so với 10 năm trở lại đây. Cơ cấu kinh tế bộc lộ một số bất cập, phát triển thiếu bền vững, tăng trưởng còn dựa nhiều vào xuất khẩu và sự gia tăng năng lực sản xuất của các dự án mới; ô nhiễm môi trường gia tăng chưa được khắc phục. Một số ngành kinh tế của thành phố đã hồi phục nhưng còn chậm như giá trị sản xuất công nghiệp tăng không đạt kế hoạch (+7,7% so với kế hoạch + 10-11%), làm tốc độ tăng trưởng GDP công nghiệp - xây dựng tăng trưởng không đạt kế hoạch (+6,15% so với kế hoạch +7-7,3%). Thu hút khách du lịch chưa tương xứng với tiềm năng, khách du lịch quốc tế giảm (-5,8%). Vận tải hàng hóa, mặc dù khối lượng hàng hóa vận chuyển tăng 2,3%, luân chuyển tăng 10,6% so với cùng kỳ nhưng doanh thu giảm 29,4%, làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng GDP dịch vụ và tăng GDP chung của thành phố. Các khoản thu từ doanh nghiệp đạt thấp (thu từ doanh nghiệp nhà nước Trung ương chỉ đạt 86% kế hoạch, doanh nghiệp nhà nước địa phương đạt 93,9% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng 90,5% kế hoạch giao).
- Tiến độ triển khai một số dự án, công trình trọng điểm đã được tập trung chỉ đạo nhưng chưa đạt tiến độ đề ra. Thu hút vốn FDI gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính, chỉ đạt 60% kế hoạch (ước đạt 120 triệu USD). Năng lực cạnh tranh, tiềm lực vốn của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn còn thấp (nhất là các doanh nghiệp địa phương). Môi trường đầu tư chưa thực sự thông thoáng, thiếu lao động có tay nghề kỹ thuật cao cho các doanh nghiệp.
- Cải cách hành thủ tục chính có tiến bộ song nhận thức về công tác cải cách hành chính của một số cấp, ngành, đơn vị còn hạn chế, ảnh hưởng tới kết quả chung. Sự chủ động của cơ sở, sự phối kết hợp giữa các ngành, những phát sinh trong giải phóng mặt bằng còn hạn chế. Một bộ phận nhân dân còn chưa nhận thức đúng chủ trương phát triển của thành phố, còn gây khó khăn cho công tác đền bù, giải phóng mặt bằng. Phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm chống lãng phí được tập trung chỉ đạo nhưng hiệu quả còn hạn chế.
- Do thực hiện đồng bộ các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội nên việc cân đối ngân sách giải quyết các nhu cầu chế độ mới phát sinh gặp nhiều khó khăn. Việc rà soát, xây dựng đề án các khoản thu phí của một số ngành còn chậm. Đời sống của một bộ phận người lao động, nhất là những người làm công ăn lương và các đối tượng bảo trợ xã hội đang nghỉ chờ việc còn gặp nhiều khó khăn.
- Tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn diễn biến phức tạp nhất là khiếu kiện liên quan đến công tác đền bù giải phóng mặt bằng, chính sách đất đai, nhà ở, một số vụ việc kéo dài. Việc tổ chức thi hành kết luận về khiếu nại tố cáo của cơ quan có thẩm quyền, một số quyết định còn chậm. Các tệ nạn xã hội, nhất là tội phạm hình sự, cướp giật còn gây bức xúc trong nhân dân. Tai nạn giao thông giảm song cục bộ tại một số địa phương vẫn còn gia tăng.
- Tâm trạng một bộ phận nhân dân còn băn khoăn về biến động tăng giá xăng dầu, khí đốt, giá vàng, ngoại tệ, đời sống khó khăn; tệ nạn xã hội, vệ sinh môi trường, quản lý đô thị và ô nhiễm môi trường.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
Nguyên nhân khách quan: tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, thiếu việc làm cho người lao động, dịch bệnh luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát trở lại. Một số dự án công nghiệp lớn không đi vào hoạt động đúng kế hoạch ảnh hưởng đến gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp như: DAP, Nhiệt điện Hải Phòng, Thép Việt Ý và một số dự án ngành đóng tàu, giày dép, dệt may. Hải Phòng là 1 trong 10 tỉnh, thành phố được chọn thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp quận, huyện và phường tác động tới tâm lý của bộ máy lãnh đạo các địa phương.
Nguyên nhân chủ quan: năng lực tham mưu, quản lý của một số sở, ngành yếu, còn đùn đẩy trách nhiệm. Thực hiện chương trình xã hội hoá các lĩnh vực giáo dục, văn hoá chậm. Việc rà soát, kiểm tra, đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội ở một số sở, ngành, địa phương chưa kiên quyết, thiếu chủ động, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên, còn đùn đẩy, né tránh trước việc khó, một số vụ việc còn để tồn đọng kéo dài chậm được giải quyết dứt điểm.
Sự chỉ đạo, điều hành trên một số lĩnh vực còn chưa tạo được những chuyển biến mạnh, rõ nét như công tác đền bù giải phóng mặt bằng, tình trạng quá tải ở các bệnh viện, chất lượng khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế, ô nhiễm môi trường, quản lý sử dụng tài nguyên khoáng sản. Công tác kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các văn bản chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố và nhiệm vụ được phân công chưa nghiêm túc, kết quả đạt thấp. Trách nhiệm người đứng đầu và cán bộ công chức một số sở ngành, địa phương chưa cao. Tình trạng phiền hà, nhũng nhiễu, chậm trễ thực hiện nhiệm vụ thành phố giao ở một số sở, ngành, địa phương chậm được khắc phục.
3. Công tác chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân thành phố:
Ngay từ đầu năm, Ủy ban nhân dân thành phố đã sớm ban hành Quyết định 27/QĐ-UBND xác định rõ những nhiệm vụ quan trọng, cơ bản nhất cần thực hiện và quan tâm chỉ đạo để hoàn thành tốt những nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2009.
Tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra trong Chương trình công tác năm 2009. Tổ chức triển khai sớm có hiệu quả Nghị quyết 01/2009/NQ-CP ngày 09/01/2009 của Chính phủ về các giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2009. Kịp thời điều chỉnh một số chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội trong 6 tháng cuối năm và bổ khuyết các giải pháp chỉ đạo điều hành linh hoạt hơn nhằm thích ứng với biến động của kinh tế cả nước và kinh tế thế giới.
Ban hành Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 07/1/2009 của Uỷ ban nhân dân thành phố mục tiêu tập trung chỉ đạo thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của Chính phủ, được Đoàn kiểm tra Chính phủ đánh giá cao.
Tập trung bố trí vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ thuộc kế hoạch năm 2009 cho các công trình, dụ án có hiệu quả, có khả năng hoàn thành trong năm 2009 – 2010; bám sát các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách của Chính phủ, phản ứng nhanh, linh hoạt với diễn biến phức tạp của nền kinh tế, khơi thông các nguồn vốn, giảm các thủ tục hành chính phiền hà, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu; triển khai các biện pháp kích cầu đầu tư, hỗ trợ lãi suất cho vay để các doanh nghiệp ổn định, mở rộng sản xuất kinh doanh. Tranh thủ tối đa các nguồn hỗ trợ của Chính phủ, các gói kích cầu kinh tế, trong năm 2009 đã được bổ sung thêm từ ngân sách Trung ương gần 1.200 tỷ đồng cho nhu cầu đầu tư và đảm báo an sinh xã hội của thành phố. Tổ chức nhiều cuộc hội thảo nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp, thực hiện việc giảm, giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng, nhà ở khu vực nông thôn theo Quyết định số 497/QĐ-TTg; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử tại Cục Hải quan Hải Phòng.
Trực tiếp kiểm tra và giải quyết khó khăn vướng mắc tại các doanh nghiệp lớn như: các doanh nghiệp đóng tàu, thép, may mặc, công ty Xi măng Hải Phòng,… về chống suy giảm kinh tế và thu ngân sách năm 2009; làm việc với các quận, huyện về kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và dự toán thu chi ngân sách năm 2009, phương hướng, nhiệm vụ thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và dự toán thu chi ngân sách năm 2010; kiểm tra đôn đốc thu tiền đất từ các dự án phát triển nhà trên địa bàn thành phố, đẩy mạnh chỉ đạo việc đấu giá quyền sử dụng đất đấu thầu chọn chủ đầu tư các dự án có sử dụng đất nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách thành phố.
Chỉ đạo thực hiện tốt các mục tiêu an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách hỗ trợ đối với nông nghiệp nông thôn và nông dân. Tăng đầu tư ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường.
Tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ 15 dự án, công trình trọng điểm đã được thành phố đề ra trong Chương trình công tác năm 2009, đồng thời kiểm tra, chỉ đạo tháo gỡ khó khăn về mặt bằng, cơ chế vốn cho một số dự án, công trình điểm của các quận, huyện. Công tác giải phóng mặt bằng được đôn đốc quyết liệt, tiến độ bồi thường giải phóng mặt bằng của nhiều công trình dự án được thực hiện nhanh gọn hơn, góp phần quan trọng vào quá trình cải thiện môi trường đầu tư.
Quan tâm thực hiện công tác quy hoạch kinh tế - xã hội, triển khai đồng bộ công tác xây dựng các quy hoạch mới và rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch đã được phê duyệt làm cơ sở để xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm. Tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện đúng tiến độ, có sáng tạo việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường; chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện cải cách hành chính, tổ chức công bố Bộ thủ tục hành chính và tích cực triển khai giai đoạn 2 của Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ đúng thời hạn, yêu cầu.
Các đồng chí Lãnh đạo và các Uỷ viên Uỷ ban nhân dân thành phố luôn thực hiện đúng quy chế phối hợp, nêu cao tình thần trách nhiệm, chủ động phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố, Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố và các tổ chức, đoàn thể; luôn coi trọng và tiếp thu các ý kiến đóng góp tham gia về các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của các cơ quan, giải trình và xử lý kịp thời những ý kiến kiến nghị, chất vấn của cử tri tại các kỳ họp HĐND. Phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố chuẩn bị tốt các kỳ họp, chất lượng chuẩn bị các báo cáo, đề án phục vụ cho kỳ họp từng bước được nâng cao, đảm bảo đúng tiến độ, thời gian quy định.
Duy trì thực hiện tốt các phiên họp giao ban thường kỳ hàng tuần, hàng tháng, tổ chức họp giao ban trực tuyến với các quận huyện vừa tiết kiệm về kinh phí, thời gian, vừa nâng cao chất lượng của các phiên họp đồng thời góp phần xử lý nhanh, có hiệu quả các kiến nghị của địa phương. Chuẩn bị tốt nội dung, tham gia đầy đủ các phiên họp giao ban trực tuyến của Chính phủ và có những kiến nghị kịp thời với Chính phủ và các Bộ, ngành để giải quyết những khó khăn vướng mắc cho địa phương.
Nhìn chung, công tác chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban nhân dân thành phố đang tiếp tục được đổi mới, thể hiện quyết tâm cao, tập trung, sâu sát, quyết liệt, đồng bộ trên các mặt công tác và đã đạt được nhiều kết quả, ngăn chặn thành công đà suy giảm kinh tế, duy trì ổn định phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 tạo lòng tin cho nhân dân thành phố.
Những hạn chế, tồn tại:
Cùng với những kết quả tích cực đã nêu, công tác chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban nhân dân thành phố còn một số hạn chế như:
- Thời gian giải quyết công việc, kết quả xử lý ở một số vụ việc chưa đáp ứng yêu cầu.
- Công tác kiểm tra, đôn đốc thực hiện các thông báo, ý kiến kết luận của Ủy ban nhân dân dân thành phố, của một số cấp, ngành chưa kịp thời. Tình trạng nhiều hội họp, văn bản hành chính còn chậm được khắc phục.
- Công tác chỉ đạo điều hành có lúc, có nơi còn chưa thực sự quyết liệt, liên tục. Công tác điều hành ở một số ngành còn chậm, né tránh công việc. Quy chế làm việc thiếu rõ ràng, chưa gắn với trách nhiệm cá nhân, thủ trưởng.
Phần thứ hai
NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2010
Năm 2010 là năm cuối cùng thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố khoá XIII, năm quyết định cho việc hoàn thành kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 tạo tiền đề vững chắc cho phát triển nhanh và bền vững trong kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015.
Thuận lợi: kinh tế Mỹ đã có dấu hiệu phục hồi, kéo theo khả năng kinh tế thế giới sẽ bắt đầu phục hồi trong năm 2010. Trong nước, Chính phủ quyết tâm giải tỏa các điểm nghẽn của nền kinh tế, tiếp tục các biện pháp kích cầu, sử dụng 56.000 tỷ đ trái phiếu Chính phủ năm 2010 sẽ giúp nền kinh tế dần lấy lại đà phục hồi, hoạt động xuất nhập khẩu, sản xuất công nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài sẽ tăng lên, và dự kiến GDP sẽ tăng khoảng 6,5%.
Đối với thành phố, sản xuất của một số ngành công nghiệp như: sản xuất phương tiện vận tải, dệt may, giầy dép sẽ bớt gặp khó khăn hơn do sự phục hồi kinh tế của những thị trường xuất khẩu chính. Một số dự án sản xuất công nghiệp lớn được dự kiến đi vào sản xuất sản phẩm (Nhà máy nhiệt điện, Nhà máy DAP, Nhà máy sản xuất phôi thép Việt -Ý…) sẽ góp phần tạo sức tăng trưởng cho ngành công nghiệp.
Khó khăn: Tình hình kinh tế thế giới năm 2010 được dự báo còn nhiều khó khăn, diễn biến khó lường. Cơ cấu kinh tế cả nước cũng như cơ cấu kinh tế thành phố bộc lộ nhiều bất cập, thiếu tính bền vững, hiệu quả thấp, nguy cơ ô nhiễm môi trường.
Định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 được xây dựng nhằm thực hiện Quyết định số 271/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ Thành phố và Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố, trên cơ sở Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, khung hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách năm 2010.
1. Mục tiêu:
Tập trung đẩy nhanh sự phục hồi kinh tế thành phố, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo phát triển bền vững, chủ động phòng ngừa lạm phát; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tập trung phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng theo Quy hoạch xây dựng thành phố cảng, công nghiệp, hiện đại, văn minh. Quan tâm công tác giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin, khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng công tác đào tạo nguồn nhân lực, giải quyết tốt các vấn đề xã hội đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững của thành phố. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính theo mục tiêu của Chính phủ. Bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
2. Dự kiến một số chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu năm 2010:
1. Tốc độ tăng trưởng GDP từ 10,0% trở lên so với năm 2009, trong đó: Nhóm ngành nông, lâm, thủy sản tăng 4,2 – 4,5%; Nhóm ngành công nghiệp, xây dựng tăng 10,0 – 10,5%; Nhóm ngành dịch vụ tăng 11,1 – 11,5%.
Cơ cấu GDP:
- GDP Nông, lâm, ngư nghiệp: 10%
- GDP Công nghiệp – Xây dựng: 37%
- GDP Dịch vụ: 53%
2. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,0 – 14,0%;
3. Giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp tăng 5,0 – 5,5%. Trong đó: giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 4,5 – 4,7%; giá trị sản xuất thủy sản tăng 7,0 – 8,0%;
4. Tổng mức hàng hóa bán lẻ tăng 23,0%;
5. Kim ngạch xuất khẩu 1.940 triệu USD tăng 15,0%; Kim ngạch nhập khẩu tăng 15,8%;
6. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển huy động khoảng 30.000 tỷ đồng, tăng trên 9,0%;
7. Sản lượng hàng hoá thông qua cảng từ 35 - 36 triệu tấn, tăng 10,8%; trong đó cảng chính Hải Phòng đạt 15 - 16 triệu tấn;
8. Thu ngân sách địa phương (thu nội địa) trên 5.163 tỷ đồng, tăng trên 14,7%;
9. Thu hút trên 4,2 triệu lượt khách du lịch, tăng trên 5,0% so với năm 2009, trong đó khách quốc tế 900 nghìn lượt khách;
10. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ổn định ở mức dưới 1%, mức giảm tỷ lệ sinh bình quân trong năm 0,2‰;
11. Giải quyết việc làm cho khoảng 4,7 vạn lượt người lao động, tăng 4,5% so với năm 2009; Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 65%. Số lao động được giải quyết việc làm mới từ Quỹ cho vay giải quyết việc làm: 9.000 người.
12. Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2010 giảm còn 3,86%;
13.Tỷ lệ nhân dân nông thôn được cấp nước sạch đạt 91 - 92%%;
14. Tỷ lệ chất thải đô thị được thu gom và quản lý hợp vệ sinh trên 90%;
3. Nhiệm vụ và giải pháp thực hiện:
3.1. Phát triển công nghiệp:
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp và cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào. Đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đưa vào sản xuất một số dự án sản xuất công nghiệp lớn như: Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng I và II, Nhà máy phôi thép Việt Ý, Nhà máy phân bón DAP, Nhà máy xơ sợi tổng hợp Polyeste… tạo giá trị tăng trưởng năm 2010.
- Nghiên cứu cơ cấu lại nền kinh tế, làm cơ sở điều chỉnh cơ cấu đầu tư, ưu tiên các dự án công nghệ cao, đóng góp nhiều cho ngân sách, bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên. Đa dạng hóa sản phẩm, xây dựng và phát triển các sản phẩm chủ lực, ưu tiên, mũi nhọn phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế quốc tế. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp, hướng vào các ngành có lợi thế cạnh tranh. Chú trọng áp dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nguyên vật liệu, công nghệ thông tin... Phát triển công nghiệp điện tử, sản xuất thiết bị công nghệ thông tin, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
- Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chú trọng chế biến, sản xuất xuất khẩu, sản xuất thay thế nhập khẩu. Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ.
- Tiếp tục sắp xếp đổi mới doanh nghiệp, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đẩy mạnh công tác khuyến công. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn cho các dự án đầu tư mới, đầu tư chiều sâu. Hỗ trợ đào tạo các doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý, khuyến khích áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng, quản lý môi trường tiên tiến, tiêu chuẩn hàng hóa, xây dựng thương hiệu... Triển khai đề án đào tạo Giám đốc doanh nghiệp thích ứng với Hội nhập kinh tế quốc tế. Tổ chức rà soát, di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường ra khỏi khu vực đô thị.
3.2. Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn:
- Tiếp tục triển khai các nội dung cụ thể để thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết số 10/2007/NQ - HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, thủy sản. Tập trung áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến nâng cao năng suất, chất lượng lúa và cây trồng; khuyến khích hình thành các vùng sản xuất tập trung, sản xuất sạch mang tính bền vững. Thực hiện tốt Nghị quyết số 12/2009/NQ – HĐND ngày 23/7/2009 của Hội đồng nhân dân thành phố về cải tạo, nâng cấp trạm bơm điện phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố. Phát triển sản xuất rau, hoa và cây ăn quả đang có lợi thế, ứng dụng các kỹ thuật sơ chế, bảo quản, bao bì, đóng gói để giảm thất thoát sản lượng và nâng chất lượng. Hỗ trợ xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm nông nghiệp, các hình thức liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường.
- Phát triển khai thác hải sản xa bờ; phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững, với nhiều hình thức nuôi, phát triển mạnh nuôi biển. Tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, đặc biệt là trong hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng, phòng trừ sâu bệnh. Quan tâm đầu tư thuỷ lợi, giao thông nông thôn, đẩy nhanh việc nâng cấp đê biển.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển mạnh các ngành nghề nông thôn, tăng cường đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, chuyển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động về nông thôn. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ các vùng nông thôn còn nhiều khó khăn để xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa, cải thiện đời sống nhân dân nông thôn. Tăng cường bảo vệ môi trường nông thôn.
3.3. Phát triển các ngành dịch vụ:
- Tập trung thu hút và tạo điều kiện thuận lợi phát triển các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, vận tải hàng hóa, vận chuyển hành khách, vận chuyển đa phương thức logistic, du lịch, khách sạn, nhà hàng, phân phối hàng hóa, dịch vụ tư vấn, thiết kế, khoa học công nghệ… Khuyến khích phát triển các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu các ngành dịch vụ theo hướng tập trung vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện chiếm tỷ trọng thấp, phát triển thị trường dịch vụ có tiềm năng nhưng chưa được khai thác, chú trọng thị trường nội địa.
- Phát triển thương mại đảm bảo lưu thông hàng hóa thuận lợi, cung ứng kịp thời hàng hóa đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống, không để giá cả tăng đột biến. Tăng cường công tác giám sát, quản lý trong lưu thông, phân phối, kiểm tra chất lượng hàng hóa. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng thương mại, hệ thống phân phối hàng hóa, hệ thống bán lẻ hiện đại.
- Tập trung triển khai thực hiện Đề án phát triển kinh tế biển thành phố Hải Phòng đến năm 2015 định hướng đến năm 2020. Nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm khai thác các lợi thế về dịch vụ hàng hải, phát triển và khai thác cảng biển, du lịch biển...
- Tiếp tục phát triển hạ tầng du lịch, xây dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng, các khách sạn, nhà hàng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch và đa dạng hóa sản phẩm du lịch, nâng cao chất lượng du lịch lữ hành.
- Phát triển hạ tầng viễn thông gắn với hiện đại hóa đáp ứng yêu cầu phát triển, quan tâm đào tạo nguồn nhân lực cho ngành bưu chính, viễn thông. Đa dạng hóa dịch vụ và chính sách chăm sóc khách hàng; nâng cao chất lượng phục vụ kết hợp với giảm chi phí, hạ giá thành.
3.4. Phát triển và quản lý đô thị, bảo vệ môi trường:
- Tập trung triển khai Quyết định số 1448/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 bằng các Đề án, Dự án cụ thể. Tổ chức công bố công khai các quy hoạch và cắm mốc các quy hoạch được duyệt để quản lý. Khẩn trương rà soát, xây dựng quy chế quản lý quy hoạch, quản lý đô thị, kiểm tra, xử lý vi phạm.
- Tập trung đầu tư, hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật một số khu đô thị, xây dựng nhanh một số dự án khu đô thị trọng điểm; các dự án quản lý và xử lý chất thải rắn Hải Phòng, Dự án nâng cấp đô thị, Dự án Thoát nước mưa, thoát nước thải và quản lý chất thải rắn Hải Phòng giai đoạn I…, quan tâm đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng xã hội; thực hiện các giải pháp quản lý và phát triển đô thị, nhất là trật tự đô thị, khắc phục tình trạng yếu kém trong quản lý trật tự, an toàn giao thông và văn minh đô thị; tuyên truyển, giáo dục nếp sống và văn minh đô thị. Quan tâm công tác cải tạo, chỉnh trang nâng cấp đô thị cũ; phát triển mạnh quỹ nhà chung cư, nhà ở xã hội cho công nhân, sinh viên và người có thu nhập thấp.
- Quản lý và sử dụng tài nguyên khoáng sản theo quy hoạch được phê duyệt, đảm bảo nguồn lực khoáng sản được sử dụng hợp lý, tiệt kiệm, có hiệu quả. Tích cực phòng ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm và cải thiện chất lượng môi trường, đặc biệt khu vực phục vụ việc xây dựng các công trình, dự án; giải quyết một bước cơ bản tình trạng suy thoái môi trường ở các khu công nghiệp, các khu đông dân cư; xử lý ô nhiễm môi trường trên các hồ ao, kênh mương.
- Lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững trong công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, trong các chương trình, dự án đầu tư. Triển khai thực hiện tốt Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững. Chủ động có các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
3.5. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ:
- Triển khai thực hiện tốt Chiến lược phát triển khoa học công nghệ đến năm 2010, tầm nhìn 2020 và chương trình nghiên cứu khoa học phục vụ triển khai Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố. Tập trung đưa ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm; tăng số doanh nghiệp áp dụng ISO, số sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
- Tập trung đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu và giảm ô nhiễm, thay thế dần các công nghệ lạc hậu, đổi mới phương thức quản lý tiên tiến... hướng vào các ngành đóng tàu, kinh tế biển.
- Nâng cao vị trí của cơ quan tư vấn về khoa học công nghệ, hiệu quả hoạt động sàn giao dịch công nghệ. Phát triển dịch vụ khoa học công nghệ trong các lĩnh vực tiêu chuẩn chất lượng, sở hữu trí tuệ, tư vấn và chuyển giao công nghệ.
3.6. Nhiệm vụ về văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh:
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hoá, nhất là trong lĩnh vực báo chí, xuất bản. Bảo tồn và phát triển các giá trị di sản văn hoá, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc, các loại hình nghệ thuật truyền thống, các loại hình nghệ thuật dân gian gắn với phát triển du lịch. Tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương và ngân sách địa phương kết hợp với xã hội hoá, tiến hành tôn tạo, phục dựng các di tích lịch sử - văn hoá lớn, ưu tiên các di tích cách mạng - kháng chiến.
- Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo toàn diện; tập trung phát triển giáo dục mầm non. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục và công tác quản lý giáo dục. Duy trì kết quả Chương trình phổ cập bậc trung học và nghề một cách vững chắc; xây dựng trường chuẩn quốc gia. Chú trọng đào tạo nghề kỹ thuật cao.
- Phát triển và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tăng cường huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển sự nghiệp y tế, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân; nâng cao y đức, chất lượng khám chữa bệnh, giảm tải có hiệu quả tại các bệnh viện lớn. Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; tăng cường các biện pháp để phòng ngừa, kiểm soát dịch bệnh, phòng, chống nghiện ma túy, nhiễm HIV, v.v… Nâng cấp cơ sở vật chất, tăng cường và bổ sung thiết bị hiện đại cho các bệnh viện; nâng cấp và hoàn thiện các trạm y tế tuyến xã, các trung tâm y tế dự phòng. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án bệnh viện tuyến huyện sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
- Thực hiện tốt chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản, phấn đấu đạt chỉ tiêu giảm sinh 0,2%o và ngăn ngừa mất cân bằng giới tính.
- Tăng cường công tác giải quyết việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị và nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của lao động, quản lý lao động là người nước ngoài. Chú ý công tác đào tạo nghề, đặc biệt cho lao động nông thôn gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn.
- Nâng tỷ lệ phụ nữ được đào tạo nghề. Triển khai có hiệu quả các giải pháp về nâng cao vai trò của phụ nữ trong quản lý nhà nước, thực hiện Luật bình đẳng giới. Nâng cao nhận thức về trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của gia đình và cộng đồng.
- Quan tâm công tác thể dục - thể thao. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu liên hợp thể thao, chuyên nghiệp hóa đội bóng đá của thành phố. Chuẩn bị tốt lực lượng vận động viên tham gia thi đấu thành tích cao ở trong và ngoài nước. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào toàn dân rèn luyện thân thể; đảm bảo chương trình giáo dục thể chất.
- Thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm sóc người có công với nước, thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, về vệ sinh môi trường, chương trình nước sạch để cải thiện đời sống nhân dân.
- Thực hiện Nghị quyết số 25 của Thành ủy về xây dựng tiềm lực quốc phòng - an ninh kết hợp phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 – 2020; tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ chính trị tiếp tục xây dựng thành phố Hải Phòng thành khu vực phòng thủ vũng chắc trong tình hình mới. Thực hiện tốt Nghị Quyết 04 của Bộ Chính trị về chiến lược an ninh biển. Nâng cao khả năng, trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lưỡng vũ trang thành phố; tiếp tục xây dựng lực lượng bộ đội thường trực theo hướng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Chủ động phòng ngừa, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ; tập trung giải quyết những vụ việc nổi cộm, khiếu kiện kéo dài, chuẩn bị các điều kiện cần thiết tổ chức tốt kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm 2010.
3.7. Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế:
- Tập trung thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới. Phát triển, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hoạt động kinh tế đối ngoại. Thúc đẩy quan hệ hợp tác với các đối tác chủ chốt có nhiều tiềm năng đầu tư, thương mại, du lịch như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ…
- Đổi mới và đẩy mạnh thông tin đối ngoại, quảng bá rộng rãi tiềm năng, thế mạnh của thành phố ra nước ngoài. Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp khi xảy ra tranh chấp thương mại. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại.
3.8. Các giải pháp về huy động và quản lý vốn đầu tư:
- Bằng các giải pháp đồng bộ huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư và phát triển. Khuyến khích thu hút các nguồn vốn đầu tư, các loại hình xã hội hóa, các lĩnh vực ngân sách Nhà nước không đủ điều kiện đầu tư.
- Đề nghị Trung ương tăng cường đầu tư đối với các dự án, chương trình, thực hiện Quyết định số 54/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; chủ động phối hợp thực hiện tốt Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW và triển khai Quyết định số 1567/QĐ-TTgngày 31 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủvề việc ban hành Kế hoạch triển khai tiếp Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng giai đoạn 2008 – 2015.
- Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính theo hướng công khai, minh bạch. Chú trọng thu hút các nhà đầu tư có năng lực tài chính, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tham gia đầu tư phát triển thành phố. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu, cụm công nghiệp, tạo mặt bằng sạch cho các nhà đầu tư.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư cho lĩnh vực giáo dục theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 đã ban hành; đẩy mạnh và khuyến khích các nhà đầu tư xây dựng các trường tư thục. Thực hiện việc xã hội hóa trong đầu tư xây dựng và phát triển văn hóa. Đầu tư vốn để bảo tồn các công trình văn hóa, các di tích cách mạng, di tích lịch sử.
- Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài FDI và ODA, đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn đã cam kết; có định hướng thu hút đầu tư vào các vùng, các lĩnh vực ưu tiên một cách hợp lý.
- Huy động tối đa các nguồn nội lực, trong đó chú trọng nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
- Huy động các nguồn lực để đầu tư khắc phục tình trạng ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái. Tập trung đầu tư để xử lý chất thải rắn, chất thải nước ở các đô thị, trung tâm công nghiệp, trung tâm dịch vụ, các bệnh viện.
3.9. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng:
- Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt Đề án 30 về cải cách thủ tục hành chính Giai đoạn II, cắt giảm 30% thủ tục theo mục tiêu Chính phủ đề ra, hoàn thành thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-TU của Ban Thường vụ Thành uỷ về đẩy mạnh cải cách hành chính giai đoạn 2006-2010, thường xuyên, kiên quyết và đồng bộ, có trọng tâm từ cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công và hiện đại hoá nền hành chính nhà nước.
- Thực hiện cơ chế "một cửa" theo hướng độc lập, chuyên trách, “một cửa” liên thông, hiện đại. Triển khai “một cửa” liên thông hiện đại trong giải quyết thủ tục hành chính đối với dự án vốn đầu tư ngoài ngân sách. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức công chức; thực hiện tốt Quy chế công vụ và Luật cán bộ, công chức. Nâng cao trách nhiệm, tăng cường công tác phối hợp liên ngành tạo thuận lợi nhất cho các tổ chức, công dân tới giao dịch. Tập trung thực hiện áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001-2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan Nhà nước.
- Tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng; khắc phục và đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lãng phí trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, các cán bộ, công chức, viên chức trong công tác phòng, chống tham nhũng nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính ở các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập. Tăng cường công tác thanh tra, tập trung điều tra xử lý các vụ việc tiêu cực, tham nhũng; thực hiện nghiêm các chế độ về sử dụng xe công, điện thoại, chi tiêu hội nghị, tiết kiệm điện, xăng dầu...
Nhiệm vụ đặt ra cho năm 2010 là dồn sức hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, chuẩn bị nhiệm vụ 5 năm 2011-2015, thực hiện tiếp một bước quan trọng trong triển khai thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị. Do đó phải có sự cố gắng nỗ lực vượt bậc, có bước đổi mới cơ bản và toàn diện về quản lý điều hành, đảm bảo phấn đấu hoàn thành thắng lợi toàn diện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra./.