Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 27/10/2014-16:27:00 PM
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện của các ngành thương mại - dịch vụ tháng 10 và 10 tháng năm 2014
Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 24 tháng 10 năm 2014
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Tình hình thế giới
Trong tháng 10, thế giới có thêm các sự kiện có khả năng gây ảnh hưởng lớn tới an ninh chính trị và kinh tế toàn cầu: Mỹ đã phát động tấn công quân sự tổ chức khủng bố IS và chiến sự hiện vẫn đang tiếp diễn; Lo ngại sự trả đũa của tổ chức khủng bố này cùng sự lây lan của dịch bệnh Ebola đang có những tác động tiêu cực tới ngành du lịch; Biểu tình liên quan đến chế độ bầu cử tại Hồng Kông đã và đang gây ra nhiều tổn thất về kinh tế, xã hội cho Hồng Kông, khu vực và thế giới; Các chính sách trừng phạt và đáp trả về kinh tế giữa Nga, Mỹ và liên minh Châu Âu (EU) vẫn chưa được nới lỏng, tiếp tục kìm hãm phát triển kinh tế của các nước nói trên cũng như của toàn thế giới. Tuy nhiên trong bối cảnh đó, nhiều nước trong đó có Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu khi Nga, Mỹ và EU tìm kiếm các thị trường hàng hóa thay thế.
2. Tình hình trong nước
Kinh tế xã hội trong tháng 10 tiếp tục giữ được sự ổn định. Với dịp lễ kỉ niệm 60 năm Giải phóng Thủ đô và Ngày phụ nữ Việt Nam 20-10, nhu cầu về hàng hóa và các dịch vụ vui chơi giải trí tăng cao trong cả nước. Tuy nhiên, giá hàng hóa dịch vụ chỉ có mức tăng vừa phải nhờ sự giảm giá của hàng hóa thế giới, đặc biệt là mặt hàng nhiên liệu như xăng dầu. Ngày 23/10, giá bán xăng dầu trong nước tiếp tục điều chỉnh giảm. Như vậy, đây là lần thứ 8 liên tiếp giá xăng dầu đồng loạt giảm sâu, lập kỷ lục trong nhiều năm qua về số lần giảm và mức giảm giá.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 10 NĂM 2014
1. Tình hình phát triển ngành du lịch
Trong 10 tháng năm 2014, dịch bệnh Ebola diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia trên thế giới. Trước tình hình đó, Bộ VHTTDL đã ra công văn số 3691/BVHTTDL-TCDL ngày 16/10/2014 gửi các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh/thành, Hiệp hội Du lịch Việt Nam và các địa phương, các doanh nghiệp du lịch trong toàn quốc về việc tăng cường phòng chống dịch bệnh do virut Ebola trong ngành Du lịch. Tình hình tai nạn giao thông nghiêm trọng có chiều hướng gia tăng đã gây tác động không nhỏ đến ngành du lịch.
Để thúc đẩy tăng trưởng khách du lịch nội địa, khích lệ người dân đi tham quan du lịch tới các vùng miền trong nước, qua đó nâng cao tình yêu quê hương đất nước và góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, ngày 17/10/2014, Bộ VHTTDL đã ra Quyết định số 3423/QĐ-BVHTTDL về việc ban hành Chương trình kích cầu du lịch nội địa với chủ đề “Người Việt Nam du lịch Việt Nam – Mỗi chuyến đi thêm yêu Tổ quốc”.
Trong tháng 10, nhiều cuộc hội chợ triển lãm và hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch được triển khai rộng khắp ở các thành phố lớn trong cả nước như Triển lãm Cuộc thi Ảnh Di sản Việt Nam - Vietnam Heritage Photo Awards 2014, Trung tâm Hoàng thành Thăng Long và UNESCO Việt Nam đã tổ chức trưng bày ảnh “Khám phá di sản thế giới”, Ngày hội Văn hoá Hoà bình nhân dịp kỷ niệm 60 năm Ngày giải phóng Thủ đô (10/10/1954-10/10/2014) và 15 năm Hà Nội được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là “Thành phố vì hoà bình”, v..v.
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 10 ước đạt 559 nghìn lượt khách, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm ngoái, giảm 3,3% so với tháng trước. Số lượng khách du lịch quốc tế trong 10 tháng khoảng 6,6 triệu lượt khách, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 10 tháng chủ yếu từ một số thị trường như: Hồng Kông tăng 77,6%, Hàn Quốc tăng 11%, Campuchia tăng 21,8%, Lào tăng 16,8%, Đức tăng 62,8%, Bỉ tăng 10,6%, Nga tăng 22,5%, Tây Ban Nha tăng 23,9%, v..v.
Xét về mục đích chuyến đi du lịch, trong 10 tháng khách du lịch đi theo mục đích nghỉ ngơi tăng 6,5%, đi theo mục đích công việc tăng 8,3%, đi theo mục đích thăm thân nhân tăng 11,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Xét về phương tiện khách đến, khách đi du lịch bằng đường không vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, trong 10 tháng tăng 7,9%, khách đi du lịch bằng đường bộ trong 10 tháng tăng đáng kể 21,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
a. Xuất khẩu
Tháng 10 năm 2014, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 13,2 tỷ USD, tăng 4,5% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 8,4 tỷ USD, tăng 2,9%.
10 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu ước đạt 123,1 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2013; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 76,2 tỷ USD, tăng 14,3% và chiếm 61,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 82,5 tỷ USD, tăng 13,6%. Xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 40,6 tỷ USD, tăng 12,9%.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 10 tháng năm 2014 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt gần 7,5 triệu tấn, tăng 8,4% về lượng và tăng 5,4% về kim ngạch; than đá ước đạt 6,2 triệu tấn, giảm 38,3% về lượng và giảm 36,2% về kim ngạch; điện thoại các loại và linh kiện đạt 19,2 tỷ USD, tăng 6,9%; dệt may đạt 17,6 tỷ USD, tăng 19,3%; da giày đạt 8,2 tỷ USD, tăng 23,1%; gỗ và sản phẩm gỗ 5 tỷ USD, tăng 13,3%; hàng điện tử và linh kiện điện tử đạt 8,7 tỷ USD, tương đương cùng kỳ; thuỷ sản 6,5 tỷ USD, tăng 20,6%; gạo 5,6 triệu tấn, giảm 3,9% về lượng và giảm 0,1% về kim ngạch; cà phê 1,5 triệu tấn, tăng 37,4% về lượng và tăng 33,9% về kim ngạch; cao su 848 ngàn tấn, giảm 1,8% về lượng và giảm 25,4% về kim ngạch.
Về thị trường xuất khẩu 10 tháng năm 2014, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 20% và chiếm tỷ trọng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 12,8% và chiếm tỷ trọng 18,4%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 0,5% và chiếm tỷ trọng 12,6%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 10,9% và chiếm tỷ trọng 10%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 16,2% và chiếm tỷ trọng 10,1%.
b. Nhập khẩu
Tháng 10 năm 2014, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 13,6 tỷ USD, tăng 2,9% so với tháng trước; trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 8 tỷ USD, tăng 1,2%.
10 tháng đầu năm 2014, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước ước đạt 121,2 tỷ USD, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 68,7 tỷ USD, tăng 10,7% và chiếm 56,6% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhập khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 52,5 tỷ USD, tăng 12%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 10 tháng đầu năm 2014 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 7,4 triệu tấn, tăng 20,9% về lượng và tăng 19,4% về kim ngạch; sắt thép 9,4 triệu tấn, tăng 17,5% về lượng và tăng 10,5% về kim ngạch; phân bón 3,3 triệu tấn, giảm 14,1% về lượng và giảm 24,2% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt 18,3 tỷ USD, tăng 20,4%; máy tính và linh kiện 15 tỷ USD, giảm 0,1%; vải đạt 7,7 tỷ USD, tăng 13,4%; nguyên phụ liệu dệt may 3,9 tỷ USD, tăng 24,8%.
10 tháng đầu năm 2014, nhập khẩu từ Châu Á chiếm 80,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 17,1%, tỷ trọng ước đạt 29,4%), ASEAN (tăng 6,6%, tỷ trọng 15,6%), Hàn Quốc (tăng 2,7%, chiếm tỷ trọng 14,6%), Nhật Bản (tăng 7,9%, chiếm tỷ trọng 8,5%) và EU (giảm 3,3%, chiếm tỷ trọng 6,2%).
c. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 10 tháng
10 tháng đầu năm, xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng trưởng khoảng 14% so với cùng kỳ; nhóm hàng nông sản, thủy sản tăng 14,7% và nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm 2%.
Kim ngạch xuất khẩu 10 tháng đầu năm 2014 của cả nước tăng thêm khoảng 14,5 tỷ USD so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng 9,5 tỷ USD (đóng góp khoảng 65,5% kim ngạch tăng thêm). Các mặt hàng có sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 99,6% tổng kim ngạch mặt hàng này của cả nước); máy vi tính linh kiện và điện tử (98,7%); giầy dép (76,7%); hàng dệt may (59,6%); máy ảnh (96,5%).
Xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đạt mức tăng trưởng khá (12,9%), cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng 3,2% của 10 tháng năm 2013. Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy sự phục hồi và phát triển sản xuất, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước.
Nhập khẩu của cả nước tăng 10,7 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu của khu vực FDI tăng 5,4 tỷ USD. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của khối doanh nghiệp FDI là điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 85,3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của cả nước); máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện (90,7%); vải các loại (61,1%); nguyên phụ liệu dệt may, da giầy (68,4%).
10 tháng đầu năm 2014, cả nước xuất siêu khoảng 1,87 tỷ USD, bằng 1,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu 7,5 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, khu vực FDI xuất siêu khoảng 13,82 tỷ USD. Nhập siêu của khu vực doanh nghiệp trong nước ước đạt 11,95 tỷ USD.
3. Phát triển thị trường trong nước
a) Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Ước tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 10 đạt khoảng 251.195 tỷ đồng, tăng khoảng 1.56% so với tháng trước; tính cả 10 tháng đầu năm ước tổng mức bán lẻ đạt khoảng 2.399.480 tỷ đồng, tăng khoảng 11,14% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, doanh thu từ Thương nghiệp bán lẻ tháng 10 có mức tăng 2,07% so với tháng 9; dịch vụ Lưu trú, Ăn uống tăng 0,48%; dịch vụ Du lịch giảm 2,84%, các Dịch vụ khác giảm 0,31%.
Như vậy, mức tăng bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 10 tháng đầu năm nay không có đột biến, vẫn duy trì ở mức tăng trưởng thấp. Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng nhẹ là do tình hình kinh tế vẫn còn khó khăn, mặt bằng thu nhập chung cũng bị ảnh hưởng nên người tiêu dùng có xu hướng chi tiêu tiết kiệm hơn. Người tiêu dùng vẫn tập trung mua những mặt hàng thiết yếu phục vụ cho gia đình, trong khi hàng thời trang hoặc những mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu khác thì mức bán rất chậm.
(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê)
b) Chỉ số giá tiêu dùng
Ước CPI tháng 10 tăng khoảng 0,11% so với tháng 9/2014. Ước 10 tháng đầu năm 2014 CPI cả nước tăng 2,36% so với tháng 12/2013. Giá các mặt hàng trong giỏ hàng hóa tháng 10 đều có mức tăng thấp so với tháng trước là nguyên nhân khiến CPI tháng 10 duy trì ở mức thấp, cụ thể: nhóm hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 0,05%, trong đó, mặt hàng lương thực tăng 0.20%, thực phẩm tăng 0.01%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,07%; nhóm hàng may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0.19%; nhóm hàng thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,22%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,53%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,02%. Bên cạnh các mặt hàng có chỉ số tăng, một số nhóm hàng có chỉ số giảm như nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0.08%, nhóm giao thông có mức giảm 1.02%(đây là nhóm có mức giảm mạnh nhất trong 11 nhóm hàng chính với mức giảm chủ yếu ở mặt hàng xăng dầu và dịch vụ giao thông công cộng).
(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê).
c) Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
(1) Xăng dầu
Giá xăng dầu trên thị trường thế giới thời gian qua liên tục giảm mạnh. Giá dầu Brent đã giảm xuống mức thấp nhất trong gần 4 năm qua khi trong 2 tuần đầu tháng 10, giá dầu giao tháng 11 trên sàn ICE Futures Europe giảm xuống 89,9 USD/thùng, thấp nhất kể từ 21/6/2012, giá dầu ngọt nhẹ giao tháng 11 trên sàn Nymex giảm xuống 85,77 USD/thùng, thấp nhất kể từ 10/12/2012 và sau đó tiếp tục giảm xuống 79,78 USD/thùng, thấp nhất trong vòng 4 năm qua. Tuy nhiên, sau đó, giá dầu ngọt nhẹ giao tháng 11 trên sàn Nymex New York đã tăng trở lại lên 82,7 USD/thùng.
Tại thị trường trong nước, từ đầu năm đến ngày 23/10, thị trường xăng dầu trong nước cũng đã có 20 lần điều chỉnh giá. Riêng giá xăng tăng 5 lần, giảm 8 lần, với tổng mức tăng là 1.430 đồng và mức giảm là 3.300 đồng (hiện xăng RON 95 có giá 22.940 đồng/lít và xăng RON 92 là 22.340 đồng/lít).
Lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 10 ước đạt 700 nghìn tấn, tương đương 606 triệu USD, tăng 53% so với tháng trước; lũy kế 10 tháng đầu năm 2014 đạt 7.421 nghìn tấn, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước. Lượng dầu thô xuất khẩu tháng 10 ước đạt 680 nghìn tấn, tương đương 470 triệu USD, tăng 10,6% so với tháng trước. Lũy kế 10 tháng đầu năm đã xuất 7.519 nghìn tấn, tăng 8,5% so với sản lượng cùng kỳ năm 2013.
(2) Sắt thép
Bước vào thời điểm thuận lợi cho xây dựng, lượng sản xuất và tiêu thụ thép tăng. Tuy nhiên, do giá nguyên nhiên vật liệu đang giảm nên giá các sản phẩm thép vẫn giữ ổn định.
Giá bán lẻ thép xây dựng 15 ngày đầu tháng 10/2014 cơ bản ổn định so với 15 ngày đầu tháng 9/2014, cụ thể: tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung dao động từ 15.400-16.000 đồng/kg; tại các tỉnh Miền Nam từ 15.300-15.900 đồng/kg.
(3) Xi măng
Bước vào mùa xây dựng nên sản lượng và tiêu thụ xi măng tăng. Giá xi măng do đó cũng có mức tăng nhẹ. Giá bán lẻ xi măng trên thị trường: tại miền Bắc và miền Trung hiện phổ biến từ 1.050.000-1.550.000 đồng/tấn; tại các tỉnh miền Nam phổ biến từ 1.460.000-1.850.000 đồng/tấn.
(4) Phân bón
Thị trường phân bón trong nước thời gian nửa cuối tháng 9, đầu tháng 10 có một số chuyển biến đáng chú ý tuy nhiên về tổng thể lượng hàng tiêu thụ chưa cao. Giá các loại phân bón nhìn chung vẫn ở mức ổn định, giá Kali tăng nhẹ do giá thế giới liên tục tăng trong thời gian gần đây nhưng do nhu cầu tiêu thụ thấp nên giá kali trong nước vẫn chưa thật sự sôi động. Ngày 25/9/2014, Bộ Tài chính có Quyết định điều chỉnh thuế suất ưu đãi thuế nhập khẩu Urea từ 3% lên 6%, hiệu lực thi hành từ 25/10/2014.
Giá phân urê tại miền Bắc, phổ biến khoảng 8.300-8.450 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg; tại miền Nam, phổ biến khoảng 8.000-8.430 đồng/kg, tăng 30 đồng/kg.
(5) Lương thực, thực phẩm
Thị trường thế giới: Tháng 10/2014, giá gạo thế giới tiếp tục ổn định so với tháng 9, Gạo trắng hạt dài cao cấp tại một số nước như sau: Thái Lan giá 435-445USD/tấn fob, Ấn Độ 415-425 USD/tấn fob, Việt Nam 430-440USD/tấn fob, Campuchia 465-475USD/tấn fob, Pakistan 420-430 USD/tấn fob, Mỹ 515-525USD/tấn fob.
Thị trường trong nước: Tháng 10/2014, giá lương thực, thực phẩm và các loại rau củ quả ổn định, cụ thể như sau: tại miền Bắc, giá thóc tẻ thường ở mức 6.200-6.500 đồng/kg, một số loại thóc chất lượng cao hơn giá phổ biến ở mức 7.500–8.500 đồng/kg, giá gạo tẻ thường dao động phổ biến ở mức 9.000-12.500 đồng/kg. Tại miền Nam, Giá lúa dao động ở mức 5.000-6.000 đồng/kg, ổn định so với tháng trước.
Giá thực phẩm tươi sống ổn định, thịt lợn hơi: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 44.000-47.000 đồng/kg, tăng 2.000 đồng/kg; Miền Nam giá phổ biến khoảng 47.000-53.000 đồng/kg, tăng 2.000-5.000 đồng/kg. Thịt bò thăn: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 250.000-260.000 đồng/kg; Miền Nam giá phổ biến khoảng 250.000-265.000 đồng/kg. Thịt gà ta và gà công nghiệp làm sẵn có kiểm dịch: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 115.000-120.000 đồng/kg; Miền Nam giá phổ biến khoảng 110.000-115.000 đồng/kg; gà công nghiệp làm sẵn ở mức 55.000-60.000 đồng/kg. Hải sản tươi sống (cá chép, tôm, mực ống…) ổn định. Cụ thể: Cá chép 70.000-80.000 đồng/kg; tôm sú 180.000-185.000 đồng/kg; cá quả 110.000-120.000 đồng/kg. Giá các loại rau, củ, quả ổn định: Bắp cải 8.000-10.000 đồng/kg; khoai tây 12.000-15.000 đồng/kg; cà chua 14.000-15.000 đồng/kg, đậu đỗ 8.000-10.000đồng/kg...
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2014
1. Về phát triển ngành du lịch
Tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn, an ninh cho khách du lịch, tăng cường công tác tuyên truyền trong nước, chống tư tưởng bài trừ khách du lịch, đặc biệt khách du lịch đến từ thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông v..v.
Tăng cường mạnh mẽ hoạt động tuyên truyền thông tại các thị trường quốc tế qua các kênh ngoại giao, đại sứ quán, công ty lữ hành, các tổ chức du lịch nhằm thông tin kịp thời, đầy đủ, giải thích về công tác đảm bảo an toàn, an ninh cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, giữ hình ảnh du lịch của Việt Nam.
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các địa phương, các Hiệp hội trong việc thúc đẩy nâng cao chất lượng giao thông vận tải, môi trường, văn hóa... đảm bảo an ninh, an toàn trên các tuyến đường vận chuyển khách du lịch.
Đề xuất kéo dài thời hạn visa du lịch tại Việt Nam đối với một số thị trường trọng điểm của Việt Nam như: Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản v..v.
Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép cấp giấp phép hướng dẫn viên du lịch đối với một số số thị trường khách du lịch không nói tiếng Anh như: Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản v..v.
2. Một số giải pháp điều hành xuất nhập khẩu năm 2014
Đối với mặt hàng nông sản, bên cạnh việc nâng cao khả năng dự trữ tạo điều kiện cho việc ứng phó và điều tiết trước những biến động về giá trên thị trường thế giới, cần chú trọng hơn nữa về chất lượng sản phẩm để tăng giá trị các nhóm hàng sản xuất truyền thống không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng cũng như nâng cao được khả năng cạnh tranh.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại với các hoạt động chủ yếu là: tổ chức các gian hội chợ, triển lãm chuyên ngành, hoạt động giao thương xúc tiến các ngành hàng xuất khẩu có tiềm năng như thực phẩm chế biến, thủy sản, nông sản nhằm củng cố, phát triển thị trường xuất khẩu truyền thống, tiềm năng như EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc v..v và khai thác thị trường xuất khẩu mới ở Tây Á; hỗ trợ công tác thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tìm kiếm cơ hội kinh doanh, ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông lâm thủy sản.
Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.
Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
3. Về phát triển thị trường trong nước
a) Giải pháp chung
(1) Các giải pháp phát triển thị trường và bảo đảm cung - cầu hàng hóa
Nắm bắt kịp thời các diễn biến của thị trường, dự báo đúng và sớm các tình huống có thể xảy ra để có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả.
Tăng cường các biện pháp kiểm tra, quản lý thị trường bảo đảm cân đối cung cầu, chống đầu cơ, buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, sắt thép v..v.
Tiếp tục khai thác tốt năng lực sản xuất và nhu cầu thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu ra các thị trường.
(2) Các giải pháp nhằm bình ổn, tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả
Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2014.
Tại các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cần tiếp tục mở rộng các chương trình khuyến mại, giảm giá đã phát huy hiệu quả trong thời gian qua nhằm kích thích tiêu dùng, tạo động lực cho các doanh nghiệp sản xuất và phân phối trong nước.
Quản lý chặt chẽ việc cung cấp thông tin, phát hiện và xử lý nghiêm khắc các trường hợp tung tin thất thiệt, gây hoang mang trong tâm lý nhân dân, tạo biến động giá xấu, ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Tính toán lộ trình điều chỉnh giá các hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá và là đầu vào của các ngành sản xuất (xăng dầu, điện, than, y tế, giáo dục...) đồng bộ với các chính sách liên quan để vừa đảm bảo theo tín hiệu thị trường vừa phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chấp hành pháp luật về giá (đăng ký giá, kê khai giá, công khai thông tin về giá) gắn với kiểm tra, thanh tra, chấp hành chấp hành về thuế, phí, lệ phí; ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm đặc biệt là việc điều chỉnh giá bất hợp lý các mặt hàng thiết yếu.
Tiếp tục triển khai các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn, về mở rộng thị trường, về thủ tục hành chính... để giúp các doanh nghiệp dự trữ hàng hóa, chuẩn bị đủ chân hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong các dịp lễ.
Tiếp tục đẩy mạnh triển khai cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thông qua khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước.
b) Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu
(1) Xăng dầu
Theo dõi sát sao thị trường dầu thế giới để kịp thời điều chỉnh giá xăng dầu bán lẻ trong nước hợp lý, vừa đảm bảo được quyền lợi của người tiêu dùng cũng như doanh nghiệp phân phối.
Bảo đảm nguồn dầu nguyên liệu, đáp ứng tối đa yêu cầu về công suất của nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về việc trích lập, sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu làm cơ sở cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu áp dụng trong từng thời điểm, đảm bảo tính ổn định, công khai, minh bạch.
(2) Sắt thép
Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước, khuyến khích các công ty ngoài quốc doanh bố trí thời gian sản xuất phù hợp để tiết kiệm chi phí sử dụng điện, xây dựng hệ thống phân phối hiệu quả, giảm các tầng nấc trung gian nhằm hạ giá thành sản phẩm.
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thép. Xây dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế thép rẻ kém chất lượng thâm nhập thị trường trong nước.
(3) Phân bón
Theo dõi chặt chẽ giá phân bón thế giới để có biện pháp điều tiết nhập khẩu và sản xuất phù hợp, không để xảy ra tình trạng thiếu phân bón gây sốt giá cục bộ, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt. Kiểm soát chặt các cửa khẩu, đặc biệt là tại phía Bắc nhằm giảm buôn lậu phân bón qua đường tiểu ngạch.
(4) Xi măng
Các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị nguồn hàng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu, tránh tăng giá đột biến.
(5) Lương thực, thực phẩm
Tăng cường công tác quản lý, điều hành, giám sát nhằm bình ổn giá cả thị trường, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống cung ứng đủ nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân./.

Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 2104
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)