I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Tình hình thế giới
Trong tháng 8/2010, các báo cáo chính thức về tình hình phát triển kinh tế của các nền kinh tế lớn trên thế giới trong nửa đầu năm 2010 đã được công bố, tạo ra một bức tranh chân thực hơn về sự phục hồi của kinh tế các nước này cũng như kinh tế thế giới: vẫn là sự tăng trưởng không đều và những xu hướng trái ngược tại các khu vực và giữa các cường quốc kinh tế.
Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 2,4% trong Quý 2/2010, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng 3,7% trong Quý 1 và mức 5% trong 3 tháng cuối năm 2009; quá trình phục hồi chậm chạp của kinh tế Mỹ đang cho thấy những dấu hiệu chững lại.
Tại châu Âu, Đức - nền kinh tế đầu tàu của khu vực sử dụng đồng Euro (Eurozone), tăng trưởng 2,2% trong Quý 2/2010 so với Quý 1, mạnh nhất kể từ 20 năm nay.
Tại châu Á, trong tháng 8/2010, Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ. GDP của Nhật Bản trong Quý 2 tăng 1.286 tỷ USD (với tỷ lệ tăng trưởng chỉ đạt 0,4%) ít hơn mức tăng GDP của Trung Quốc là 1.335 tỷ USD. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn chỉ được đánh giá là nước “đang phát triển” với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 3.800 USD, chỉ bằng một phần nhỏ so với Mỹ, Nhật Bản. Ngoài ra, kinh tế Trung Quốc đang có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại khi tốc độ tăng GDP Quý 2/2010 chỉ đạt 10,3%, thấp hơn so với mức 11,9% trong Quý 1.
Như vậy, có thể thấy, kinh tế thế giới đang trên đà phục hồi và phát triển, nhưng chưa vững chắc, sự phục hồi này dự báo sẽ còn gặp nhiều khó khăn khi các nền kinh tế lớn vẫn đang tăng trưởng ở mức thấp và phải đối mặt với nhiều nguy cơ trên thị trường tài chính.
2. Tình hình trong nước
Kinh tế nước ta trong 8 tháng đầu năm vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, kinh tế vĩ mô ổn định, đặc biệt, CPI của tháng 7 chỉ tăng 0,06% so với tháng 6, mức tăng thấp nhất từ đầu năm tới nay và cũng là mức thấp nhất so với cùng kỳ năm 2004 trở lại đây; CPI trong tháng 8 cũng tăng 0,23% so với tháng 7, đưa CPI cả 8 tháng đầu năm lên 5,07%; nguy cơ lạm phát cao về cơ bản được đẩy lùi.
Mặc dù vậy, ngoài những tác động từ khó khăn chung của kinh tế thế giới, trong những tháng cuối năm, kinh tế nước ta sẽ còn gặp những khó khăn nội tại như: tình hình dịch bệnh trên đồng ruộng và vật nuôi vẫn có nguy cơ lan rộng và gây thiệt hại cho ngành nông nghiệp (như bệnh lùn sọc đen, vàng lùn, xoắn lá trên lúa, dịch bệnh tai xanh ở lợn, dịch lở mồm long móng ở trâu; bò…). Sự thay đổi khí hậu dẫn tới các diễn biến thời tiết bất thường như lũ lụt, mưa to, bão lớn… cũng sẽ là nguy cơ đối với ngành nuôi trồng và chăn nuôi của nước ta nói riêng, cũng như gây cản trở cho các hoạt động kinh tế của nước ta gồm cả sản xuất công nghiệp và dịch vụ nói chung. Đó sẽ là những nguy cơ gây bất ổn trong quan hệ cung – cầu – giá cả trên thị trường. Do vậy đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành cần tích cực hơn trong công tác dự báo, phòng trừ và khắc phục thiệt hại của thiên tai, dịch bệnh… Bên cạnh đó, công tác điều hành thị trường cần quyết liệt hơn trong những tháng cuối năm (đặc biệt là khi bước vào những tháng chuẩn bị cho Tết Nguyên đán Tân Mão) nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và đạt được chỉ tiêu tăng trưởng trên 6,5% và kiềm chế lạm phát dưới 8% do Chính phủ đề ra.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 8 VÀ 8 THÁNG ĐẦU NĂM 2010
1. Tình hình phát triển ngành du lịch
Tháng 8 là tháng bắt đầu mùa mưa bão và kết thúc thời gian nghỉ hè nên du lịch trầm lắng hơn những tháng trước. Các khu du lịch biển ở phía Bắc lượng khách đã giảm hẳn, không còn tình trạng quá tải. Tuy nhiên, ở khu vực miền Trung lượng khách vẫn duy trì khá ổn định do sức hút của các điểm du lịch mới trong đó nổi bật là Đà Nẵng với nhiều sản phẩm du lịch đa dạng có chất lượng cao như leo núi, tắm biển, khám phá đại dương…
Để thúc đẩy phát triển du lịch, các địa phương trên cả nước có một số hoạt động xúc tiến như: tại Hà Nội, tối 8/8, Bộ Ngoại giao phối hợp các Đại sứ quán các nước ASEAN đã tổ chức “Ngày ẩm thực ASEAN mở rộng”; tại thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội nghị xúc tiến du lịch Trung Quốc có chủ đề “Năm hữu nghị Trung - Việt, chung tay vì phát triển du lịch”; tại Lào Cai đã diễn ra hội thảo để liên kết xây dựng thương hiệu và sản phẩm du lịch vùng giữa các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Hoà Bình, Sơn La, Điện Biên và Lai Châu. Tại Khánh Hoà, ngành du lịch đã có nhiều nỗ lực, phối hợp với các doanh nghiệp lữ hành, khách sạn, nhà hàng thực hiện những chương trình khuyến mại, giảm giá theo chương trình “Việt Nam - điểm đến của bạn”… Ngoài ra, các địa phương cũng nỗ lực thu hút khách du lịch bằng cách khai thác những tour du lịchmới như: Quảng Bình với tour du lịch văn hóa tâm linh - lịch sử kết hợp với du lịch sinh thái khám phá hệ thống hang động phong phú, kỳ vĩ của Động Thiên Đường – Hang Tám Cô. Tại Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh đã liên kết với nhau tạo các tour mới kết hợp giữa thăm quan di tích lịch sử, nghỉ dưỡng…
Bên cạnh đó sự kiện Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới cộng với Vịnh Hạ Long đang xếp thứ 2 về tỷ lệ phiếu quốc tế bầu chọn 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới sẽ là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch quốc tế trong thời gian tới.
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 8 ước đạt khoảng 420 nghìn lượt khách, tăng nhẹ so với tháng trước, và tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái, lượng khách du lịch quốc tế trong 8 tháng năm 2008 khoảng 3,3 triệu lượt khách, tăng 31% so với cùng kỳ năm ngoái.
Khách du lịch quốc đến Việt Nam trong tháng 8 chủ yếu từ một số thị trường như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Úc, Pháp, Campuchia, Úc… Một số thị trường khách du lịch giảm như: Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan...
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 8 bằng đường hàng không tăng 12% so với tháng trước, khách du lịch đi bằng đường bộ giảm nhẹ, khách du lịch đi bằng đường biển tăng 22%.
Xét theo mục đích chuyến đi, số lượng khách du lịch chủ yếu đi theo mục đích nghỉ ngơi, du lịch, tiếp đến là khách du lịch đi theo mục đích thăm thân nhân và cuối cùnglà khách đi theo mục đích công việc.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
2.1. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 8 năm 2010 đạt 6 tỷ USD, giảm 0,5% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 2,85 tỷ USD.
8 tháng đầu năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 44,5 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 20,7 tỷ USD, tăng 39,9%. Nếu không tính kim ngạch xuất khẩu vàng, tổng kim ngạch xuất khẩu 8 tháng đầu năm nay tăng 24,1% so với cùng kỳ.
Xét về giá trị tuyệt đối, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) 8 tháng đầu năm 2010 ước tăng 5,9 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2009; trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ước tăng 7,3 tỷ USD. Như vậy, có thể nói trong 8 tháng đầu năm 2010 tăng trưởng xuất khẩu của cả nước phần lớn là do sự tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI.
Xuất khẩu của một số mặt hàng chủ yếu 8 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt gần 5,5 triệu tấn, giảm 44,2% về lượng và giảm 20,5% về kim ngạch; than đá 13,2 triệu tấn, giảm 16,3% về lượng và tăng 29,1% về kim ngạch; dệt may 6,89 tỷ USD, tăng 17,8%; da giày 3,22 tỷ USD, tăng 18,8%; sản phẩm gỗ 2,11 tỷ USD, tăng 36,1%; linh kiện điện tử 2,18 tỷ USD, tăng 30,1%; thuỷ sản 2,92 tỷ USD, tăng 11,8%; gạo 5,01 triệu tấn, tăng 8,2% về lượng và 11,4% về kim ngạch; cà phê 835 ngàn tấn, giảm 1,9% về lượng và 5,2% về kim ngạch; sắn và sản phẩm sắn 1,29 triệu tấn giảm 53,5% về lượng và 20% về kim ngạch ... Đến hết tháng 8/2010, ước tính đã có 13 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD gồm dệt may, dầu thô, giày dép, thủy sản, gạo, gỗ và sản phẩm gỗ, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng, máy vi tính và linh kiện, đá quý kim loại quý và sản phẩm, cà phê, sắt thép và sản phẩm, than đá, cao su. Như vậy, so với cùng kỳ, số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD đã tăng lên 3 mặt hàng là sắt thép và sản phẩm, than đá, cao su.
Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu được cải thiện đã góp phần vào sự tăng trưởng xuất khẩu của 8 tháng đầu năm: giá hạt điều tăng 18,9%, chè các loại tăng 11,2%, hạt tiêu tăng 39,8%, gạo tăng 2,8%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 71,7%, than đá tăng 54,9%, dầu thô tăng 42,4%, cao su tăng 83,5%. Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 2,3 tỷ USD.
Trong 8 tháng đầu năm, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tập trung chủ yếu ở các thị trường Châu Á với tỷ trọng khoảng 48%, tăng trưởng 28% so với cùng kỳ, trong đó riêng khu vực ASEAN là 16,5%, tăng 15%. Xuất khẩu sang Châu Mỹ chiếm tỷ trọng khoảng 23%, tăng 24% so với cùng kỳ, trong khi xuất khẩu sang Châu Âu chiếm tỷ trọng ước đạt 22%, giảm 4,4%, trong đó xuất khẩu vào EU chiếm tỷ trọng 15% và tăng 7%.
2.2. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 8 năm 2010 ước đạt 6,9 tỷ USD, giảm nhẹ so với tháng trước. Nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 2,9 tỷ USD.
8 tháng đầu năm 2010, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 52,7 tỷ USD, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt gần 22,4 tỷ USD, tăng 43,6% và chiếm 42,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 8 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm 2009 như sau: xăng dầu 7,02 triệu tấn, giảm 20,15% về lượng và tăng 8,2% về kim ngạch; thép các loại 5,3 triệu tấn, giảm 12,6% về lượng và tăng 15,1% về kim ngạch; phân bón 1,95 triệu tấn, giảm 31,7% về lượng và giảm 31,5% về kim ngạch; giấy các loại 609 nghìn tấn, giảm 6,3% về lượng và tăng 19,4% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 1,5 triệu tấn, tăng 4,3% về lượng và tăng tới 38,1% về kim ngạch, máy móc thiết bị 8,55 tỷ USD, tăng 14,86%, máy tính và linh kiện 3,0 tỷ USD, tăng 31,5%, vải 3,42 tỷ USD, tăng 26,7%, nguyên phụ liệu dệt may 1,69 tỷ USD, tăng 38,8%...
Cũng như xuất khẩu, mặc dù lượng nhập khẩu giảm nhưng giá nhập khẩu bình quân của hầu hết các mặt hàng đều tăng và là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến mức tăng của kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu so với cùng kỳ năm trước như: giá xăng dầu các loại tăng 35,5%, khí đốt hóa lỏng tăng 38,5%, chất dẻo nguyên liệu tăng 32,4%, sợi các loại tăng 27,7%, phôi thép tăng 29,1%, kim loại thường tăng 32,3%... Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này khiến kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng hơn 3,8 tỷ USD.
Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu từ một số đối tác quan trọng trong 8 tháng đầu năm là: Trung Quốc 23,5%, ASEAN 20%, Hàn Quốc 10,8%, Đài Loan 8,5%, EU 7,5%, Mỹ 4,5%.
2.3. Nhập siêu
Ước nhập siêu tháng 8 là 900 triệu USD, chiếm 15% kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu 8 tháng đầu năm ước tính đạt 8,15 tỷ USD, bằng 18,3% kim ngạch xuất khẩu. Nếu không tính sự tăng trưởng đột biến trong kim ngạch xuất khẩu vàng, nhập siêu 8 tháng đầu năm là 9,7 tỷ USD, chiếm 22,5%.
Nhập siêu từ Trung Quốc vẫn tăng mạnh, hiện nay nhập siêu từ thị trường này bằng gần 80% tổng nhập siêu của cả nước. Trong 8 tháng đầu năm 2010, xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc có tốc độ tăng (khoảng 45%) cao hơn nhiều so với tốc độ tăng nhập khẩu từ thị trường này (khoảng 31%) nhưng xét về số tuyệt đối thì nhập khẩu tăng cao hơn xuất khẩu rất nhiều.
Xét về châu lục, Việt Nam vẫn chỉ nhập siêu với Châu Á và xuất siêu với tất cả các châu còn lại. Cụ thể, nhập siêu với Châu Á hiện nay là khoảng 20 tỷ USD, gấp hơn 2 lần nhập siêu của cả nước. Trong khi đó, xuất siêu với Châu Âu ước đạt 4 tỷ USD, với Châu Mỹ là 5,9 tỷ USD, Châu Đại Dương là gần 1,02 triệu USD.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Dự kiến tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 8/2010 ước đạt khoảng 131.039 tỷ đồng, tăng 0,66% so với tháng 7/2010. Như vậy sau 8 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hoá cả nước ước đạt 1.009.241 tỷ đồng, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm trước.
Tính cả 8 tháng đầu năm 2010, trong các thành phần kinh tế tham gia thị trường, thành phần kinh tế cá thể vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 51,4%, tiếp đó là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước với tỷ trọng tương ứng là 34,3% và 10,3%. Giá trị đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3%, trong khi khu vực kinh tế tập thể chiếm 1,1%.
(Theo số liệu của Tổng cục Thống kê)
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Theo Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2010 chỉ tăng 0,23% so với tháng 7/2010, đưa CPI 8 tháng đầu năm 2010 tăng 5,07% so với tháng 12/2009.
Trong tháng 8/2010, chỉ có một nhóm hàng giảm mạnh so với tháng trước đó là dịch vụ bưu chính viễn thông, giảm 4,55% so với tháng 7. Nhóm giáo dục có mức tăng mạnh nhất 1,29% do thời điểm khai giảng đã cận kề. Nhóm hàng nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng sau nhiều tháng tăng cao thì tháng 8 chỉ tăng nhẹ ở mức 0,07%, mức tăng thấp nhất trong giỏ hàng hóa tính CPI. Các nhóm hàng còn lại đều chỉ tăng nhẹ, dao động từ 0,1% đến 0,67%.
(Theo số liệu của Tổng cục Thống kê)
3.3. Tình hình cung – cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
Tiếp tục đà tăng từ những ngày cuối tháng 7, giá dầu thô thế giới tiếp tục đi lên và đạt đỉnh vào ngày 3/8, vượt mức 80 USD/thùng, mức cao nhất trong vòng 3 tháng qua. Nguyên nhân là do thị trường chứng khoán của Mỹ và Châu Âu đạt mức cao nhất trong vòng 3 tháng qua và đồng USD cũng giảm giá xuống mức thấp so với các đồng tiền khác. Tuy nhiên, sau đó giá dầu bắt đầu xu hướng giảm mạnh khi cùng lúc nhiều thông tin kinh tế bất lợi được công bố: Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) nhận định đà phục hồi kinh tế nước này có dấu hiệu chậm lại với tỉ lệ thất nghiệp cao; tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đang nguội dần và chứng khoán toàn cầu giảm sâu trong phiên ngày 11/8. Chốt phiên giao dịch ngày 20/8: trên sàn New York, giá dầu giao tháng 9 là 74,45 USD/thùng; tại London, giá dầu Brent giao tháng 10 ở mức 74,3 USD/thùng (mức thấp nhất trong vòng 6 tuần qua).
Thị trường trong nước:
Trước diễn biến giá xăng dầu thế giới từ cuối tháng 7 tới tháng 8 tăng cao, từ ngày 9/8, Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và một số doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối đã điều chỉnh tăng giá xăng dầu bán lẻ từ 190 đồng/lít đến 410 đồng/lít tùy theo từng chủng loại.
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục hải quan, lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 8 ước đạt 850 triệu tấn, với trị giá khoảng 533 triệu USD; tính cả 8 tháng đầu năm 2010, ước đạt 7.023 triệu tấn, trị giá khoảng 4.336 triệu USD, giảm 20,1% về lượng so với cùng kỳ năm ngoái và đạt xấp xỉ 61% kế hoạch năm 2010.
b) Sắt thép
Trong tháng 8, các loạt sắt thép trên thị trường thế giới đồng loạt tăng giá do sự tăng giá chung của kim loại. Giá thép cuộn tăng trung bình 40 USD/tấn, đạt trung bình 650 USD/tấn. Thép phế liệu tăng trung bình 25 USD/tấn, đạt khoảng 360 USD/tấn. Giá quặng sắt tăng nhẹ do các nhà máy thép Trung Quốc tăng sản lượng trở lại, đạt trung bình 140 USD/tấn. Giá phôi thép tiếp tục tăng: giá chào FOB phôi Biển Đen ở quanh mức 530 USD/tấn; giá phôi nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ lên tới 526,25 USD/tấn; trên thị trường London, giá phôi giao sau 3 tháng tại LME dao động quanh mức 500 USD/tấn.
Tại thị trường trong nước:
Theo đà tăng của thế giới, giá thép tại Việt Nam cũng tăng nhẹ: Giá thép cuộn xây dựng loại CT3 6mm, 8mm giá trung bình tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 13.900 – 14.200 đồng/kg. Thép cây xây dựng từ 13.900 – 14.000 đồng/kg. Thép cuộn cán nóng HRC âm tính tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có giá bán bình quân là 12.100 – 12.300 đồng/kg, tăng trung bình 150 đồng/tấn. Thép tấm bán lẻ vào khoảng 12.400 – 12.500 đồng/kg cho loại từ 6-12mm và từ 12.900 – 13.300 đồng/kg cho loại từ 3-5mm.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, sản lượng thép nhập khẩu thực hiện tháng 7/2010 đạt 617 nghìn tấn, ước tháng 8 đạt 600 nghìn tấn giảm 2,7% về lượng so với tháng 7/2010 và đạt trị giá 461 triệu USD; tính cả 8 tháng đầu năm ước đạt 5.328 nghìn tấn, giảm 12,6% về lượng so với cùng kỳ năm 2009.
c) Xi măng
Bước sang tháng 8, lượng xi măng sản xuất ước đạt khoảng trên 4 triệu tấn trong khi sản lượng tiêu thụ giảm mạnh, do đã bước vào mùa mưa nên nhiều nhà đầu tư không khởi công công trình mới mà tập trung hoàn thiện các dự án đang thi công. Do vậy, lượng xi măng tiêu thụ ước đạt trên 3,2 triệu tấn (giảm khoảng 0,52 triệu tấn so với tháng 7).
Về giá cả: ngày 12/8, nhiều nhà máy sản xuất xi măng đã đồng loạt giảm giá bán bình quân 10.000 đồng/tấn so với tháng 7 nhằm đẩy mạnh tiêu thụ. Trên thị trường, giá bản lẻ xi măng giảm từ 35.000 - 40.000 đồng/tấn so với tháng trước. Cụ thể: tại miền Bắc, giá xi măng dao động ở mức từ 920.000 – 1.000.000 đồng/tấn; trong khi tại miền Nam, giá ở mức cao hơn từ 1.060.000 - 1.340.000 đồng/tấn, giảm 140.000 đồng/tấn so với tháng trước.
Dự báo trong tháng 9, giá bán xi măng ổn định, do nhu cầu ổn định (có thể chỉ tăng nhẹ) và lượng cung xi măng dồi dào.
d) Phân bón
Trong tháng 8, thị trường phân bón thế giới tiếp tục diễn ra sôi động do có nhiều tín hiệu tích cực về nhu cầu của các nhà nhập khẩu phân bón. Giá các loại phân bón có xu hướng tăng, trong đó giá ure tăng khá mạnh so với tháng 7.
Giá ure trên thị trường quốc tế: (Đơn vị tính: USD/tấn)
Thị trường
|
15 ngày đầu tháng 7
|
15 ngày đầu tháng 8
|
15 ngày đầu tháng 8 so với 15 ngày đầu tháng 7
|
Yuzhny (FOB)
|
245 – 250
|
245 – 290
|
Tăng 40
|
Baltic (FOB)
|
235 – 245
|
240 – 280
|
Tăng 15 – 35
|
Trung Đông (FOB)
|
248 – 250
|
265 – 290
|
Tăng 17 – 40
|
Tại thị trường trong nước:
Thị trường phân bón trong nước thời gian nửa đầu tháng 8 vừa qua vẫn đang ở mức ổn định. Giá các loại phân bón không có biến động đáng kể. Lượng phân bón tiêu thụ trên thị trường cả nước giảm nhẹ; do đã bước vào giữa vụ Hè - Thu, nhiều tỉnh hầu hết diện tích lúa đã được chăm bón xong.
Giá bán lẻ một số loại phân bón tại các tỉnh trong nước ngày 19/8/2010 như sau: (đồng/kg)
|
Hà Nội
|
Đà Nẵng
|
TP Hồ Chí Minh
|
Cần Thơ
|
Phân Ure nhập khẩu
|
7.000
|
6.500
|
6.600
|
6.800
|
Supe lân
|
2.300
|
2.300
|
2.300
|
2.300
|
DAP Philippines
|
11.000
|
10.500
|
10.500
|
10.800
|
Dự báo trong Quý 3, giá phân bón có thể tăng do nhu cầu tiêu thụ và giá phân bón thế giới tăng.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 8, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 320 nghìn tấn với trị giá 116 triệu USD (trong đó phân ure là 95 nghìn tấn và trị giá 27 triệu USD), tăng 42,9% về lượng so với tháng 7/2010; tính cả 8 tháng đầu năm 2010, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 1.945 nghìn tấn với trị giá 629 triệu USD (trong đó phân ure ước đạt 503 nghìn tấn, trị giá 150 triệu USD), giảm 31,7% so với cùng kỳ năm 2009 và đạt 54% kế hoạch năm 2010.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2010
1. Về phát triển ngành du lịch
- Tăng cường quảng bá xúc tiến du lịch thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: CNN, BBC, Discovery...với khẩu hiệu “Việt Nam là một điểm đến an toàn thân thiện đối với bạn bè quốc tế ”
- Hiện tại, Thái Lan đang rơi vào khủng hoảng chính trị, đây là cơ hội lớn cho Việt Nam để đón khách du lịch quốc tế đến khu vực Đông Nam Á. Như vậy, để thu hút được khách du lịch trong thời gian tới Việt Nam cần thực hiện nhiều chương trình khuyến mại giảm giá đối với các Tour du lịch, vấn đề này cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan như: vận tải hàng không, hàng hải, khách sạn nhà hàng...
- Xu hướng khách du lịch bằng đường biển đến Việt Nam ngày càng tăng, khách du lịch bằng đường biển thường là khách có mức chi tiêu cao, do đó cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đặc biệt đối với các đối tượng khách du lịch này về visa, thời gian lưu trú trên bờ, khoảng cách được phép đi sâu vào nội địa....
- Cải cách các chính sách về xuất nhập cảnh, thủ tục xe ô tô du lịch qua biên giới cần thông thoáng hơn nữa để thúc đẩy phát triển mạnh khách du lịch thông qua con đường này.
2. Về xuất nhập khẩu
- Đẩy mạnh kiểm tra việc nhập khẩu các nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn hoặc tăng mạnh trong thời gian gần đây mà trong nước đã sản xuất được và có dấu hiệu dư thừa như sắt thép các loại, phân bón, một số loại máy móc thiết bị phụ tùng. Việc kiểm tra nên tập trung vào các vấn đề như gian lận thương mại, gian lận thuế và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
- Với các quốc gia Việt Nam có thâm hụt lớn trong quan hệ thương mại như Trung Quốc, Đài Loan và một số quốc gia ở châu Á khác, cần có giải pháp riêng để hạn chế nhập khẩu tùy thuộc vào đặc trưng trong thương mại buôn bán giữa Việt Nam và quốc gia đó.
- Rà soát các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã ký kết và cẩn trọng trong việc đẩy mạnh đàm phán ký kết các Hiệp định mới. Các Hiệp định thương mại quốc tế một mặt tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho hàng Việt Nam, mặt khác cũng gây nguy cơ nhập siêu nếu không đàm phán chặt chẽ.
- Hợp tác với các nước khác có cùng mặt hàng xuất khẩu (gạo với Thái Lan, cà phê với Indonexia, Braxin, đồ gỗ với Malaysia...) để tăng cường hiệu quả xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông sản có thế mạnh của Việt Nam.
- Chất lượng còn yếu kém của các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu như vận tải, bảo hiểm, logistic ở Việt Nam hiện nay đang gây hạn chế cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Đây là vấn đề cần được tập trung cải thiện trong thời gian trước mắt.
- Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường trên cơ sở mối quan hệ với lãi suất giữa tiền Việt Nam và ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu tư khác theo hướng ổn định, đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cần thiết cho các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
- Bên cạnh những giải pháp ngắn và trung hạn nêu trên, những giải pháp dài hạn hơn như phát triển nguồn nhân lực (có chính sách phát triển nguồn nhân lực trong những ngành cụ thể, có thế mạnh), phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ... cần được tập trung triển khai ngay trên thực tế.
3. Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
Trong những tháng tiếp theo, có nhiều dịp lễ như: Tết Trung thu, Quốc khánh 2/9, Đại lễ 1000 năm Thăng Long, và chuẩn bị cho Tết Nguyên đán Tân Mùi 2011. Đây chính là cơ hội để thúc đẩy tiêu dùng trong nước khi nhu cầu mua sắm của người dân sẽ tăng nhanh. Chính vì vậy mà công tác điều hành thị trường cần phải được tăng cường hơn nữa nhằm đảm bảo cung – cầu hàng hóa, cũng như bình ổn giá cả, không để lạm phát tăng cao.
- Trước hết, Sở Công Thương các tỉnh, thành phố cần đôn đốc các doanh nghiệp trên địa bàn chuẩn bị đủ lượng hàng hóa phục vụ cho các dịp lễ Tết, đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân. Đối với các tỉnh, thành phố có chương trình bình ổn thị trường cần nhanh chóng triển khai thêm nhiều điểm bán, đồng thời giám sát hoạt động của các doanh nghiệp tham gia. Việc triển khai tốt chương trình bình ổn sẽ đảm bảo cho các tỉnh, thành phố chủ động trong việc cung ứng hàng hóa, hạn chế tình trạng khan hàng sốt giá cũng như kiềm chế tốc độ tăng giá trên thị trường.
- Bộ Công Thương cần tăng cường chỉ đạo Cục Quản lý thị trường thực hiện quyết liệt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, giám sát việc thực hiện các quy định về lưu thông hàng hóa để ngăn chặn kịp thời và hiệu quả đối với các hiện tượng đầu cơ nâng giá và gian lận thương mại. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm vác quy định về quản lý giá.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, chỉ đạo các tập đoàn, doanh nghiệp lớn thuộc Nhà nước phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, dược phẩm, các đồ dùng thiết yếu, xi măng, phân bón…
- Những tháng cuối năm, chỉ số giá tiêu dùng thường có xu hướng tăng cao do nhu cầu mua sắm của người dân gia tăng. Do đó, Bộ Tài chính cần có các chính sách quản lý giá một số mặt hàng đầu vào sản xuất công nghiệp như: xăng dầu, điện, than… một cách hợp lý; giữ ổn định giá bán cho các hộ sản xuất, tiêu dùng và giá bán than cho điện năm 2010, nhằm tránh tình trạng giá hàng hóa tăng cao do chi phí sản xuất tăng.
- Cần tiếp tục nhân rộng chương trình khuyến khích tiêu dùng nội địa “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, cũng như tổ chức nhiều hơn các hội chợ uy tín như “Hàng Việt Nam chất lượng cao” tại nhiều tỉnh, thành hơn; hay các điểm bán hàng Việt Nam tại nông thôn với giá cả hợp lý. Một mặt, đáp ứng được nhu cầu của người dân, mặt khác sẽ góp phần tạo dựng uy tín, thương hiệu cho hàng Việt Nam.
3.2. Giải pháp cụ thể với các mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
- Bộ Tài chính cần sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ thuế để bình ổn giá xăng dầu, không để giá xăng tăng liên tục gây tác động tiêu cực đến tâm lý người tiêu dùng, đảm bảo việc điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu của các doanh nghiệp trong nước một cách hợp lý theo quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ.
- Tiếp tục tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ hệ thống phân phối xăng dầu tại các khu vực nhẳm đảm bảo bình ổn thị trường trên hai khía cạnh quan hệ cung – cầu và giá cả.
- Điều hành hiệu quả hoạt động của nhà máy lọc dầu Dung Quất nhằm đạt được mục tiêu sản xuất đã đề ra, góp phần đảm bảo nguồn cung xăng dầu.
- Các Bộ, ngành chức năng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống buôn lậu xăng dầu qua biên giới.
b) Sắt thép
- Kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch ngành thép, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, hạn chế cấp phép cho các dự án đầu tư sản xuất thép xây dựng mới, tuy nhiên cần khuyến khích các dự án sản xuất các mặt hàng thép trong nước chưa sản xuất được, nhằm hạn chế nhập khẩu thép.
- Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước, cũng như khuyến khích các công ty ngoài quốc doanh xây dựng hệ thống phân phối hiệu quả, giảm các tầng nấc trung gian, nhằm hạ giá thành sản phẩm.
c) Xi măng
- Trong năm 2010, lượng cung về xi măng đã vượt quá lượng cầu, dự kiến sẽ có khoảng 2 triệu tấn xi măng dư thừa trong năm 2010. Do vậy, việc tìm thị trường xuất khẩu xi măng và việc rà soát và lập lại quy hoạch ngành xi măng cần được gấp rút tiến hành, tránh tình trạng phá vỡ quy hoạch, tác động xấu tới môi trường và cảnh quan thiên nhiên.
- Bộ Xây dựng cần tiếp tục chỉ đạo các doanh nghiệp sản xuất cần nâng cao chất lượng xi măng, hạ giá thành sản phẩm, kết hợp xử lý môi trường. Ngoài ra, doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch dùng clinker sản xuất trong nước thay thế nhập khẩu trong các tháng cuối năm 2010, đặc biệt tại các tỉnh miền Nam.
d) Phân bón
- Tăng cường công tác hải quan, kiểm tra thị trường nhằm phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp nhập khẩu, buôn bán phân bón giả gây thiệt hại cho người nông dân.
- Nhằm tránh tình trạng khan hàng, sốt giá cục bộ cần tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt, tránh tình trạng sốt giá cục bộ, đặc biệt là tại miền Nam, trước khi bước vào vụ Đông - Xuân./.
File đính kèm: BCKinhteDichvu.pdf
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bố Kế hoạch và Đầu tư