Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 22/07/2010-13:49:00 PM
Báo cáo tình hình một số vấn đề nổi lên trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp tháng 7 và 7 tháng năm 2010
1. Nông nghiệp
Trọng tâm sản xuất nông nghiệp trong tháng chủ yếu tập trung vào gieo cấy lúa mùa, chăm sóc lúa hè thu và thu hoạch lúa hè thu sớm.
Tính đến trung tuần tháng 7/2010, cả nước đã gieo cấy được 942,6 nghìn ha lúa mùa, bằng 82,6% so cùng kỳ; Các tỉnh miền Bắc gieo cấy được 782,9 nghìn ha, chậm hơn 15,6% so cùng kỳ, trong đó các tỉnh Đồng bằng sông Hồng gieo cấy đạt 438,2 nghìn ha, bằng 97,3% so cùng kỳ; các tỉnh Thái Bình, Hà Nam, Hải Dương, Vĩnh Phúc đã cơ bản gieo cấy xong; một số tỉnh do nắng nóng, thiếu nước cấy nên diện tích đạt thấp: Hải Phòng đạt 77%, Thanh Hóa đạt 94,3%; Bắc Kạn đạt 30%, Lạng Sơn đạt 78,5%; Thái Nguyên đạt 85,7% so cùng kỳ.... Hiện nay các tỉnh miền Bắc đã có mưa nên đã phần nào hạn chế được tình hình khô hạn, các địa phương đang tập trung đẩy nhanh tiến độ gieo cấy, cấy dặm lại những diện tích lúa bị hạn và chăm sóc diện tích lúa mới cấy.
Tính đến 15/7/2010, cả nước gieo cấy 2165,1 nghìn ha lúa hè thu và thu đông, bằng 100,7%; trong đó các tỉnh ĐBSCL gieo cấy 1733,1 nghìn ha, bằng 99% so cùng kỳ (Đồng Tháp bằng 105%, Long An bằng 102%, An Giang bằng 99%, Kiên Giang bằng 99%, Cần Thơ bằng 98%). Hiện trà lúa hè thu chính vụ đã trỗ và đang trong giai đoạn chắc hạt, lúa hè thu sớm đã cho thu hoạch được 537,3 nghìn ha, chiếm 24,8% diện tích xuống giống; trong đó các tỉnh ĐBSCL thu hoạch 516,8 nghìn ha, chiếm 29,8% diện tích xuống giống. Do thời tiết mưa nhiều trong giai đoạn lúa chín, làm đổ ngã, và gặp bất lợi khi thu hoạch, phơi khô nên khả năng năng suất lúa hè thu giảm nhẹ so cùng kỳ. Lúa hè thu các vùng khác đang trong giai đoạn làm đòng, một số diện tích ở các tỉnh Bắc Trung bộ do nắng nóng đã phát sinh sâu bệnh như bọ trĩ, bệnh lùn sọc đen, chuột…
Tình hình khô hạn: Nắng nóng kéo dài ở Miền Bắc dẫn đến mực nước tại các sông thấp, không đủ để tưới dẫn đến nhiều diện tích không thể sản xuất vụ hè thu và mùa được, phải chuyển sang trồng cây khác (Yên Bái 700ha, Hoà Bình 2,8 nghìn ha, Ninh Bình 1 nghìn ha, Thanh Hóa 20 nghìn ha, Nghệ An 17 nghìn ha); Nhiều diện tích lúa và hoa màu mới cấy bị hạn, thiếu nước tưới, trong đó tình hình khô hạn diễn ra gay gắt tại các tỉnh Bắc Trung bộ. Theo báo cáo của các tỉnh, diện tích lúa hè thu và mùa thiếu nước trên 32 nghìn ha (Nghệ An 18,3 nghìn ha, trong đó hạn nặng 8 nghìn ha, Hà Tĩnh 10 nghìn ha trong đó 5 nghìn ha hạn nặng; Quảng Bình 3 nghìn ha, hạn nặng 460 ha; Quảng Trị 2,4 nghìn ha, hạn nặng 1 nghìn ha) và trên 10 nghìn ha hoa màu như ngô, lạc, đỗ tương thiếu nước tưới.
Tính đến giữa tháng 7 gieo trồng các cây rau màu đạt khá so với cùng kỳ; ngô đã gieo trồng đạt 863,6 nghìn ha, tăng khá (+10,7%); khoai lang đạt 120,9 nghìn ha, bằng 106,5%; đậu tương đạt 156,2 nghìn ha, bằng 107,1%; Lạc đạt 188,4 nghìn ha, bằng 90,0%; rau, đậu các loại đạt 602,7 nghìn ha, bằng 107,7% so cùng kỳ.
Chăn nuôi: Đàn trâu, đàn bò ước đạt xấp xỉ so cùng kỳ. Do nắng nóng nên các tỉnh miền núi rải rác đàn trâu bò bị bệnh chết (Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ngãi).
Đàn lợn ước đạt 97% so cùng kỳ năm trước, nhưng đã tăng chút ít so tháng trước do các tỉnh Miền Bắc đã khống chế được dịch tai xanh. Hiện nay dịch tai xanh đã xuất hiện tại các tỉnh ĐBSCL (Sóc Trăng) gây tâm lý lo ngại khi mở rộng đàn.
Đàn gia cầm tiếp tục tăng so tháng trước và so cùng kỳ năm trước do không bị ảnh hưởng của dịch bệnh, người dân yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất các loại hình trang trại, gia trại, khả năng đàn gia cầm phát triển tốt trong những tháng tiếp theo.
Tính đến ngày 21/7/2010, cả nước có 10 tỉnh là Lạng Sơn, Nghệ An, Cao Bằng, Sóc Trăng, Quảng Trị, Tiền Giang, Lào Cai, Long An, Bình Dươngvà Bạc Liêucó dịch tai xanh chưa qua 21 ngày. Tỉnh Hưng Yên đã qua 21 ngày không phát sinh thêm gia súc mắc bệnh tai xanh. Trong 2 tuần qua, toàn quốc không phát sinh thêm ổ dịch cúm gia cầm và lở mồm long móng.
2. Lâm nghiệp
Tháng 7 năm 2010, thời tiết có mưa trên diện rộng, các địa phương tập trung công tác trồng rừng mới, chăm sóc và khoanh nuôi, tái sinh rừng. Ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 21,1 nghìn ha, tăng 4,4% so cùng kỳ năm 2009; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 16,12 triệu cây, tăng 0,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 331,4 nghìn m3, tăng 6,1%.
Tính chung 7 tháng đầu năm 2010, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 97,3 nghìn ha, tăng 4,1% so cùng kỳ năm 2009; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 123,74 triệu cây, tăng 0,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 2.106,4 nghìn m3, tăng 6%.
Tình hình thiệt hại rừng:Trong kỳ tình hình nắng nóng vẫn tiếp diễn tại một số địa phương làm một số diện tích rừng bị cháy, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Trung và Tây Bắc. Tình hình chặt phá rừng còn xảy ra một số vụ ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa. Diện tích rừng bị cháy và bị phá 378,1 ha; trong đó cháy rừng xảy ra 105 vụ với diện tích 355,9 ha chủ yếu tại các tỉnh: Lai Châu 18 vụ, 28,2 ha; Nghệ An 29 vụ, 115,4 ha; Hà Tĩnh 27 vụ, 106 ha; Quảng Bình 7 vụ, 32 ha; Quảng Ngãi 17 vụ, 61 ha...; chặt phá rừng xảy ra 62 vụ với diện tích 22,2 ha.
Tính chung 7 tháng đầu năm 2010, diện tích rừng bị cháy và bị phá 7.732,3 ha, gấp 2,8 lần so cùng kỳ 2009; trong đó diện tích rừng bị cháy 6.703,9 ha, gấp 4,46 lần, diện tích bị phá 1.028,4 ha, bằng 82%.
3. Thủy sản
Tổng sản lượng thuỷ sản tháng 7 năm 2010 ước đạt 464,8 nghìn tấn, tăng 3.2% so cùng kỳ năm trước; trong đó cá 346,5 nghìn tấn tăng2,9%, tôm 70,5 nghìn tấn, tăng 6,3%.
Nuôi trồng thuỷ sản: Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng ước đạt 289 nghìn tấn, tăng 4,5% so cùng kỳ năm trước; trong đó cá 209 nghìn tấn tăng 4%, tôm 61,5 nghìn tấn tăng 7,1%. Nuôi cá tra không còn tình trạng ứ đọng như các năm trước, tuy nhiên tình hình sản xuất cá tra vẫn chưa được cải thiện nhiều do ảnh hưởng khủng hoảng nợ ở châu Âu đi kèm với đồng euro mất giá nên giá xuất khẩu cá tra trên thị trường tiếp tục giảm thấp, giá cá tra nguyên liệu trong nước có tăng nhẹ nhưng chi phí nguyên liệu đầu vào vẫn ở mức cao, giá thành xấp xỉ giá bán nên chỉ có các hộ nuôi qui mô lớn với diện tích trên 10 ha là có lãi, chưa khuyến khích được các hộ quy mô nhỏ, ít vốn nuôi trở lại.
Tuy đầu tháng nuôi trồng thủy sản gặp khó khăn do thời tiết nắng hạn, cùng với lịch cắt điện luân phiên ở một số địa phương làm cho một số diện tích nuôi tôm công nghiệp không có đủ ô xy dẫn đến tôm nuôi phát triển chậm. Tuy nhiên, tình hình nuôi tôm khá ổn định, hiện nay đang bước vào thời kỳ thu hoạch chính vụ, giá thu mua tôm sú nguyên liệu khá cao tạo tâm lý phấn khởi cho người nuôi thêm vào đó nuôi các loài cá và thủy sản khác với nhiều hình thức kết hợp vẫn tiếp tục phát triển khá đều trên cả nước, đặc biệt là trên các vùng nước như trên sông hồ đập thủy lợi, nuôi biển làm cho sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng tăng khá so với cùng kỳ năm trước.
Khai thác thuỷ sản: Sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 175,8 ngàn tấn, tăng 1,2 % so với cùng kỳ năm trước; trong đó khai thác biển đạt 159,1 nghìn tấn, tăng 1,5%. Hiện nay đang trong chính vụ cá Nam, các loài cá, mực xuất hiện nhiều trên các ngư trường, tuy nhiên trong tháng bị ảnh hưởng của cơn bão CONSON, các tàu thuyền phải dạt vào bờ tránh bão nên sản lượng khai thác thủy sản ước tính tăng nhẹ.
Tính chung 7 tháng đầu năm 2010, tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt 2894,6 ngn tấn, tăng 4,7% so cùng kỳ năm trước; trong đó sản lượng cá đạt 2230,4 nghìn tấn, tăng 4,5%, tôm 275,4 nghìn tấn, tăng 5,9%; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 1495,7 ngn tấn, tăng 5,1%, sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 1398,9 ngn tấn, tăng 4,2%. Vụ khai thác cá ngừ đại dương trong năm đã kết thúc, giá thu mua cao, sản lượng đạt khá (Bình Định khai thác được 3.400 tấn, tăng 14,1%; Phú Yên 4.800 tấn, tăng 14,9%).
4. Giá cả thị trường
Giá lúa gạo tháng 7 giảm nhẹ so với tháng 6 năm 2010: lúa tẻ thường phổ biến ở mức 3800-5300 tùy loại, giảm khoảng 200đ-300đ/kg; lúa Jasmine mới khoảng 5200đ/kg-5300đ/kg (đứng giá) kéo theo giá gạo giảm, cụ thể: gạo Jasmine khoảng 9200-10000/kg (giảm 500đ/kg-700đ/kg), gạo CLC khoảng 10000-11000đ/kg (đứng giá), gạo thường 6500-7500đ/kg (đứng giá).
Mặt hàng thịt lợn tháng 7 giảm giá so với tháng 6 năm 2010: lợn hơi khoảng 30.000-32.000đ/kg (giảm 1000đ/kg), giá lợn đùi ở mức 60000đ/kg – 65000đ/kg(đứng giá); thịt nạc vai 63000đ/kg-65000đ/kg (đứng giá), thịt rọi 55000-58000đ/kg (đứng giá).
Các loại thực phẩm khác nhìn chung trong tháng 7 ổn định, giá các loại thịt gà, bò, tôm, cá cụ thể như sau: vịt hơi khoảng 28000-30.000đ/kg (đứng giá), giá thịt bò khoảng 95000-100.000 đ/kg (đứng giá), thịt gà hơi 65.000 -70.000đ/kg(đứng giá); tôm càng xanh khoảng 190.000/kg-200.000đ/kg (tăng 10.000đ/kg); cá tra 20000- 22000đ/kg (đứng giá); cá diêu hồng 34.000-36.000 đ/kg (tăng 4000đ/kg).
Giá các loại rau củ quả trong tháng 7 giảm giá mạnh về mức giá tại thời điểm tháng 5 năm 2010, do nguồn cung dồi dào: Cải xanh 5000đ/kg (giảm 3000đ/kg); rau cải ngọt 3500đ/kg (giảm 3500đ/kg), rau muống 5000đ/kg (giảm 2000đ/kg), xà lách 8000đ/kg (giảm 8000đ/kg).
Giá phân bón trong nước trong tháng 7 không có biến động: Giá urê Trung Quốc khoảng 6600đ/k (đứng giá), giá Urê Phú Mỹ sản xuất 7000đ/kg (đứng giá), Urê Liên Xô 6800đ/kg (đứng giá); phân DAP (Philipin nhập khẩu) 10600đ/kg (đứng giá), DAP Trung Quốc 9600đ/kg (đứng giá)
5. Thiên tai
Ngày 18/7/2010 bão số 1 đã đổ bộ vào tỉnh Thái Bình, TP. Hải Phòng và các tỉnh Bắc Bộ làm chết: 01 người, mất tích 17 người, bị thương 03 người;Nhà bị tốc mái: 726 nhà (Quảng Ninh 351, Hải Phòng 375); Tàu bị đắm, vỡ: 43 tàu (Quảng Ninh 27; Hải Phòng 08; Quảng Ngãi 07; Hà Tĩnh 01); Lồng bè bị vỡ: 21 chiếc (Quảng Ninh 20; Hải Phòng 01).
Ngày 23/7/2010 bão số 2 đổ bộ vào Trung Quốc, gần biên giới Việt-Trung, chưa gây thiệt hại gì. Do ảnh hưởng của cơn bão số 1 và số 2, các vùng trong cả nước đều có mưa, đặc biệt là vùng núi phía Bắc, tình hình khô hạn đã được cải thiện trên phạm vi cả nước, các hồ chứa đã tăng dung tích, kịp thời phục vụ chống hạn và phát điện.
6. Về triển khai kế hoạch đầu tư XDCB năm 2010 (phần do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý)
a) Vốn Ngân sách tập trung do Bộ quản lý:
Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khối lượng thực hiện 7 thángnăm 2010 ước đạt 2.653,3 tỷ đồng, bằng 83,27% kế hoạch năm, trong đó:
- Vốn thực hiện đầu tưđạt2.480,3 tỷ đồng bằng 89,51% kế hoạch năm: Khối Thuỷ lợi : Ước đạt 1.931 tỷ đồng, bằng 111,3 % kế hoạch năm; Khối Nông nghiệp : Ước đạt 278,6 tỷ đồng, bằng 67,08% kế hoạch năm; Khối Lâm nghiệp : Ước đạt 123,8 tỷ đồng, bằng 47,64% kế hoạch năm; Khối Thuỷ sản : Ước đạt 17,8 tỷ đồng, bằng 71,2% kế hoạch năm; Khối Khoa học - Công nghệ : Ước đạt 29 tỷ đồng, bằng 21% KH; Khối Giáo dục - Đào tạo : Ước đạt 60 tỷ đồng, bằng 69% KH năm;Các ngành khác : Ước đạt 40 tỷ đồng, bằng 36% kế hoạch năm;
- Vốn thực hiện các chương trình mục tiêu Quốc gia : Ước đạt 30 tỷ đồng bằng 63,5% kế hoạch năm;
- Vốn đầu tư theo các mục tiêu nhiệm vụ cụ thể : Ước đạt 113,5 tỷ đồng bằng 42,35% kế hoạch năm;
- Vốn chuẩn bị đầu tư : Ước đạt 29,5 tỷ đồng, bằng 84,3% kế hoạch năm;
Theo đánh giá của Bộ, về cơ bản việc thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản vốn ngân sách tập trung năm 2010 đảm bảo đúng tiến độ và mục tiêu, yêu cầu, vượt mức kế hoạch được giao trong phạm vi đầu tư toàn ngành.
b) Các công trình thuộc nguồn vốn trái phiếu Chính phủ:
Khối lượng thực hiện 7 tháng ước đạt 2.510 tỷ đồng, bằng 62,75% kế hoạch, trong đó: Các dự án có trong Quyết định 171/2006/QĐ- TTg ước đạt 1.845 tỷ đồng, bằng 61,5% kế hoạch; Các dự án cấp bách bổ sung ước đạt 280 tỷ đồng, bằng 70% kế hoạch; Các dự án thuỷ lợi đồng bằng sông Hồng ước đạt 385 tỷ đồng, bằng 64,17% kế hoạch.
Tổng hợp báo cáo của Bộ, về cơ bản các dự án thủy lợi sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ vẫn duy trì được tiến độ thi công, khối lượng thực hiện và giải ngân đạt khá cao, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đầu tư.
7. Kiến nghị một số giải pháp trong 5 tháng cuối năm
(1). Tiếp tục thực hiện chiến lược thu mua, dự trữ, chế biến các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản chủ yếu. Đây là giải pháp lâu dài nhằm tránh sự quá phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu trong 1 giai đoạn nhất định, đồng thời tránh những rủi do cho người sản xuất.
(2). Triển khai các biện phápkỹ thuật kiểm soát chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản sản xuất trong nước cũng như nhập khẩu.
(3). Chủ động phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, nhất là tiếp tục theo dõi diễn biến của dịch tai xanh, bùng phát trở lại dịch cúm gia cầm vào mùa đông, không để lây lan trên diện rộng gây thiệt hại và gây tâm lý hoang mang cho người sản xuất. Tăng cường hơn nữa công tác giết mổ kiểm dịch và vận chuyển gia súc gia cầm để tránh tình trạng lây nan mầm bệnh sang các địa phương không bị dịch bệnh phát sinh.
(4). Chủ động phòng, chống thiên tai khi mùa mưa, bão đã đến để giảm thiểu thiệt hại về sản xuất, người, tài sản.
(5). Tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản, kể cả khai thác thị trưng tiêu dùng trong nước để thúc đẩy sản xuất phát triển./.

File đính kèm:
BCNNT7.10.pdf

Vụ Kinh tế Nông nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1287
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)